Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Biên tập bởi


Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam



tải về 1.25 Mb.
Chế độ xem pdf
trang6/99
Chuyển đổi dữ liệu16.05.2022
Kích1.25 Mb.
#51956
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   99
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực
dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước
ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác
nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai thác
thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam
có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới,
những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập
một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ
kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu
11/222


lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư
bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu
và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề.
Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền
Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các
tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc
đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất
thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó
với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên
nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa
các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc
Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong
bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động yêu
nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh
hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu
dân để dễ bề thống trị.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã
hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân được
đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn bảo
tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do chính
sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân
hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị phá
sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên một
bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn
với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản
động tay sai.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ và
tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực dân
chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho
vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa
không lối thoát. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Còn số đông vẫn
12/222


phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề ngay trên mảnh đất
mà trước đây là sở hữu của chính họ.
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong kiến,
đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu độc lập
dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất.
Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng to lớn
nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và có
sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng
của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   99




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương