GIÁ TRỊ NỔI BẬT CỦA KHU HỆ THÚ VƯỜN QUỐC GIA PHONG NHA - KẺ BÀNG HƯỚNG ĐẾN TIÊU CHÍ X VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA KHU DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI (UNESCO)
PGS. TS. Nguyễn Xuân Đặng, CN. Nguyễn Xuân Nghĩa
Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
ThS. Đinh Huy Trí, KS.Đinh Hải Dương
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
I. MỞ ĐẦU
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (VQG PN-KB) thuộc tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích là 116.824ha (kể cả phần mở rộng), thuộc vùng núi đá vôi lớn nhất thế giới - Vùng núi đá vôi Trung tâm Đông Dương. Đây được xem là một trong những mẫu hình độc đáo và đẹp nhất thế giới về sự kiến tạo carxtơ (UNESCO, 2003). Chính vì vậy, năm 2003, VQG PN-KB đã được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí I về địa chất, địa mạo.
Tuy nhiên, giá trị di sản thiên nhiên toàn cầu của VQG PN-KB không chỉ về địa chất, địa mạo mà cả giá trị về đa dạng sinh học. Với địa hình đa dạng, độc đáo và phức tạp, được bảo phủ tới 96% diện tích bởi các kiểu rừng kín thường xanh và rừng kín bán thường xanh, phần lớn còn nguyên sinh hoặc ít bị tác động, đã tạo cho VQG PN-KB một giá trị đa dạng sinh học hết sức đa dạng, phong phú và độc đáo. VQG PN-KB có thể đáp ứng được tiêu chí X về đa dạng sinh học cho Khu di sản thiên nhiên thế giới là "Chứa đựng các môi trường sống tự nhiên có ý nghĩa và quan trọng nhất phục vụ việc bảo tồn nguyên vị đa dạng sinh học, trong đó có những môi trường sống chứa đựng những loài đang bị đe dọa có giá trị nổi bật toàn cầu về ý nghĩa khoa học hoặc bảo tồn".
Để đánh giá đầy đủ các giá trị đa dạng sinh học toàn cầu của VQG PN-KB, cần tiếp tục có nhiều nghiên cứu hơn nữa. Báo cáo nhằm giới thiệu một số giá trị nổi bật toàn cầu của khu hệ thú VQG PN-KN mà các nhà khoa học đã khám phá ra cho đến ngày hôm nay.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHU HỆ THÚ VQG PN-KB
Cho đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về đa dạng sinh học khu hệ thú VQG PN-KB. Một số công trình nghiên cứu được thực hiện từ trước năm 2002 bởi một số cơ quan, tổ chức khoa học như: Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, Đại học Lâm Nghiệp, Đại học Quốc gia Hà Nội, Quỹ quốc tế về Bảo vệ thiên nhiên (WWF), Tổ chức Động Thực vật Quốc tế (FFI), Birdlife Quốc tế tại Việt Nam, Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga (VRTC). Kết quả của các nghiên này được trình bày trong các báo cáo hoặc các ấn phẩm khoa học đã xuất bản của nhiều tác giả như: Eames et al. (1994), Lê Xuân Cảnh và cs. (1997), Nguyễn Xuân Đặng và cs. (1998), Đỗ Tước và Trương Văn Lã (1999), Timmins et al. (1999), VRTC-WWF (1999). Năm 2002, Meijboom và Hồ Thị Ngọc Lanh (2002) đã tổng hợp kết quả từ các công trình nghiên cứu nói trên trong ấn phẩm "Hệ Động - Thực vật ở Phong Nha - Kẻ Bàng và Hin Nậm Nô. Dự án LINC-WWF, Quảng Bình, Việt Nam" và đưa ra danh sách 134 loài thú đã được ghi nhận ở VQG PN-KB. Tuy nhiên, danh sách này còn nhiều thiếu sót và chưa phản ánh đầy đủ tính đa dạng loài và các giá trị bảo tồn của khu hệ thú VQG PN-KB.
Trong các năm 2011 - 2012, trong khuôn khổ "Dự án Bảo tồn và Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng", một số cuộc điều tra khảo sát đa dạng sinh học khu hệ thú bên trong và xung quanh VQG PN-KB đã được thực hiện, tập trung vào các nhóm thú nhỏ (Gậm nhấm - Rodentia, Thú ăn sâu bọ insectivora, Dơi – Chiroptera) và thú Linh trưởng (Primates). Kết quả của các nghiên cứu này được trình bày trong 2 báo cáo khoa học sau:
Nguyễn Xuân Đặng, Nguyễn Mạnh Hà, W. Bleisch và cs. (2012). Khảo sát đa dạng sinh học các loài thú nhỏ, vượn và cu li bên trong và xung quanh Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam.
Vũ Đình Thống, Phạm Đức Tiến, Nguyễn Trường Sơn và cs. (2012). Khảo sát đa dạng sinh học dơi trong và xung quanh Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình, Việt Nam.
Các báo này không chỉ cung cấp tư liệu về các loài thú được ghi nhận trong các đợt khảo sát này mà còn cập nhật các tư liệu công bố trước đây, kể cả công trình tổng hợp của Meijboom và Hồ Thị Ngọc Lanh (2002). Vì vậy, việc đánh giá các giá trị đa dạng sinh học toàn cầu của khu hệ thú VQG PN-KB dưới đây được thực hiện dựa trên cơ sở số liệu của 2 báo cáo này.
2.1 Tính đa dạng và phong phú của khu hệ thú VQG PN-KB
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu đã thống kê được 153 loài thú, thuộc 93 họ và 11 bộ (Phụ lục 1). Con số này cho thấy, khu hệ thú VQG PN-KB có sự đa dạng loài rất cao, cao nhất so với các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên khác của Việt Nam (Bảng 1, Hình 1).
Bảng 1. Số loài thú đã ghi nhận ở một số Khu bảo tồn Việt Nam
Khu bảo tồn
|
Diện tích (ha)
|
Số loài thú
|
KBTTN Xuân Nha
|
21.420
|
92
|
VQG Pù Mát
|
94.275
|
132
|
VQG Bạch Mã
|
22.031
|
132
|
VQG Cúc Phương
|
22.200
|
135
|
VQG Xuân Sơn
|
15.048
|
76
|
VQG Tam Đảo
|
36.883
|
91
|
VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
|
116.824
|
153
|
Toàn Việt Nam
|
32.931.400
|
300
|
Ghi chú: Toàn Việt Nam - theo Nguyễn Xuân Đặng 2010; VQG Bạch Mã - theo Lê Vũ Khôi và cs. 2004; VQG Cúc Phương - theo Lê Trọng Đạt, 2007; VQG Xuân Sơn - theo Trần Minh Hợi và cs., 2008; VQG Tam Đảo - theo Nguyễn Xuân Đặng và cs. 2011. VQG Phong Nha - Kẻ Bàng - tổng hợp số liệu từ Nguyễn Xuân Đặng và cs. (2012) và Vũ Đình Thống và cs. (2012).
Hình 1. So sánh sự đa dạng loài của khu hệ thú ở một số khu bảo tồn
và toàn Việt Nam
Trong số 153 loài thú đã ghi nhận, có 53 loài có giá trị bảo tồn cao, gồm 37 loài có tầm quan trọng bảo tồn cấp toàn cầu và 47 loài có tầm quan trọng bảo tồn cấp quốc gia (Bảng 2)
Bảng 2. Danh sách các loài thú có giá trị bảo tồn cấp toàn cầu và quốc gia
TT
|
Tên khoa học
|
Tên phổ thông
|
SĐVN
2007
|
IUCN
2012
|
|
Galeopterus variegatus
|
Chồn dơi
|
EN
|
|
|
Nycticebus bengalensis
|
Culi lớn
|
VU
|
VU
|
|
Nycticebus pygmaeus
|
Culi nhỏ
|
VU
|
VU
|
|
Macaca leonina
|
Khỉ đuôi lợn
|
VU
|
VU
|
|
Macaca assamensis
|
Khỉ mốc
|
VU
|
NT
|
|
Macaca mulatta
|
Khỉ vàng
|
LR
|
|
|
Macaca arctoides
|
Khỉ mặt đỏ
|
VU
|
VU
|
|
Trachypithecus hatinhensis
|
Voọc Hà Tĩnh
|
EN
|
EN
|
|
Pygathrix nemaeus
|
Chà vá chân nâu
|
EN
|
EN
|
|
Nomascus siki
|
Vượn SiKi
|
EN
|
EN
|
|
Nesolagus timminsi
|
Thỏ vằn Trường Sơn
|
EN
|
|
|
Cynopterus brachyotis
|
Dơi chó ngắn
|
VU
|
|
|
Rhinolophus thomasi
|
Dơi lá tôma
|
VU
|
|
|
Rh. paradoloxophus
|
Dơi lá quạt
|
VU
|
|
|
Hipposideros scutinares
|
Dơi nếp mũi Đông Dương
|
|
VU
|
|
Myotis siligorensis
|
Dơi tai sọ cao
|
LR
|
|
|
Myotis ricketti /pilosus
|
Dơi tai ric-ket
|
|
NT
|
|
Ia io
|
Dơi I ô
|
VU
|
|
|
Miniopterus schreibersii
|
Dơi cánh dài
|
|
NT
|
|
Harpiocephalus harpia
|
Dơi mũi ống cánh lông
|
VU
|
|
|
Manis javanica
|
Tê tê Java
|
EN
|
EN
|
|
Manis pentadactyla
|
Tê tê
|
EN
|
EN
|
|
Prionailurus viverrinus
|
Mèo cá
|
EN
|
EN
|
|
Pardofelis temminckii
|
Beo lửa
|
EN
|
NT
|
|
Pardofelis marmorata
|
Mèo gấm
|
VU
|
VU
|
|
Neofelis nebulosa
|
Báo gấm
|
EN
|
VU
|
|
Panthera pardus
|
Báo hoa mai
|
CR
|
NT
|
|
Panthera tigris
|
Hổ
|
CR
|
EN
|
|
Viverra zibetha
|
Cầy giông thường
|
|
NT
|
|
Viverra megaspila
|
Cầy giông sọc
|
VU
|
VU
|
|
Prionodon pardicolor
|
Cầy gấm
|
VU
|
|
|
Arctictis binturong
|
Cầy mực
|
EN
|
VU
|
|
Arctogalidia trivirgata
|
Cầy tai trắng
|
LR
|
|
|
Chrotogale owstoni
|
Cầy vằn bắc
|
VU
|
VU
|
|
Cuon alpinus
|
Chó sói
|
EN
|
EN
|
|
Ursus thibetanus
|
Gấu ngựa
|
EN
|
VU
|
|
Helarctos malayanus
|
Gấu chó
|
EN
|
VU
|
|
Arctonyx collaris
|
Lửng lợn
|
|
NT
|
|
Lutra lutra
|
Rái cá thường
|
VU
|
NT
|
|
Lutrogale perspicillata
|
Rái cá lông mượt
|
EN
|
VU
|
|
Aonyx cinerea
|
Rái cá vuốt bé
|
VU
|
VU
|
|
Tragulus kanchil
|
Cheo cheo nhỏ
|
VU
|
|
|
Rusa unicolor
|
Nai
|
VU
|
VU
|
|
Muntiacus vuquangensis
|
Mang lớn
|
VU
|
EN
|
|
Bos frontalis
|
Bò tót
|
EN
|
VU
|
|
Capricornis milneedwardsii
|
Sơn dương
|
EN
|
NT
|
|
Pseudoryx nghetinhensis
|
Sao la
|
EN
|
CR
|
|
Belomys pearsonii
|
Sóc bay lông chân
|
CR
|
|
|
Hylopetes alboniger
|
Sóc bay đen trắng
|
VU
|
|
|
Petaurista philippensis
|
Sóc bay lớn
|
VU
|
|
|
Petaurista elegans
|
Sóc bay sao
|
EN
|
|
|
Ratufa bicolor
|
Sóc đen trắng
|
VU
|
NT
|
|
Laonastes aenigmamus
|
Chuột đá Trường Sơn
|
|
EN
|
Ghi chú: SĐVN – Sách Đỏ Việt Nam (2007), IUCN - Danh lục Đỏ IUCN (2012). CR - Cực kỳ nguy cấp, EN – Nguy cấp, VU - Sẽ nguy cấp LR, NT – Đe dọa thấp
2.2. Các loài có giá trị nổi bật toàn cầu về ý nghĩa khoa học và bảo tồn
Trong số các loài giá trị bảo tồn cao nêu trên, có 6 loài có giá trị nổi bật toàn cầu về ý nghĩa khoa học và bảo tồn theo tiêu chí X của khu di sản thiên nhiên thế giới, bao gồm Voọc Hà Tĩnh (Trachypithecus hatinhensis), Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), Vượn SiKi (Nomascus siki), Mang lớn (Muntiacus vuquangensis), Thỏ vằn (Nesolagus timminsi) và Chuột đá trường sơn (Laonastes aenigmamus).
1. Voọc hà tĩnh (Trachypithecus hatinhensis)
Tình trạng bảo tồn: Sách Đỏ Việt Nam (2007): EN – Nguy cấp, Danh lục Đỏ IUCN (2012): EN – Nguy cấp.
Vùng phân bố hiện nay của Voọc hà tĩnh chỉ giới hạn trong khu vực rừng trên núi đá vôi thuộc phía Tây các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và một diện tích nhỏ hơn thuộc phía Đông tỉnh Khăm Muộn, Lào (Birdlife International 2005; Duckworth et al. 1999; Nadler et al. 2003. trong Nadler et al. 2004). Quần thể Voọc hà tĩnh ở VQG PN-KB là quần thể lớn nhất của loài này ở Việt Nam và Lào (Nadler et al. 2003). Năm 2002, Phạm Nhật ước tính, số lượng Voọc hà tĩnh ở VQG PN-KB chỉ tối đa là 800 cá thể. Tuy nhiên, năm 2009, trên cơ sở kết quả khảo sát kỹ hơn tại 4 khu vực bên trong VQG PN-KB, Haus và cộng sự (Haus et al. 2009) đã ước tính số lượng Voọc Hà Tỉnh ở VQG PN-KB có thể đạt từ 1.670 đến 2.610 cá thể. Tuy nhiên, săn bắn và suy thoái rừng là nguy cơ đe dọa chính và nghiêm trọng đối với quần thể Voọc Hà Tỉnh ở VQG PN-KB và các nơi khác.
2. Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus)
Tình trạng bảo tồn: Sách Đỏ Việt Nam (2007): EN – Nguy cấp, Danh lục Đỏ IUCN (2012): EN – Nguy cấp.
Chà vá chân nâu là loài thú đặc hữu của dãy Trường Sơn, chỉ phân bố ở Trung Lào và Bắc Trường Sơn của Việt Nam (Nadler et al. 2007). Ở Việt Nam, loài này có phân bố từ Nghệ An đến Kon Tum. Quần thể lớn nhất hiện nay là ở VQG PN-KB, với số lượng cá thể ước tính từ 445 – 2.137 cá thể (Haus et al. 2007, trong Nadler 2010). Trong khi đó, các quần thể đáng kể khác như quần thể ở KBTTN Sơn Trà chỉ khoảng 198 – 208 cá thể (Đinh Thị Phương Anh, 2007) và quần thể ở VQG Bạch Mã chỉ còn 20-26 cá thể (Lê Thị Diên và cs. 2010). Săn bắn và suy thoái sinh cảnh rừng là hai nguy cơ đe dọa chính và nghiêm trọng đối với quần thể Chà vá chân nâu ở VQG PN-KB và những nơi khác (Nadler, 2010).
3. Vượn Siki (Nomascus siki)
Tình trạng bảo tồn: Sách Đỏ Việt Nam (2007): EN – Nguy cấp, Danh lục Đỏ IUCN (2012): EN – Nguy cấp.
Vượn siki là loài đặc hữu của dãy Trường Sơn, chỉ phân bố ở khu vực Trung Trường Sơn thuộc Việt Nam và Lào. Ở Việt Nam, Vượn Siki phân bố từ Nam Hà Tĩnh đến Bắc Quảng Trị. Chưa có nghiên cứu tính toán số lượng cá thể vượn Siki ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy, quần thể lớn nhất của loài này là ở VQG PN-KB với số lượng ước tính trên 50 đàn. Riêng ở khu vực U Bò của VQG PN-KB, diện tích khoảng 5.400 ha đã ghi nhận tới 37 đàn với khoảng 101 cá thể (Le Trong Dat et al. 2009). Trong khi đó, quần thể vượn siki lớn thứ 2 ở Việt Nam là ở KBTTN Bắc Hướng Hóa (Quảng Trị), ước tính chỉ có trên 23 đàn (Le Trong Dat et al. 2008). Săn bắn và phá hoại rừng đang là nguy cơ đe dọa nghiêm trọng nhất đối với quần thể vượn Siki ở VQG PN-KB nói riêng và trên khắp vùng phân bố của chúng nói chung (Rawson et al. 2011).
4. Mang lớn (Muntiacus vuquangensis)
Tình trạng bảo tồn: Sách Đỏ Việt Nam (2007): VU – Sẽ nguy cấp, Danh lục Đỏ IUCN (2012): EN – Nguy cấp.
Mang lớn chỉ phân bố ở dãy Trường Sơn thuộc cả Việt Nam và Lào. Ở Việt Nam, Mang lớn phân bố từ Nghệ An đến Lâm Đồng (Đặng Huy Huỳnh và cs. 2010). Chưa có nghiên cứu chính thức về tình trạng quần thể Mang lớn ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy trước đây Mang lớn khá phong phú ở khu vực VQG Vũ Quang. Nhưng hiện nay chúng trở nên rất hiếm do nạn săn bắn trái phép (Timmins et al. 2008).
Ở VQG PN-KB, Mang lớn đã được ghi nhận qua các cặp sừng của thú bị săn bắn, tình trạng quần thể của loài này chưa được nghiên cứu. Vì vậy, những nghiên cứu tiếp theo trong trương lai, với các công cụ nghiên cứu phù hợp (bẫy ảnh, áp dụng kỹ thuật phân tử,..) cần được tiến hành để xác định tình trạng của các quần thể loài và có các giải pháp bảo tồn phù hợp.
5. Thỏ vằn Trường Sơn (Nesolagus timminsii)
Tình trạng bảo tồn: Sách Đỏ Việt Nam (2007): EN – Sẽ nguy cấp, Danh lục Đỏ IUCN (2012): DD – Thiếu số liệu.
Thỏ vằn Trường Sơn cũng là loài đặc hữu cho Bắc và Trung Trường Sơn, cả ở Việt Nam và Lào, nhưng chủ yếu là Việt Nam (Phạm Trọng Ảnh và cs. 2007, Abramov et al. 2008). Ở Việt Nam, Thỏ vằn Trường Sơn phân bố từ Nghệ An (VQG Pù Mát) đến Thừa Thiên Huế (A Lưới), vùng ghi nhận nhiều nhất là Quảng Bình và Quảng Trị. Tại VQG PN-KB, mẫu Thỏ vằn Trường Sơn đầu tiên thu được tại khu vực bản A Rem và gần đây (2011, 2012) bẫy ảnh đã chụp được loài này tại một số địa điểm thuộc vùng lõi VQG PN-KB.
Trên thế giới, giống Thỏ vằn (Nesolagus) chỉ có 2 loài: Thỏ vằn sumatra (N. netcheri) ở Inđônêxia và Thỏ vằn trường sơn (N. timminsii) ở Việt Nam. Thỏ vằn Trường Sơn chỉ mới được phát hiện năm 2000 (Abramov et al. 2008), tình trạng quần thể và đặc điểm sinh học, sinh thái của loài này còn ít được biết đến. Do có vùng phân bố rất hẹp, cùng với các đe dọa (săn bắt và mất sinh cảnh) đang diễn ra mạnh trên khắp vùng phân bố, nên Thỏ vằn Trường Sơn đang bị đe dọa tuyệt chủng mạnh, cần đưa vào Danh lục Đỏ của IUCN ở mức EN – nguy cấp như Sách Đỏ Việt Nam (2007) đã làm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |