Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Biên tập bởi



tải về 1.25 Mb.
Chế độ xem pdf
trang7/99
Chuyển đổi dữ liệu16.05.2022
Kích1.25 Mb.
#51956
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   99
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé. Sau chiến
tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị tư bản
Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế lực
kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu những
công trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn hoặc có
nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tô. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn liền với
đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.
Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản loại
vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả tiểu
thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam, nhưng do
chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển được. Xét
về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước, có mâu
thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần chống
đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng không thể
thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ
công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa
những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa
vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần
yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng
hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ
tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông đã thức tỉnh,
họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đông đảo và đóng một vai trò
quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Giai cấp tiểu tư
13/222


sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của
dân tộc.
Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp
và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân
đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công
nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đã
hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển
nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), trong
đó có hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than), và 81.200 công nhân đồn
điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân,
trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung
tâm công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc
tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc
lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần cùng
hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về
lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền thống văn hóa
tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn
hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản
chất cách mạng của mình.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho phương
thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt
để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên minh
được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn
kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức lại và hình thành
được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết cách mạng
triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân trở thành người lãnh đạo cuộc
đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương
nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục, chứ
không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự khai hoá và cải
tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá" đó chính là sự khai
thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Hồ Chí Minh từng nói
14/222


về "nhà khai hoá" như sau: "Khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm
những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất"
, 2. Sđd, 2002,t.2, tr. 56, 115.
. Và nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hoá "điều
quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm.
Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy!"
2
.
Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Mặc
dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành thuộc địa thì
tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong
quỹ đạo chuyển động của xã hội đó.
Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu
thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng
thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc
càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái
lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc được
giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn
đề này từ năm 1924 rằng: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương
Tây... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi
được"
Sđd, 2002, t.1, tr. 464.
.
15/222



tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   99




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương