GIÁ trị NỔi bậT ĐỊa chấT, ĐỊa mạo của khu vực di sản thiên nhiên thế giới phong nha kẻ BÀNG



tải về 4.04 Mb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu28.11.2017
Kích4.04 Mb.
#34673
1   2

Hình 2. Đá vôi hệ tầng Bắc Sơn (C – P pm)

(Ảnh Tạ Hòa Phương, 1999)

Mặt cắt trầm tích phản ánh bồn trầm tích nông dần và mở rộng chiều ngang. Từ môi trường khử yếu trong Carbon sớm chuyển sang môi trường oxy hoá ở Carbon giữa và Permi.

- Giai đoạn Permi muộn được thể hiện qua hệ tầng Khe Giữa (P2kg) phản ánh một kiểu trầm tích carbonat của một bồn trũng tàn dư vừa mang tính kế thừa của bồn Carbon muộn - Permi sớm vừa bị ảnh hưởng của quá trình nâng trồi khối tảng, đá vôi hệ tầng Bắc Sơn bị dăm kết hoá để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn tạo núi sau Carbon – Permi [3,14].



1.4. Giai đoạn tạo núi Mesozoi (Indosinia)

- Trong Trias - Jura toàn bộ vùng Phong Nha - Kẻ Bàng biến thành một miền lục địa, nâng lên tạo núi dạng khối tảng. Phía Bắc vùng nghiên cứu, từ sông Gianh đến sông Cả lại bị sụt võng tạo nên một bồn trầm tích - phun trào axit kiểu rift ven rìa. Còn lại từ sông Gianh (đứt gãy Rào Nậy) đến đèo Hải Vân trở thành một miền cung cấp vật liệu cho các biển xung quanh.

- Đến Creta, trong xu thế chuyển động nâng tạo núi kiểu khối tảng lại xuất hiện nhiều bồn trũng trước núi, ven rìa và nội lục dạng đẳng thước, bầu dục, bán liên thông với đại dương ở phía Đông và cả phía Tây Lào.

Trong vùng nghiên cứu còn ghi nhận được hai bồn trầm tích Creta thuộc hệ tầng Mụ Giạ (K mg) ở phía Đông Nam và phía Tây khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng, chồng gối bất chỉnh hợp trên khối đá vôi này. Bồn trầm tích này chủ yếu thành tạo các tướng cuội, sạn, cát xen bột - sét, cát chứa vôi, sét bột chứa vôi vũng vịnh và hồ lục địa.

Hệ tầng Mụ Giạ chứa các hoá thạch Chân rìu tương tự hoá thạch gặp trong tầng trầm tích màu đỏ ở Mường Pha Lan bên Lào [2,7,13].


  1. ĐA DẠNG ĐỊA HÌNH VÀ ĐỊA MẠO GẮN LIỀN VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỊA CHẤT NỘI SINH VÀ NGOẠI SINH

2.1. Các bậc địa hình

Địa hình hiện nay của vùng Phong Nha - Kẻ Bàng là hệ quả của chuyển động kiến tạo Cenozoi và các quá trình địa chất ngoại sinh như xói mòn và quá trình Karst do hoạt động của nước diễn ra trong suốt 65 triệu năm trở lại đây thể hiện qua sự phân bậc địa hình. Ở vùng này có thể dễ dàng nhận thấy 5 bề mặt san bằng theo các độ cao khác nhau như sau:

- Bậc địa hình 1.600 – 1.400m là di tích của bề mặt san bằng cao nhất và cổ nhất khoảng 35 - 26 triệu năm, chỉ phát triển trên các trầm tích lục địa màu đỏ tuổi Creta hệ tầng Mụ Giạ (Kmg). Đây là bề mặt san bằng tuổi Paleogen đã được nghiên cứu và công nhận trên toàn Đông Dương, tương ứng với pha tách giãn biển Đông đầu tiên và sụt lún tạo các bồn trũng Eocen - Oligocen.

- Bậc địa hình 1.000 - 800m (ở phía Tây) và 700-600m (ở phía Đông): là bậc địa hình thứ hai, dấu hiệu san bằng chu kỳ nâng thứ hai trong Cenozoi. Bề mặt địa hình này được phát hiện nhờ các mảnh sót san bằng trên các đỉnh núi lục nguyên ven rìa khối đá vôi và bề mặt đỉnh của đá vôi. Tuổi của bề mặt này được xác định vào Miocen (từ 23 đến 5 triệu năm).

- Bề mặt 600 - 400m và 300 - 200m: Là sản phẩm san bằng của pha kiến tạo nâng trong Pliocen (từ 5 đến 1,8 triệu năm). Bề mặt này tương ứng với bề mặt san bằng Pliocen rất phổ biến đã được công nhận của nhiều tác giả ở Việt Nam (Nguyễn Cẩn, Nguyễn Thế Thôn, Rezanov, 1969; Lê Đức An, 1985; Nguyễn Thế Thôn, 1978...). Tuy nhiên bề mặt này chỉ mới phát hiện được ở ven rìa khối đá vôi dưới dạng các núi đá vôi xen đá lục nguyên có đỉnh tương đối bằng và núi đá lục nguyên đỉnh tròn cũng như các vách cổ, ngấn biển cổ và các hang động cổ bị "treo" ở độ cao tương ứng trên sườn vách các khối núi đá vôi, dấu hiệu mài mòn, rửa lũa của bề mặt mực nước cổ khi chưa có chuyển động nâng kiến tạo.

- Các bề mặt san bằng từ 100m trở xuống ở Việt Nam nói chung và vùng Phong Nha - Kẻ Bàng nói riêng đều xếp vào tuổi Đệ Tứ (từ 1,8 triệu năm trở lại đây).



2.2. Các dạng địa hình tiêu biểu

2.2.1. Một số dạng địa hình phi Karst

Địa hình phi Karst phân bố xung quanh khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng gồm các kiểu sau đây:



  • Núi đá magma dạng vòm cao trung bình phân bố ở phía Đông Phong Nha.

  • Núi đá lục nguyên có đỉnh bóc mòn khá cao (1.200 – 1.600m) đóng vai trò bồn thu nước cho khối đá vôi phân bố ở cực Nam của khối.

  • Dãy núi thấp khối tảng bóc mòn trên đá lục nguyên, đường phân thủy lượn sóng thoải phân bố ở phía Bắc khối đá vôi.

- Các núi đá phi Karst là lưu vực thu nước và chuyển tải các vật liệu trầm tích lục nguyên (cuội, sạn, cát, bột và sét) lắng đọng trong các thung lũng sông Chày, sông Son và trong các hang động.

- Địa hình đa dạng và nguồn nước phong phú của lưu vực là một trong các nguyên nhân tạo nên tính đa dạng sinh học trong hang động và trong khu vực.



2.2.2. Địa hình Karst

Địa hình Karst là dạng địa hình đặc trưng nhất của khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng, chiếm 2/3 diện tích vùng Di sản, đồng thời cũng là khối đá vôi nguyên vẹn lớn nhất ở Việt Nam và tiếp tục kéo sang Lào tạo nên một hoang mạc đá vôi kỳ vĩ.

Có thể chia địa hình Karst vùng nghiên cứu ra hai dạng:


  • Đá vôi đỉnh dạng nón kiểu hoang mạc: Bên ngoài liên kết khối tảng, bên trong có địa hình âm khép kín. Địa hình này đặc trưng cho đá vôi Carbon - Permi dạng nền.

  • Đá vôi dạng núi sót đỉnh dạng nón, sườn vách dốc đứng còn ghi rõ dấu ấn các kliff do xiết trượt khi đứt gãy và chuyển động khối tảng và giữa chúng là các thung lũng sông suối rộng. Kiểu địa hình này phát triển ở rìa các khối đá vôi dọc theo sông Son, sông Chày lên Minh Hóa [6,19,11].

3. ĐỊA CHẤT HANG ĐỘNG PHONG NHA – KẺ BÀNG

Đây là một khái niệm mới tiếp cận theo quan điểm hệ thống và nhân quả, có thể xác định ba giai đoạn hoạt động tạo nên hệ thống hang động có cảnh quan đẹp như sau:

3.1. Giai đoạn đứt gãy kiến tạo tạo nên hệ thống hang thô:

- Đứt gãy phương Tây Bắc – Đông Nam: Tái hoạt động trong Kainozoi hình thành các hang Én, hang tối, hang Phong Nha, hang Khe Tiên…

- Đứt gãy phương Đông Bắc – Tây Nam: Do ảnh hưởng của tách giãn biển đông tạo nên hang Khe Ry, hang Vòm…

- Các hang có phương Bắc Nam và Tây Đông là kết quả của hai hệ thống đứt gãy thứ cấp cộng ứng. Ngoài ra hệ thống khe nứt mở hoặc nửa kín sinh ra là do cộng ứng lực thứ cấp.

Do bản chất đá vôi là dễ bị biến dạng giòn, mặt khác đá vôi Phong Nha có tuổi Carbon - Permi kiểu nền dạng khối khá tinh khiết nên tất cả các phương phá hủy trên đều không chạy theo tuyến thẳng mà thường khúc khuỷu hoặc có dạng cành cây ở phần đầu nguồn.

Khi hai phương đứt gãy cắt nhau, hang sẽ được mở rộng nhiều hơn, điều này thấy rõ hơn trong hang Phong Nha.

Để các tuyến đứt gãy và khe nứt kiến tạo trở thành hang Karst có thạch nhũ lại cần có hai điều kiện:



  1. Phá hủy cơ học: Khối đá vôi phải đủ lớn, đứt gãy tương đối sâu để đáy hang và thành hang được mở rộng nhờ phá hủy cơ học song trần hang phải được khép lại nửa kín, thích hợp cho cơ chế tạo thạch nhũ như một nóc nhà dột.

  2. Phá hủy hóa học: Sự mở rộng bào mòn hai thành hang và trần của hang là nhờ các dòng sông ngầm hoạt động lúc mực nước cao nhất (mùa lũ và biển tiến cực đại).

Sự bào mòn đá vôi trong hang và tạo thành thạch nhũ đá, măng đá và travertin (mùa khô) được khái quát qua phương trình phản ứng thuận nghịch sau đây:

CaCO3 + CO2 + H2O ↔ Ca(HCO3)



Nhũ đá, măng đá chính là CaCO3 tinh khiết, kết tủa ở trạng thái nửa khô, nửa ướt trong môi trường không khí. Như vậy, vào mùa mưa lũ thì phương trình chuyển về bên vế phải, đá vôi bị hòa tan gặm mòn, còn mùa khô hơn thì phương trình chuyển sang trạng thái kết tủa CaCO3 thứ sinh.



Hình 3: Đường hầm trong hang Phong Nha

(Ảnh H.Limbert)


Hình 4: Dòng sông ngầm chảy giữa các vách đá trong hang Phong Nha

(Ảnh H.Limbert)



Hình 5: Sơ đồ hệ thống hang động Phong Nha – Kẻ Bàng

Bảng 1: Tuổi địa chất của hang động


TT

Tên hang


Độ cao đáy hang (m)

Hướng

Tuổi địa chất


1

Khe Ry, Én

1500 - 1600

TN  ĐB

Oligocen: 28 triệu năm

300

2

Vòm

360

TN  ĐB

Pliocen: 5 triệu năm

0

3

Thuộc hang Vòm

93

N  B

Q11: 1,8 triệu năm đến nay

Q12: 700.000 – 125.000 năm

Q13: 125.000 – 10.000 năm

Q2: 10.000 năm đến nay



43

24

0
Bảng 1 đã chỉ ra rằng, độ cao tương đối của cửa hang và đáy hang từ đầu nguồn hang đến cửa động Phong Nha (0m) là giảm dần theo bậc và có thể đối sánh với tuổi của thềm và bề mặt san bằng như đã phân tích ở trên. Tổng hợp các vị trí độ cao khác nhau của nhiều hang trong khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng có cùng một lịch sử tiến hóa địa chất - địa mạo, ta có 5 bậc độ cao:

  • 1.500 – 1.600m có tuổi Oligocen

  • 300 - 360m có tuổi Pliocen

  • 93m có tuổi Pleistocen sớm

  • 43m có tuổi Pleistocen giữa

  • 24m có tuổi Pleistocen muộn


Hình 5: Khối nhũ đá khổng lồ trong hang Phong Nha

(Ảnh H.Limbert)

4. MỘT SỐ NHẬN XÉT SO SÁNH VỚI CÁC KHU VỰC KHÁC TRÊN THẾ GIỚI


Hiện nay, trên thế giới có nhiều vùng Karst đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên, trong đó có vịnh Hạ Long ở Việt Nam. Có thể nói, tất cả các vùng di sản này đều có những nét đặt thù của mình và hầu như không giống nhau. Tuy nhiên, hầu hết các di sản thiên nhiên thế giới có hiện tượng là địa hình Karst đều nằm ở vùng ôn đới, nhưng tập trung nhiều hơn ở châu Âu và Bắc Mỹ như Vườn quốc gia Pirin ở Bungari, Vườn quốc gia hồ Plitvice ở Croatia, các hang động Skocjan ở Slovenia, Vườn quốc gia Dales - Yorkshire ở Vương quốc Anh, vùng các hang động Aggtelek và Slovak nằm ở vùng biên giới hai nước Hungary và Slovak, Vườn quốc gia hang động Carlsbad và Vườn quốc gia hang Mammothe ở Hoa Kỳ, vùng hoang dã Tasman ở Australia...Tất cả các vùng này trong lịch sử phát triển của mình đều chịu ảnh hưởng rất lớn của các thời kỳ băng hà, đặc biệt là những đợt băng hà trong thời kỳ Đệ tứ. Dấu ấn của các thời kỳ băng hà này còn thể hiện khá rõ ở các dạng địa hình Karst trên mặt. Đó là đường nét mềm mại của các khối đá vôi, đường viền của các carư, nhiều hồ nước và các hẻm vực khá sâu và dốc đứng. Mặt khác, do hầu hết nằm trên các lục địa cổ và cách xa các đai động hiện đại (ranh giới giữa các mảng thạch quyển) nên các thành tạo carbonat ở các vùng này đều có thể nằm nghiêng thoải hoặc gần ngang và phủ bất chỉnh hợp góc rất rõ rệt với các thành tạo khác và lại là các vùng địa hình cao hơn so với xung quanh. Vì vậy, có rất nhiều thác nước đẹp trong các di sản này. Cũng vì vậy, các hang động ở đây có độ sâu rất đáng kể. Trong số các Vườn quốc gia đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới này thì vùng hang động của khối Karst Aggtelek và Slovak được xem là hệ thống Karst ôn đới điển hình.

Vùng Phong Nha - Kẻ Bàng hoàn toàn khác với những di sản nói trên. Sự khác nhau này do hai nguyên nhân chính là cấu trúc địa chất và khí hậu quyết định. Vùng Phong Nha - Kẻ Bàng nằm trong đai tạo núi Alpi - một đai núi trẻ phát triển mạnh mẽ vào Cenozoi. Do đó khối đá vôi ở đây bị biến dạng khá mạnh do đứt gãy và khe nứt. Khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng lại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do vậy các hiện tượng Karst ở vùng này không giống với các vùng ôn đới cả về cường độ quá trình Karst lẫn các địa hình do nó tạo ra (trên mặt cũng như ngầm sâu ở phía dưới). Về mặt này thì vùng Phong Nha - Kẻ Bàng có nhiều đặc điểm chung với các quá trình Karst nhiệt đới.

Tại khu vực nhiệt đới nói chung, ở châu Á và Đông Nam Á nói riêng, một số Vườn quốc gia cũng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới như Vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak thuộc Malaysia, Vườn quốc gia Lorents ở Tây Irian thuộc Indonesia... và nhiều vùng Karst khác ở Đông Nam Á đã được điều tra khá chi tiết.

Vườn quốc gia Gunung Mulu nằm ở tỉnh Sarawak một tỉnh của Malaysia trên đảo Borneo. Có mặt trong Vườn quốc gia này là loại đá vôi san hô được tích tụ trong khoảng thời gian từ giữa Eocen cho đến cuối Miocen sớm với diện tích rất đáng kể.

Khung cảnh như vậy cũng được mô tả ở sông Baliem trong Vườn quốc gia Lorents, tây Irian của Indonesia hoặc các vùng khác ở Papua New Guinea - Cả hai khu vực này đều nằm trên đảo New Guinea và một phần đảo New Britain - Các vùng này cũng có khí hậu xích đạo ẩm ướt với nhiệt độ và lượng mưa quanh năm đều cao. Đá vôi ở đây cũng có tuổi từ Oligocen đến Miocen với bề dày trên 1.000m.Ở Tây Irian, Baliem cũng có thể xem là một sông ngầm lớn trên thế giới có lưu lượng trung bình khoảng 100m3/s và tăng lên khoảng 400m3/s vào mùa mưa và nằm dưới đáy một hố sâu (phễu Karst) tới 200m. Trong dòng sông này cũng có một phòng có thể tích khoảng 45.000m3. Ở đảo New Britain thuộc Papua New Guinea có một dòng sông nước chảy cuồn cuộn, với chiều dài gần 4km. Các dạng địa hình Karst trên mặt ở khu vực này đều bị rừng nhiệt đới dày đặc che phủ. Các miệng phễu Karst lớn có thể quan sát được từ trên máy bay trực thăng.

Một vùng Karst khác ở Indonesia nằm ở phía Đông đảo Java là Gunung Sewu. Với các đới bát úp dạng nón với đường kính đáy lớn hơn chiều cao tới 4 lần. Ngoài ra ở đây còn có tới 17 hang động được gộp lại thành các hệ thống khác nhau, trong đó hệ thống Lweng Jaran là dài nhất ở Indonesia với tổng chiều dài trên 18km.

Hầu hết các nước Đông Nam Á nằm trên phần lục địa có đá vôi. Trong đó đáng kể hơn là Lào, Thái Lan và Việt Nam. Riêng đối với Lào các kết quả nghiên cứu về Karst và hang động chưa nhiều. Mặt khác, đá vôi cũng chỉ tập trung nhiều ở phần Trung Lào tiếp nối với khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng của Việt Nam. Tại Thái Lan, đá vôi cũng có mặt trong một số Vườn quốc gia như Trung Salaeng. Phần lớn đá vôi ở đây có tuổi Permi giống như nhiều nơi ở Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, diện tích lộ đá vôi trên mặt ở Thái Lan không nhiều. Thái Lan lại có khí hậu nhiệt đới, vì vậy các thành tạo Karst ở đây cũng rất phát triển, trên bề mặt các vùng đá vôi đều bị rừng nhiệt đới che phủ và phát triển khá nhiều Karst dạng tháp.

Ở Việt Nam, Di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long được UNESCO công nhận vào năm 1994 lại là khu vực khá đặc biệt. Theo cách gọi của các nhà địa mạo, thì Hạ Long là một trong những vùng Karst ven bờ điển hình trên thế giới, các hang cổ và đang hoạt động đều có mặt ở đây.

Từ những điều vừa trình bày ở trên, so với các di sản thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận có thể thấy rằng Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng hầu như không có gì giống với các nơi khác, chứa đựng tính đa dạng địa học và đa dạng sinh học đặc trưng nhiệt đới và đặc thù Việt Nam sau đây:

- Đá vôi có tuổi rất cổ từ Devon đến Permi.

- Vùng Phong Nha - Kẻ Bàng vừa có những đặc điểm chung với các vùng nêu trên, nhưng lại vừa có nét đặc thù với diện tích lớn nhất ở Việt Nam. Nếu kể thêm cả phần diện tích đá vôi ở Lào thì vùng này có thể được xem là vùng đá vôi cỡ lớn nhất hành tinh.

- Đá vôi có cấu tạo khối và phân lớp dày (với độ dày của tầng đá vôi đạt trên 1.000m) có tuổi rất cổ (từ Devon đến Permi) lại được phân bố trong vùng khí hậu nhiệt đới với sự phổ biến của rừng lá rộng thường xanh. Địa hình khối đá vôi lại nằm thấp hơn so với vùng xung quanh cấu tạo bởi các đá phi Karst. Những điều kiện đó đã làm cho khối Karst Phong Nha - Kẻ Bàng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, rộng hơn và nổi bật hơn về nhiều mặt so với các vùng khác ở Đông Nam Á.

KẾT LUẬN


  1. Lịch sử phát triển địa chất vùng Phong Nha - Kẻ Bàng rất phức tạp trải qua 4 chu kỳ kiến tạo lớn tạo nên một bình đồ địa chất rất đa dạng có mặt các thành tạo từ Devon đến Creta.

  2. Tiến hóa địa hình và địa mạo là gắn liền với tiến hóa địa chất, đặc biệt trong Oligocen (từ 35 triệu năm đến nay). Đó là sự tiến hóa qua 6 chu kỳ nâng kiến tạo và các chu kỳ biển tiến (gian băng) đã để lại 5 bậc địa hình và 4 mực độ cao của hang.

  3. Hệ thống hang động Phong Nha - Kẻ Bàng vừa có những đặc điểm chung với Karst ở một số khu vực trên thế giới song lại có những nét đặc thù ở Việt Nam:

  • Hang động có tuổi cổ nhất Đông Nam Á, bắt đầu hình thành hang động là 35 triệu năm, đồng thời với pha tách giãn hình thành biển Đông; Các hướng chạy của hệ thống hang trùng với hướng các đứt gãy lớn mang tính khu vực và địa phương.

  • Diện tích rộng lớn của một khối đá vôi hoang mạc nối liền từ Việt Nam sang Lào sẽ trở nên một khối đá vôi lớn nhất Đông Nam Á.

  • Đá vôi có tuổi rất cổ từ Devon muộn đến Permi.

  • Bao quanh khối đá vôi phát triển các địa hình phi carbonat là điều kiện thu nước tốt cho khối đá vôi và tăng tính đa dạng sinh học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Dương Xuân Hảo, Rjonxnixkaja M. A., Bunvanke E. Z., Kulikova V.F., Makximova Z. A., Tống Duy Thanh, 1968. Những hoá thạch đặc trưng cho địa tầng Devon ở miền Bắc Việt Nam. Tổng cục Địa chất xuất bản, 123tr. Hà Nội

2. Dovjikov A. E., Nguyễn Văn Chiển, Lê Đình Hữu, Ivanov G. V., Izok E. P., Jamoida A. I., Phạm Đình Long, Trần Đức Lương, Mareitsev A.M., Bùi Phú Mỹ, Vaxilevxkaia E. D., Phạm Văn Quang, Nguyễn Tường Tri, 1965. Địa chất miền Bắc Việt Nam. Nxb KHKT, 580 tr, Hà Nội

3. Lê Hùng, 1977. Hệ Pecmi - thống thượng (Địa chất Việt Nam, phần miền Bắc). NXB. KHKT, tr. 118 - 119. Hà Nội.

4. Nguyễn Hữu Hùng, Phạm Kim Ngân, Nguyễn Đình Hồng, Đoàn Nhật Trưởng, 1980. Phát hiện đá vôi Frasni - Famen (Devon thượng) trong vùng Quy Đạt (Bình Trị Thiên). Tạp chí các Khoa học về Trái đất , 4(2), tr. 27 - 28. Hà Nội.

5. Nguyễn Hữu Hùng, Đoàn Nhật Trưởng, Nguyễn Đức Khoa, 1995. Địa tầng các trầm tích Devon và Devon thượng - Cacbon hạ ở Bắc Trung Bộ Việt Nam. Địa chất và Khoáng sản, tập 4, tr. 17 - 29. Viện Địa chất và Khoáng sản xuất bản. Hà Nội.

6. Nguyễn Quang Mỹ, H. Limbert, 1993. Some outlines about investigation of karst in Vietnam and the world. Hanoi University.

7. Nguyễn Quang Trung (chủ biên), 1983. Địa chất tờ Mahaxay - Đồng Hới 1: 200 000. Lưu trữ địa chất. Hà Nội.

8. Nguyễn Vĩ Dân, 1993. Some feature of tropical karst in Vietnam. Hanoi University.

9. Nguyễn Xuân Trường and T. Allen, 1993. The longest limestone caves in Vietnam. Hanoi.

10. Tạ Hoà Phương, Đoàn Nhật Trưởng, 1995. Preliminary studies on the boundaries of Famennian stage in Viet Nam. Proc. IGGP Symp. On Geology of SE Asia, Hà Nội: 94-104.

11. Trần Đình Gián. Đặc điểm địa mạo khu vực bắc Trung bộ và một số ý kiến về quy hoạch phục vụ sản xuất. Tuyển tập nghiên cứu biển. Tập I, phần 2. Nha Trang, 1979.

12. Trần Nghi, Hoàng Trọng Sở, 1997. Đặc điểm trầm tích và lịch sử tiến hoá các thành tạo cát ven biển Quảng Bình. Tạp chí Khoa học, Khoa học Tự nhiên, t.XIII, n03, 1997.



13. Trần Nghi (Chủ biên), 2003. Di sản thiên nhiên thế giới: Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình, Việt Nam.  Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

14. Trần Văn Trị, 1995. Vietnam’s tectonic framework and mineral potential. J. Geology, B/ 5-6: 275-281. Hanoi.
Каталог: 3cms -> upload -> khcn -> File -> SachKhoaHoc -> 410 Nam -> tailieu8
tailieu8 -> Tác động của Di sản thế giới Phong Nha Kẻ Bàng
tailieu8 -> MỘt số KẾt quả nghiên cứu bưỚC ĐẦu về thảm thực vật và HỆ thực vật tại vùng mở RỘng của vưỜn quốc gia phong nha kẻ BÀNG
tailieu8 -> Kinh nghiệm quản lý, BẢo tồn và phát huy giá trị di sản thiên nhiên thế giới vịnh hạ long trong sự phát triển kinh tế XÃ HỘi tỉnh quảng ninh ban quản lý Vịnh Hạ Long
tailieu8 -> TỈnh quảng bình tác giả báo cáo: cn. Lê Trọng Trãi
tailieu8 -> Đa dạng sinh họC ĐỘng vật không xưƠng sống hang đỘng khu vực phong nha kẻ BÀNG, việt nam ts. Phạm Đình Sắc
tailieu8 -> Nghiên cứu khoa học tại vưỜn quốc gia phong nha kẻ bàng sau 10 NĂm công nhận là di sản thế giới và ĐỊnh hưỚng thS. Đinh Huy Trí
tailieu8 -> ĐẶC ĐIỂm và khả NĂng khai thác loại hình du lịch sinh thái này tại di sản thiên nhiên thế giớI
tailieu8 -> GIÁ trị NỔi bật của khu hệ thú VƯỜn quốc gia phong nha kẻ BÀng hưỚng đẾn tiêu chí X về Đa dạng sinh học của khu di sản thiên nhiên thế giớI (unesco) pgs. Ts. Nguyễn Xuân Đặng, cn. Nguyễn Xuân Nghĩa
tailieu8 -> MỘt số nghiên cứu khoa học và Ứng dụng tiến bộ khoa học và CÔng nghệ HỔ trợ cho việc phát triển kinh tế XÃ HỘi vùng đỆm khu vực phong nha kẻ BÀng ts. Võ Khắc Sơn

tải về 4.04 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương