DÂn số HỌc tài liệu dùng cho Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ


Chương 7 DI DÂN VÀ ĐÔ THỊ HOÁ



tải về 2.8 Mb.
trang18/22
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích2.8 Mb.
#181
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22

Chương 7

DI DÂN VÀ ĐÔ THỊ HOÁ

Biến động dân số bao gồm: Biến động tự nhiên và biến động cơ học. Biến động tự nhiên dân số mô tả sự thay đổi dân số gắn với quá trình ra đời, sinh ra và mất đi của con người qua thời gian. Biến động cơ học dân số phản ánh sự thay đổi về mặt không gian và lãnh thổ. Chương này làm rõ bản chất, nội dung và lượng hóa di dân và giới thiệu về đô thị hóa, một hiện tượng mang tính toàn cầu ngày nay.


I. DI DÂN

1. Khái niệm di dân, đặc trưng và phân loại di dân

1.1. Khái niệm

Trong cuộc sống, con người di cư bởi nhiều nguyên nhân với nhiều mục đích khác nhau, với các khoảng cách xa gần khác nhau và vào các thời điểm khác nhau. Quá trình này chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố kinh tế và xã hội, bởi vậy nó chứa đựng bản chất kinh tế - xã hội sâu sắc. Đây là một trong các điểm mấu chốt phân biệt hai bộ phận biến động dân số nêu trên. Trong lịch sử cận đại phát triển xã hội loài người, các luồng di cư từ châu Âu sang châu Mỹ, châu Đại Dương đã để lại dấu ấn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.

Di dân là gì? Có nhiều định nghĩa về di dân được đưa ra, mỗi định nghĩa xuất phát từ những phương diện khác nhau, do đó khó có thể lựa chọn được định nghĩa thống nhất, bao quát cho mọi tình huống, bởi tính đa dạng, phức tạp của hiện tượng di dân. Không phải mọi sự di chuyển của con người đều được coi là di dân. Trước hết, người ta phân biệt di dân với các hình thức di chuyển thông thường hàng ngày: dời khỏi nhà để đi học, đi làm, đi chơi, tham quan du lịch... Nhưng trong thực tế có nhiều hình thức di chuyển như đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, công tác biệt phái xa nhà, di chuyển làm việc theo thời vụ, chuyển cư do hôn nhân của phụ nữ theo các khoảng cách đủ xa nhất định, với những mục tiêu nghiên cứu đặc biệt, lại được coi là di dân. Bởi vậy, việc đưa ra một định nghĩa di dân có ý nghĩa làm sáng tỏ thêm nội dung và các hình thức di dân.

Di dân là sự di chuyển của người dân theo lãnh thổ với những giới hạn về thời gian và không gian nhất định, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú. Hiểu về di dân theo cách tiếp cận trên đây dựa vào các đặc điểm chủ yếu sau:



Một là, con người di chuyển khỏi địa dư nào đó đến một nơi nào đó, với một khoảng cách nhất định. Nơi đi (nơi xuất cư) và nơi đến (nơi nhập cư) phải được xác định, có thể là vùng lãnh thổ hoặc một đơn vị hành chính. Khoảng cách giữa hai điểm là độ dài di cư. Hai là, con người khi di cư bao giờ cũng với những mục đích nhất định, họ đến một nơi nào đó và "ở lại" đó trong một thời gian nhất định.

Hai là, nơi đi (xuất phát) là nơi ở thường xuyên, được quy định theo hình thức đăng ký hộ khẩu hoặc đăng ký dân sự xác định của cấp quản lý hành chính có thẩm quyền và nơi đến là nơi ở mới. Tính chất cư trú là điều kiện cần để xác định di dân.

Ba là, khoảng thời gian ở lại nơi mới trong bao lâu là đặc điểm quan trọng xác định sự di chuyển đó có phải là di dân hay không. Tuỳ mục đích, thời gian "ở lại" có thể là một số năm, một số tháng.

Một số đặc điểm khác nữa có thể được đưa vào trong nghiên cứu cụ thể, chẳng hạn sự thay đổi các hoạt động lao động. Thông thường di dân được hiểu khi thay đổi nơi cư trú cũng thường kèm theo sự thay đổi công việc, nơi làm việc, nghề nghiệp... Song không nhất thiết bao giờ cũng vậy. Trong không ít trường hợp hai sự thay đổi nêu trên không đi đôi với nhau.

Trong nghiên cứu di dân một số khái niệm cần quan tâm là:


  • Nơi đi: Còn gọi là nơi xuất cư, là địa điểm cư trú trước khi một người rời đi nơi khác sinh sống.

  • Nơi đến: là điểm kết thúc quá trình di chuyển, là địa điểm mà một người dừng lại để sinh sống. Nơi và địa điểm ở đây là ám chỉ một lãnh thổ, một đơn vị hành chính nhất định.

  • Người xuất cư hay còn gọi là người di cư đi là người rời nơi đang sinh sống để đi nơi khác

  • Người nhập cư hay còn gọi là người di cư đến là người đến nơi mới để sinh sống

  • Luồng (dòng) di dân là tập hợp người đi ra khỏi vùng đang sinh sống và đến cùng một vùng mới để cư trú theo những hướng nhất định vào những khoảng thời gian xác định.

  • Chênh lệch giữa số người đến và số người đi trong cùng một lãnh thổ, đơn vị hành chính trong cùng một khoảng thời gian nhất định được gọi là di dân thuần túy.

1.2. Đặc trưng chủ yếu

Mỗi một hiện tượng (cá nhân, gia đình, nhóm, dòng...) di dân đều chứa đựng những nguyên nhân, những động cơ thúc đẩy di cư. Bản chất xã hội và bản chất sinh học của con người trong di dân hoà quyện, tạo nên các đặc trưng mang tính quy luật. Sau đây là một số đặc trưng chủ yếu:



Một là, con người có thuộc tính là luôn vươn tới điều kiện sống tốt hơn về vật chất và tinh thần. Đặc trưng này cho phép nhìn nhận lại động cơ và mục đích di dân. Nơi người ta dự định di cư đến, nhìn chung, phải có điều kiện sống tốt hơn về phương diện này hay phương diện khác.

Hai là, di dân liên quan chặt chẽ với độ tuổi. Các nghiên cứu chỉ ra rằng những người trong khoảng tuổi từ 15 đến 30 chiếm đa số trong các dòng di dân. Họ có cơ hội và triển vọng lớn hơn so với các độ tuổi còn lại trong đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm.

Ba là, trong lịch sử trước đây, nam giới có xu hướng di dân nhiều hơn phụ nữ. Đây có thể phần nào đó được giải thích do bản năng và sự phân công lao động theo giới tính. Song trong điều kiện xã hội hiện nay, do cầu trong lĩnh vực dịch vụ tăng cao, xu hướng nữ hóa các dòng di dân đã xuất hiện. Ở một số vùng, với một số độ tuổi, nữ giới có xu hướng di dân nhiều và mạnh hơn nam.

Bốn là, trước thời kỳ “mở cửa” người nào có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lành nghề cao hơn thì khả năng di cư lớn hơn. Họ có khả năng cạnh tranh tốt hơn về việc làm với người sở tại, dễ dàng tạo được các điều kiện định cư lâu dài tại nơi mới. Nhưng hiện nay, ngoài những người có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp cao, còn có cả luồng di cư của những người có trình độ học vấn thấp đến tìm những việc mà người có trình độ học vấn cao không muốn làm hoặc không có thời gian làm, đặc biệt là di cư nông thôn - đô thị.

Năm là, người nào ít bị ràng buộc vào tôn giáo, các yếu tố văn hoá truyền thống, hoàn cảnh gia đình sẽ dễ dàng thích nghi hơn với điều kiện sống ở nơi mới do đó khả năng di cư sẽ cao hơn so với bộ phận dân số còn lại.

1.3. Phân loại các hình thức di dân

Có nhiều cách phân loại di dân theo các giác độ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích phân tích. Tuy nhiên cần hiểu rằng cách phân chia nào cũng chỉ là tương đối và có thể đan xen nhau trong các loại di dân. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:



1.3.1. Theo độ dài thời gian cư trú

Có các hình thức di dân lâu dài, tạm thời và chuyển tiếp. Di dân lâu dài, bao gồm người di chuyển đến nơi mới với mục đích sinh sống lâu dài, trong đó phần lớn những người di cư là do chuyển công tác, thanh niên tìm cơ hội việc làm mới lập nghiệp và tách gia đình... Những người này thường không quay trở về quê hương cũ sinh sống.

Di dân tạm thời là sự thay đổi nơi ở gốc không lâu dài và khả năng quay trở lại là tương đối chắc chắn. Kiểu di dân này bao gồm các hình thức di chuyển làm việc theo thời vụ, đi công tác biệt phái, lao động và học tập có thời hạn...

Di dân chuyển tiếp là hình thức di dân mà không thay đổi nơi ở, do tính chất công việc họ phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác, chẳng hạn như các công ty xây dựng cầu đường, các công trình năng lượng điện, thăm dò địa chất, những người đi buôn bán từ các tỉnh lân cận đến các đô thị,... Hình thức di dân này gợi ý cho các nghiên cứu điều tiết thị trường lao động, ổn định cuộc sống vật chất và tinh thần cho loại lao động này, không chỉ cho bản thân người làm mà còn cho gia đình của họ, đặc biệt về cơ sở hạ tầng như điện nước, thông tin liên lạc, y tế, trường học, nơi vui chơi giải trí...

1.3.2. Theo khoảng cách di dân

Người ta phân biệt di dân xa hay gần giữa nơi đi và nơi đến. Di dân giữa các quốc gia được gọi là hình thức di dân quốc tế, giữa các vùng, các đơn vị hành chính trong một quốc gia gọi là di dân nội địa. Trong nhiều trường hợp, người ta tách di dân quốc tế và di dân nội địa thành các nội dung nghiên cứu riêng, trong mỗi nội dung lại đề cập đến các hình thức di dân khác nhau.

Trong nghiên cứu dân số toàn thế giới hoặc một vùng hay một châu lục nào đó, di dân quốc tế là một nội dung quan trọng. Lịch sử di dân ghi nhận những thay đổi bước ngoặt trong việc phân bố và phân bố lại dân cư giữa các châu lục, đặc biệt từ thế kỷ 15, 16, các cuộc chuyển cư với cường độ ngày càng lớn từ các nước châu Âu sang châu Mỹ, từ châu Âu tới châu Đại Dương, châu Phi và từ châu Phi tới châu Mỹ. Như đã biết, quá trình này gắn với việc xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ. Trong giai đoạn hiện nay di dân quốc tế thường gắn với quá trình di chuyển lao động (hoặc là có thời hạn hoặc là lâu dài) từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển, từ các nước đông dân nghèo tài nguyên đến các nước giàu tài nguyên và thưa dân. Số lao động này bao gồm không chỉ những nhân công làm việc giản đơn, mà có cả những lao động "chất xám", những chuyên gia, tạo nên hiện tượng "chảy máu chất xám" từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Chẳng hạn các chuyên gia công nghệ tin học của Ấn Độ xuất ngoại làm việc ở Anh, Mỹ, Canada... Di dân quốc tế theo hướng trên thường gắn với việc hoạch định chính sách xuất khẩu lao động của mỗi quốc gia. Việt Nam cũng là một trong những nước đang phát triển có định hướng chiến lược xuất khẩu lao động. Trong các thập kỷ 70 và 80, đã có nhiều người Việt Nam di cư ra nước ngoài do nguyên nhân chính trị và kinh tế. Khoảng cuối thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ 20, Việt Nam đã đưa hàng trăm nghìn lao động có thời hạn sang các nước Đông Âu. Khi đó người ta nói về "hợp tác lao động" thay vì "thị trường lao động" theo tính chất của liên kết kinh tế và chính trị. Hiện nay, xuất khẩu lao động được xem là quốc sách ở nước ta, trong xu thế hội nhập, tìm kiếm thị trường để xuất khẩu lao động đang là nhiệm vụ quan trọng khi các "thị trường truyền thống" trước đây bị thu hẹp hoặc bị mất, đã thay đổi cả về tính chất và nội dung. Các thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước có dầu mỏ ở Trung Đông đang là một hướng mới.

Di dân nội địa luôn là một nội dung được ưu tiên nghiên cứu đối với mỗi nước nhằm phục vụ việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Việt Nam, do tính lịch sử của sự phân chia địa giới trong quá trình dựng nước và giữ nước, có các hình thức di dân: giữa ba miền Bắc, Trung, Nam, giữa các vùng kinh tế và giữa các đơn vị hành chính.

1.3.3. Theo tính pháp lý

Người ta phân biệt di dân hợp pháp hay bất hợp pháp, di dân tự do hay có tổ chức, di dân tình nguyện hay bắt buộc. Tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp của chính quyền trung ương hay địa phương mà người ta phân chia di dân theo loại này hay loại khác.

Di dân phù hợp với luật pháp của một quốc gia được gọi là di dân hợp pháp. Hình thức di dân này đôi khi mang tính chất chính trị, "tỵ nạn" hay "cư trú chính trị". Sau các cuộc chiến tranh có thể có hiện tượng "di tản", "vượt biên trái phép" từ các nước không ổn định về chính trị hoặc nghèo về kinh tế đến các nước ổn định hơn và kinh tế phát triển hơn. Hình thức di dân này được gọi là di dân bất hợp pháp.

Hình thức di dân có tổ chức, trong đó nhà nước và chính quyền các cấp có thẩm quyền, hoặc có cơ quan chuyên trách về di dân, đóng vai trò quyết định và chủ động theo kế hoạch thống nhất. Đó là việc đề ra và thực thi các chính sách điều động dân cư, đi xây dựng các khu kinh tế mới, giãn dân.... Trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang chuyển đổi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, với di dân nội địa, các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều tới hình thức di dân tự do. Các kết quả điều tra cho thấy cường độ di dân tự do ngày càng cao, hướng di chuyển đa dạng, quản lý phức tạp. Di dân tự do được coi là một trong những phương tiện điều tiết thị trường lao động.



1.3.4. Các hình thức di dân khác

Có thể liệt kê một số loại di dân đáng chú ý khác như di dân cá nhân hay hộ gia đình, di dân tản mạn nhiều hướng hay thành dòng di dân, nếu căn cứ vào số lượng người di dân và hướng di dân từ nơi xuất phát đến nơi dừng. Hình thức di dân khá quan trọng là di dân giữa hai khu vực thành thị và nông thôn. Tiêu thức phân loại ở đây vừa theo lãnh thổ lại vừa theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa hai khu vực. Ở đây sẽ thấy đan xen bốn hình thức di dân: nông thôn - thành thị, nông thôn - nông thôn; thành thị - thành thị, thành thị - nông thôn.

Cần lưu ý rằng hình thức di dân con lắc (đi rồi lại về hàng ngày, không định cư ở nơi đến) đang là hình thức di dân rất phổ biến hiện nay. Ví dụ, di dân từ vùng lân cận như Phủ Lý đến Hà Nội, rồi lại quay từ Hà Nội về Phủ Lý. Loại di dân này là yếu tố rất tích cực để nâng cao đời sống cho người dân vùng nông thôn gần sát các vùng đô thị và góp phần điều tiết giá cả hàng hóa và giá cả lao động phổ thông trên thị trường lao động tại các thành phố. Nhưng đây cũng là nhân tố làm cho việc quản lý trật tự trị an trên địa bàn các thành phố rất khó khăn.

Một loại di dân phổ biến nữa hiện nay là di dân của những người ở nông thôn, đặc biệt là những người trẻ tuổi đến tìm việc ở khu vực phi chính thức tại các thành phố lớn. Đặc điểm của những người này là không có chuyên môn nghề nghiệp, làm việc cho những chủ nhỏ hoặc cá thể, tiểu chủ. Những người chủ này thường không đăng ký sản xuất kinh doanh và không đăng ký chính thức tuyển dụng lao động. Những người lao động tại khu vực phi chính thức, thường không ký hợp đồng lao động, nên thường không được hưởng các chế độ như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, không có chế độ nghỉ lễ và chủ nhật. Họ thường là những người gặp nhiều rủi ro trong cuộc sống như: dễ bị lạm dụng tình dục (đối với phụ nữ), bị đối xử không công bằng. Họ thường phải sống trong những ngôi nhà thiếu tiện nghi sinh hoạt. Nhiều nơi hình thức di dân này còn được gọi dưới cái tên “di dân trôi nổi”



2. Các thước đo di dân

Thông thường có các thước đo về di dân như sau:

Tỷ suất nhập cư (‰):

Tỷ suất xuất cư (‰):

Tổng tỷ suất di dân (‰):

Tỷ suất di dân thuần tuý (‰):

Trong đó: I, O, tương ứng là số người nhập cư, xuất cư và dân số trung bình của một vùng nào đó trong năm.

Các tỷ suất di dân cho biết trung bình cứ 1000 dân trong một năm có bao nhiêu người nhập cư (I), xuất cư (O), tổng của số người nhập cư và xuất cư, và chênh lệch giữa hai đại lượng trên.



Bảng 7.1 cho thấy, trong 6 vùng, 4 vùng có tỷ suất di dân thuần tuý mang dấu âm (-), xếp theo mức độ cao nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long (-40,4), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (-34,6); vùng Trung du và miền núi phía bắc (-17,5); Đồng bằng sông Hồng (-1,7). Đông Nam bộ là vùng nhập cư lớn nhất với tỷ suất di dân thuần túy +107,7 %o.
Bảng 7.1: Tỷ suất di cư trong 5 năm trước Tổng điều tra 1999, 2009

chia theo các vùng kinh tế- xã hội

Đơn vị: %o

Các vùng

Tỷ suất

nhập cư

Tỷ suất

xuất cư

Tỷ suất

di dân thuần túy

1999

2009

1999

2009

1999

2009

Toàn quốc

19

30

19

30

0

0

1. Trung du và Miền núi phía Bắc

9

9

18

27

-10

-18

2. Đồng bằng sông Hồng

11

16

21

18

-11

-2

3. Bắc Trung bộ, duyên hải miền Trung

7

6

26

45

-19

-38

4. Tây Nguyên

93

36

17

27

79

9

5. Đông Nam Bộ

63

127

14

10

49

117

6. Đồng bằng sông Cửu Long

5

4

14

46

-10

-42

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009: Các kết quả chủ yếu. Hà Nội, tháng 6 năm 2010, trang 80.
3. Các phương pháp đo lường di dân

Các phương pháp đo lường di dân có thể chia tương đối thành hai loại: trực tiếp và gián tiếp.



3.1. Phương pháp trực tiếp

Phương pháp này cho phép xác định quy mô di dân dựa vào các cuộc tổng điều tra dân số (TĐTDS), thống kê hộ tịch, hộ khẩu (TKHTHK) và điều tra mẫu về dân số (ĐTMDS)

Trong các cuộc TĐTDS thường có các câu hỏi để đo lường mức độ di dân như: 1/ Nơi sinh, 2/ Thời gian cư trú, 3/ Nơi cư trú cuối cùng, 4/ Nơi cư trú vào một thời điểm xác định trước đó. Nếu đưa thêm tiêu chí về không gian, người ta có thể xác định được người không di cư và di cư theo lãnh thổ như thế nào.

TĐTDS ngày 1/4/1989, TĐTDS ngày 1/4/1999 và TĐTDS ngày 1/4/2009 ở Việt Nam cũng đưa ra các câu hỏi nhằm xác định di dân với nơi cư trú khác nhau giữa các đơn vị hành chính là quận, huyện trở lên và thời điểm trước đó là 1/4/1984, 1/4/1994 và 1/4/2004 cách thời điểm điều tra là 5 năm. Một người được coi là người di cư nếu nơi cư trú năm 1984, 1994 hay 2004 khác với năm 1989, 1999 và 2009. Tuy có hạn chế về mức độ chính xác, nhưng nó cũng cho biết bức tranh di dân về tổng thể. Kết quả tính toán được nêu trong biểu sau:



Bảng 7.2: Di dân theo TĐTDS 1/4/1999 và 1/4/2009



Thời kỳ

Số người di cư

(nghìn người)

Tỷ suất di dân

(phần nghìn)

1994-1999

2004-2009

1994-1999

2004-2009

Di cư trong huyện

1.343

1.618

19

21

Di cư giữa các huyện

1.138

1.709

16

22

Di cư giữa các tỉnh

2.001

3.398

29

43

Di cư giữa các vùng

1.334

2.361

19

30

Nguồn: - Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương. Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam, năm 2009. Các kết quả chủ yếu. Hà Nội, 6-2010.

- Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương. Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam, năm 1999. Các kết quả mẫu. NXB Thế giới . Hà Nôi, 2000.
So sánh hai giai đoạn cho thấy: Tỷ suất di cư trong huyện chỉ tăng 10%, tỷ suất di cư giữa các huyện trong cùng tỉnh tăng 37,5%, tỷ suất di cư giữa các tỉnh tăng 48% còn tỷ suất di cư giữa các vùng tăng mạnh nhất, gần 58%. Tương ứng, về số lượng tuyệt đối, di cư trong huyện chỉ tăng 275 ngàn người, di cư giữa các huyện trong cùng tỉnh tăng 571 ngàn còn di cư giữa các tỉnh tăng gần 1,4 triệu và di cư giữa các vùng tăng hơn 1 triệu người.

Ngoài TĐTDS, quy mô di dân còn được xác định thông qua thống kê hộ tịch hộ khẩu. Di dân quốc tế có thể được biết qua số lượng người xuất và nhập cảnh tại các cửa khẩu. Di dân nội địa có thể nắm bắt được qua hệ thống đăng ký hộ tịch, hộ khẩu tại các cấp chính quyền. Hệ thống đăng ký hiện nay ở nước ta đang dần được hoàn thiện để có thể phục vụ cho mục đích này.

Điều tra chuyên môn về di dân là nguồn số liệu quan trọng bổ sung hai nguồn trên. Các cuộc điều tra sẽ cung cấp những thông tin chi tiết cho phép phân tích các yếu tố ảnh hưởng cũng như hậu quả của di dân. Chẳng hạn di dân từ nông thôn ra thành thị thì có những mặt tích cực và tiêu cực nào, những nguyên nhân di dân chủ yếu...
3.2. Phương pháp gián tiếp

Khi thiếu các nguồn số liệu nêu trên có thể sử dụng phương pháp gián tiếp để tính một số chỉ tiêu di dân dựa vào: 1/ Thống kê hộ tịch, 2/ Biến động chung và biến động tự nhiên dân số, biến động cơ học dân số.

Nếu biết quy mô gia tăng dân số chung và gia tăng tự nhiên dân số thì có thể tính được di dân thuần tuý theo công thức sau:

NM = (Pt+n - Pt) - (B - D)t,t+n,

Trong đó:

NM: lượng di dân thuần tuý, nghĩa là chênh lệch giữa số nhập cư và xuất cư trong khoảng thời gian từ thời điểm t đến thời điểm t+n tính bằng năm;

Pt và Pt+n: tổng dân số vào thời điểm t và t+n;

B và D: tổng số sinh và chết trong cùng thời kỳ.

Nếu không có số liệu về sinh và chết, thì có thể ước lượng gần đúng di dân thuần tuý (NM) dựa vào số dân () và Tỷ suất tăng cơ học dân số của kỳ trước như sau:

NM = ( * NMR0) * n

Trong đó :

NM: lượng di dân thuần tuý, nghĩa là chênh lệch giữa số nhập cư và xuất cư trong khoảng thời gian từ thời điểm t đến thời điểm t+n tính bằng năm;

NMR: Tỷ suất di dân thuần túy (tỷ suất tăng cơ học dân số) của kỳ gốc ;

 : Số dân trung bình giữa thời điểm t và t+n ;

n: số năm hay khoảng thời gian giữa hai thời điểm.



tải về 2.8 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương