Dẫn nhập Triết học Phật giáo Bài 1: ba thời kỳ phật giáo tt. Thích Nhật Từ Người khai sáng đạo Phật



tải về 0.56 Mb.
trang1/6
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích0.56 Mb.
#9520
  1   2   3   4   5   6
Dẫn nhập Triết học Phật giáo

Bài 1: BA THỜI KỲ PHẬT GIÁO

TT. Thích Nhật Từ

1. Người khai sáng đạo Phật

- Sanh năm 624 BC tại Lumbini. Con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya.

- Năm 29 tuổi cưới công chúa Da-du-đà-la. 10 tháng sau rời hoàng cung, gia đình vợ con, thành đạo sĩ.

- 6 năm tu khổ hạnh, mong tìm ra con đường diệt khổ.

- Năm 35 tuổi giác ngộ dưới cội cây Bồ đề ở Gaya, sau 49 ngày thiền định.

- Chuyển pháp luân tại Sarnath: Kinh Chuyển Pháp Luân, Kinh Vô ngã tướng, Kinh Thế gian bốc cháy.

- Suốt 45 năm tiếp theo, thuyết giảng hàng ngàn Kinh về triết học, đạo đức, giải phóng khổ đau.

- Năm 544 BC, qua đời tại Kusinagara, tròn 80 tuổi.



2. Thời kỳ nguyên thủy (100 năm: 589-489 BC) 544-444 BC

- 5 bộ Nikaya với hàng ngàn bài giảng, cho mọi tầng lớp xã hội.

- Tiếng Magadhi, được truyền khẩu và chuyển dịch nhiều ngôn ngữ địa phương.

- Phật qua đời năm 544 BC, tôn giả Ca Diếp triệu tập hội đồng 500 tu sĩ tại đồi núi Vương Xá (Rajagaha) để kết tập (sangiti, chanting together) kinh điển lần 1. Mục đích tập hợp lời Phật, hệ thống hóa, thống nhất, truyền thừa. Ngài A Nan trùng tuyên Kinh, ngài Ưu Ba Ly trùng tuyên giới luật. Nội dung: Kinh tạng (bốn bộ Nikaya) và Luật Tạng (chưa có Bồ-tát giới).

- Phật Giáo Đại thừa (Mahāyāna): Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ, Việt Nam.

- Phật Giáo Nguyên thủy (Theravāda): Ấn Độ, Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam (cộng đồng Khmer tại miền Nam, cộng đồng Việt 1940.

- Ba thời kỳ Phật giáo: Thời kỳ nguyên thủy (100 năm), thời kỳ bộ phái (400 năm), và thời kỳ chuyển hóa (500 năm).

3. Thời kỳ bộ phái (400 năm: 489-089 BC)

- Năm 244 BC, một trăm năm sau đó, Đại Hội Kết Tập Lần Thứ III được triệu tập dưới thời vua A Dục (Asoka), 268-232 BC. Dưới sự chỉ đạo của ngài Mục Kiền Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa). Đối tượng gồm 1000 tu sĩ. Nội dung: Kinh Tạng (5 bộ) và Thắng Pháp Tạng. Tăng đoàn giới hạnh trang nghiêm theo truyền thống Trưởng Lão Thuyết được chấn chỉnh lại theo đúng các giới luật.

- Đại Chúng Bộ có bốn lần phân chia, thành 7 tông phái trong vòng 200 năm.

- Nhiều giáo đoàn truyền đạo khắp Trung Ấn, mạn Nam và mạn Tây xứ Ấn Độ.

- Nhu cầu tiếp biến văn hóa gia tăng, thúc đẩy nhu cầu cải cách.

- Năm 344 BC, 100 năm sau ngày Đức Phật nhập, Đại Hội Kết Tập Lần Thứ II tại thành Vaisali. Đối tượng: 700 tăng sĩ. Mục đích giải quyết các tranh chấp về 10 điều luật căn bản. Nội dung: Kinh tạng (vài tập Tiểu bộ). Giữ nguyên giới luật. Phân hóa đầu tiên trong Tăng đoàn: Trưởng Lão Thuyết Bộ (Sthaviravada) bảo thủ và Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) cải cách.

- Trưởng Lão Thuyết Bộ cũng bị phân chia bảy lần, tạo ra 11 tông phái.

- Vua A-dục (Asoka) 304-202 TTL, triều đại Maurya, có công truyền bá. Phái con trai Mahinda (284-204 TTL) và 4 Tăng sĩ truyền bá đạo Phật vào Tích Lan. Con gái là Trưởng lão ni Sanghamitta (281-202 TTL) thành lập dòng Tỳ-khưu-ni tại Sri Lanka.

- Phật giáo phát triển mạnh ở Kashmir. Tư tưởng Đại thừa thành hình, thâm nhập vào Đại Chúng Bộ, chẳng hạn như tông Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadin).

4. Thời kỳ phát triển (Theravāda): 500 năm: 1-500 STL

- Sau hơn 500 năm truyền khẩu, vào 29-17 BC, đại hội V gồm 500 tu sĩ phái Mahavihara tập họp và biên tập Kinh, Luật và Thắng Pháp lá bối đa. Lưu truyền cho đến ngày nay. Pali được dùng vì ngôn ngữ Tây Ấn.

- Đại Tạng Kinh này được truyền bá sang Miến Điện, Thái Lan, Lào, và Cam Bốt.

- Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của ngài Phật Âm (Buddhaghosa) thế kỷ 4 C.N., Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammattha Sangaha) của ngài Anuruddha, ... cũng được lưu truyền.

- Theravāda = Sthaviravada = học thuyết của các vị trưởng lão (Doctrine of the Elders).

- Trưởng Lão Thuyết Bộ chuẩn hơn Trưởng Lão Bộ, Thượng Tọa Bộ, một trong hai bộ phái chính từ thời kỳ nguyên thủy.

- Theravāda = truyền thống Phật giáo Nam tông, bắt nguồn từ Tích Lan, chịu ảnh hưởng của phái Đại Tự Viện (Mahavihara), do Đại đức Mahinda và các tu sĩ thuộc tông phái Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavada), một nhánh của Trưởng Lão Thuyết Bộ, truyền bá vào Tích Lan khoảng 200 năm trước Công nguyên.

5. Thời kỳ phát triển (Mahāyāna)

a) Bối cảnh: 200 năm Phật nhập Niết Bàn, Đại Chúng Bộ phát triển và phân hóa thành nhiều tông phái. Dùng kinh điển A hàm (Agama) bằng ngôn ngữ Sanskrit, hàm chứa tư tưởng đại thừa.

b) Giai đoạn: 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN. Từ vài bài kinh ngắn, sau kết tập lại thành những bộ kinh lớn.

- Lúc đầu là Bồ-tát thừa (Bodhisattva-yana) đến TK 1 đổi thành Đại thừa, qua kinh Diệu Pháp Liên Hoa.



c)Nguồn gốc: Trí tuệ tập thể, không thuộc cá nhân nào. Mahāyāna ảnh hưởng từ Đại Chúng Bộ vì thoáng về giới luật. Tư tưởng của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin), Nhất Thuyết Bộ (Ekavyavaharika), Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadin), Kế Dẫn Bộ (Kaukutika) góp phần hình thành Đại thừa. Phong trào lớn mạnh toàn Ấn Độ.

- Đại Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, A Di Đà còn bản Sanskrit; các kinh đầu của Đại thừa bị thất lạc.



d) Các Bồ-tát lớn: Các Bồ-tát Mã Minh, Long Thọ, Long Trí, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân trong 4 tk đầu Công nguyên làm Đại thừa phát triển toàn Ấn Độ. TK7, Huyền Trang ước tính 100,000/200,000 theo phong trào Đại thừa.

e) Bản chất: Các kinh Đại thừa là tư tưởng cải cách để đại chúng hóa đạo Phật, đối kháng lại đường lối thủ cựu, giáo điều, chấp kiến, chứ không ám chỉ riêng tông phái nào.



  • Timeline

    • This is a rough timeline of the development of the different schools/traditions:


TÀI LIỆU

Bộ sách của GS. Kimura Taiken (木村泰賢 - Mộc Thôn Thái Hiền, 1881-1930):



  • 1. Nguyên thủy Phật giáo Tư tưởng luận (Genshi Bukkyō Shisōron 原始佛敎思想論), Âu Dương Hãn Tồn (歐陽瀚存) dịch từ Nhật ngữ sang Hán ngữ; HT. Quảng Độ dịch từ Hán ngữ sang Việt ngữ.

  • 2. Tiểu thừa Phật giáo Tư tưởng luận (Shōjō Bukkyō Shisōron (小乘佛敎思想論), Pháp sư Diễn Bồi (演培) dịch từ Nhật ngữ sang Hán ngữ; HT. Quảng Độ dịch từ Hán ngữ sang Việt ngữ.

  • 3. Đại thừa Phật giáo Tư tưởng luận (Daijō Bukkyō Shisōron (大乘佛教思想論), Pháp sư Diễn Bồi (演培) dịch từ Nhật ngữ sang Hán ngữ; HT. Quảng Độ dịch từ Hán ngữ sang Việt ngữ.

  • 4. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (Aspects of Mahāyāna Buddhism and its Relation to Hīnayāna) của GS. Nalinaksha Dutt, HT. Thích Minh Châu dịch, 1971, 1999.

  • 5. Thánh Nghiêm, Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Thích Tâm Trí dịch. NXB Phương Đông, TP.HCM, 2008.

  • 6. Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn Độ, THPG TP.HCM, 1989.

  • 7. Viên Trí, Ấn Độ Phật giáo sử luận, NXB Phương Đông, TP.HCM, 2006.


BÀI 2: TỔNG QUAN VỀ ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA

I. DẪN NHẬP

  1. Khái niệm căn bản

a) - Phật Giáo Nguyên khởi (Original Buddhism, Early Buddhism) = Phật Giáo Kinh Bộ (Nikaya Buddhism) chỉ các tông phái sử dụng kinh điển nguyên thủy, giữ nguyên truyền thống, có phần thủ cựu.

- Còn gọi là "Phật Giáo Nam Phương" hay Nam tông (Southern Buddhism) để chỉ Phật Giáo tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam Bốt.

b) Phật giáo Đại thừa (Mahayana Buddhism) = Phật giáo phát triển (Developed/ Later Buddhism) chỉ đạo Phật cách tân, nhập thế, tiếp biến văn hóa.

- Còn gọi là Phật giáo Bắc phương, hay Bắc tông (Northern Buddhism) để chỉ cho Phật giáo phát triển tại Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Tây Tạng, Việt Nam.

- Thỉnh thoảng, danh từ "Phật Giáo Bắc Phương" (Northern Buddhism) chỉ Phật giáo Tây Tạng (Mật tông), "Phật Giáo Đông Phương" (Eastern Buddhism) chỉ Phật giáo tại Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam.

c) Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Đức Phật 500 năm) chưa có danh từ Đại thừa hay Tiểu thừa. Danh từ Đại thừa và Tiểu thừa xuất hiện đồng thời với kinh điển Đại thừa khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch.

d) Năm 1950, Hội Thân hữu Phật tử Thế giới (World Fellowship of Buddhists, WFB) họp tại Colombo (Tích Lan) đã nhất trí loại bỏ danh từ Tiểu thừa khi nói đến Nam tông Phật giáo.

2. Liên hệ giữa hai trường phái

- Hòa thượng Quảng Độ: “Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo, phần cành lá là Đại Thừa Phật Giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng được sự tồn tại của một cái cây mà không có gốc nhưng nếu chỉ có gốc không thôi thì cây ấy không còn sức sống; hoặc giả có gốc, có thân cây mà không có cành lá thì cây ấy cũng như cây trong mùa đông không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái

cây đứng vững, thì phần cành lá sum suê, xanh tốt là sự biểu dương cho cái sức sống mãnh liệt của toàn bộ cái cây; hơn nữa tàn cây tươi thắm tỏa ra che rợp khoảng không gian có đủ sức mang lại cho người lữ hành trên con đường dài mệt mỏi những phút giây êm mát, thoải mái giữa buổi trưa hè oi bức. Cái cây Phật giáo cũng thế: cả ba phần Căn Bản, Tiểu Thừa, Đại Thừa có hợp lại, có biểu lí và bổ sung cho nhau thì mới là cái cây Phật giáo hoàn toàn”.

- Trong hệ Pali Nikaya và A-hàm, đức Phật dạy cỗ xe Pháp duy nhất, Pháp thừa (Dhammayana) = Bát Chánh Đạo (SN XLV.4, SA 769): "Này Ananda, Con Đường Tám Chánh nầy là đồng nghĩa với cỗ xe tối thượng, là cỗ xe Pháp, là sự chiến thắng vô thượng trong mọi chiến trận nhiếp phục tham, sân, si."

- Kinh Pháp Hoa: "Chư Phật chỉ dùng một cỗ xe duy nhất đưa đến giải thoát (Nhất thừa Phật đạo), không có hai mà cũng chẳng có ba".

- Kinh Pali: "Như tất cả các đại dương đều có cùng một vị mặn, các giáo pháp của Ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vị giải thoát."



II. VỀ VĂN HỆ VÀ VĂN PHONG

1. Phương thức truyền thừa: Cả hai đều khẩu truyền suốt 400 năm sau Phật nhập diệt. Sau đó được biên tập thành ba tạng kinh điển.

2. Văn hệ: PG nguyên thủy sử dụng tiếng Ma-kiệt-đà, về sau sử dụng Pali. PG Đại thừa sử dụng phương ngữ miền Trung Ấn => "Sanskrit tạp" (Hybrid Sanskrit), gần Sanskrit cỗ, ngữ văn quý trọng của Ấn Độ. Không được truyền thống thừa nhận là Buddhavaccana. Được dịch ra Hán cổ và Tạng ngữ.

III. VỀ ĐỨC PHẬT

1. Vai trò của đức Phật

- Ðức Phật toàn tri, có 6 thần thông và chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sự xuất hiện của đức Phật là quý hiếm như hoa ưu đàm.

- Đức Phật Thích-ca không phải là nhưng vượt lên trên Thượng đế và thần linh.

- Đức Phật là bậc đạo sư, là người chỉ đường, đại lương y, pháp vương, điều trị dứt điểm các bệnh khổ đau của chúng sinh.



2. Sử liệu về đức Phật

- PGNT: Sanh 624 (15-4), đi tu lúc 29 tuổi, 35 tuổi thành đạo (15-4), nhập diệt lúc 80 tuổi (15-4). 45 chuyển pháp luân. Cuộc đời thật.

- PGĐT: Sanh 624 (8-4), đi tu lúc 19 tuổi (8-2), 5 năm tầm đạo, 6 năm khổ hạnh, thành đạo 30 tuổi (8-12), nhập diệt lúc 70 tuổi (15-2). 49 thuyết pháp. Thị hiện.

3. Thân Phật

- PGNT: Sắc thân bốn đại chịu tác động của vô thường, vẫn sinh, già, bệnh, chết nhưng không đau khổ theo.

- PGĐT: Có ba thân (Trikāya, 三身): Pháp thân (Dharmakāya)= thân chánh pháp, báo thân (Sambhogakāya, 報身) = Thụ dụng thân (zh. 受用身), “thân của sự thụ hưởng công đức, Ứng thân (zh. 應身, sa. nirmāṇakāya) = sắc thân.

4. Số lượng và thọ mạng

- PGNT: Một đức Phật lịch sử, 80 tuổi. PGĐT: Vô số Phật ở mười phương, thọ mạng dài lâu vô lượng.



IV. GIÁO PHÁP CĂN BẢN

1. Giống căn bản: Tứ diệu đế, tam pháp ấn, lý duyên khởi, nhân quả nghiệp báo, luân hồi tái sinh. Chủ trương xã hội bình đẳng, công bằng, dân chủ. Tám chánh đạo và tam vô lậu học là con đường đạt được Niết-bàn và giải thoát. Không thừa nhận có nguyên nhân đầu tiên, phủ định duy vật và duy tâm, chủ trương một thế giới quan duyên khởi và nhân sinh quan tổ hợp (uẩn).

2. Đạo đức học

- PGNT: năm điều đạo đức, mười điều thiện, giới sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na-ni, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Làm chủ bốn oai nghi. Xét trên quy chuẩn luật.

- PGĐT: Ngoài ra, còn có thêm giới Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia. Đặt nặng động cơ của tâm ý.
3. Phương thức độ sanh

- PGNT: Không thêm một câu, không bớt một chữ, giữ nguyên truyền thống và bản sắc. Không thể độ người không có duyên và nhân xấu đã đến lúc chín muồi. Giác ngộ tự thân rồi mới dấn thân hóa độ chúng sinh.

- PGĐT: Dùng "phương tiện thiện xảo", theo trình độ và căn duyên của người nghe => Tiếp biến văn hóa để độ sanh. Không vội chứng Niết-bàn, phát nguyện đồng hành với chúng sinh.

4. Quả vị giác ngộ (Phala)

- PGNT: Quả A-la-hán là cao nhất, chỉ sau đức Phật khai sáng. Đồng với Thanh Văn, Duyên Giác và Độc giác.

- PGĐT: Bồ Tát Thừa (Bodhisatva-yana) phân biệt với Thanh Văn Thừa (Sravaka-yana) với quả vị A-la-hán (Arahat), không phải quả vị Chánh Đẳng Giác (Samma-sambuddho). Thanh văn thừa, Độc giác thừa, và Bồ tát thừa đều quy về Nhất Thừa (eka-yana).

=> Sự thấp kém của A-la-hán là vô lý. Không A-la-hán nào là người còn chấp ngã và ích kỷ.



5. Niết-bàn (nirvāṇa; nibbāna)

a) Giống nhau: Trạng thái an tịnh hoàn toàn, tận trừ mọi phiền não (kilesa) và đau khổ; hoàn toàn an tịnh (sànta), vi diệu (Panìta), an lạc (安樂), giải thoát (解脫), vô vi (無爲).

b) Khác nhau

- PGNT: Hữu dư Niết-bàn (有餘涅槃; sa. sopadhiśeṣa-nirvāṇa, pi. savupadisesa-nibbāna), Vô dư Niết-bàn (zh. 無餘涅槃, sa. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa, pi. anupadisesa-nibbāna). Niết bàn là vô ngã.

- PGĐT: Vô trụ xứ Niết-bàn (zh. 無住處涅槃, sa. apratiṣṭhitanirvāṇa) và Trụ xứ Niết-bàn (zh. 住處涅槃, sa. pratiṣṭhita-nirvāṇa). Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh.
Bài 3: BỐI CẢNH XÃ HỘI THỜI ĐỨC PHẬT

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ

- Văn hóa Ấn Độ hình thành vào TK15 TTL, nhờ vào tư duy sáng tạo của dân Aryana và phi-Aryan.

- Dân Aryan lần theo núi Hindu Kush vào Đông Bắc Ấn, đánh bại dân bản xứ là Dravidian. Lúc đầu định cư ở vùng ngũ Hà (Panca-nada) tức Panjab, về sau ở sông Hằng.

- Aryan nói thổ ngữ Vedic, nền tảng của ngôn ngữ Ấn - Âu.

- Đến TK12 TTL, hình thành văn minh Harappan, thay đổi lễ nghi tôn giáo, phong tục, ngôn ngữ.

- Đây là thời kỳ tranh minh tôn giáo lớn nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Hy Lạp có Plato, Socrates. Trung Đông có Zoroaster. Trung Quốc có Lão Tử và Khổng Tử. Ấn Độ có nhiều triết phái và triết gia nhất.



II. BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ

- Theo Kinh Tăng Chi (Vol I, p 213, Vol IV, pp 252, 256, 260): Ấn Độ trước thời Phật gồm có 16 nước lớn (Solasa Mahājanapada):

(1). Anga, có giai đoạn trở thành một phần của vương quốc Magadha.

(2). Magadha vương quốc của vua Bimbisāra và Ajātasattu, thủ phủ tại Vương xá.

(3) Bārānasi thủ đô là Kāsī, nổi tiếng tơ lụa.

(4) Kosala vương quốc của vua Pasenadi, thủ phủ tại Sāvatthī.

(5) Vajjī Thủ phủ là Vesālī.

(6) Mallas thủ phủ là Kusināra.

(7) Cetī phía tây nam của Kāsī.

(8) Vanga thung lũng sông Hằng.

(9) Kurū đông bắc của Delhi ngày nay (nơi giảng Kālāma suttas).

(10) Pañcāla miền Tây của Kāsī.

(11) Maccha miền Tây của Cetī.

(12) Sūrasena miền Tây của Delhi.

(13) Assaka vùng có hang động Ajanta.

(14) Avantī phía tây nam của Cetī

(15) Gandhāra có đại học Takkasila (Taxila) nổi tiếng.

(16) Kamboja vượt khỏi núi Hindu Kush, nay là Afghanistan. Nổi tiếng ngựa quý

- Bốn nước lớn là, được đề cập đến nhiều là Magadha, Kosala, Avanti và Vamsa. => Sự tranh giành quyền lực giữa các nước lớn đối với các nước nhỏ.

- Về tập cấp xã hội, lúc đầu, giới vua chúa nắm mọi quyền bính theo tập quyền trung ương. Về sau, giới Bà-la-môn mới thật sự nắm các quyền bính, đứng trên cả vua chúa.

- Dân Aryan phân chia xã hội thành bốn giai cấp: “Vì sự phồn vinh của thế giới, đấng Phạm thiên đã tạo giới Bà-la-môn từ miệng, giới Sát-đế-lợi từ cánh tay, giới thương gia từ bắp vế và giới lao động từ chân của mình.” => Thượng đế được xem là công cụ cai trị, chà đạp nhân phẩm con người.

III. BỐI CẢNH TÔN GIÁO

Có hai trường phái tôn giáo chính ở Ấn Độ, phái Ấn Độ giáo và phái Sa-môn giáo. Phái Ấn Độ giáo còn gọi là phái chính thống (astika) gồm: (1) Chánh lý (Nyaya), (2) Thắng luận (Vaisesika), (3) Số luận (Samkhya), (4) Yoga, (5) Mimamsa, (6) Hậu Veda (Vedanta).

Phái Sa-môn (samana/ nastika) gồm có 3 nhóm chính (1) Carvaka, (2) Jaina, (3) Ajìvika, (4) Bauddha.

1. Phái Ấn Độ giáochính thống (Astika)

a) Chủ trương chính

-Dựa vào kinh điển Veda.

- Tổ chức xã hội thành 4 giai cấp.

- Học kinh Veda, tu khổ hạnh (tapa) là cách xóa tội.

- D.I. 127; DB. I. 173 : Tế lễ là sự truyền thông thần bí giữa người và thần thánh => nghi lễ đẫm máu, tốn kém, vô nhân đạo.

b) Bốn giai cấp

- Giai cấp Bà-la-môn: Giới tu sĩ học hỏi và truyền bá kinh Veda, thực hiện các nghi thức tế lễ cho mình và các giai cấp khác.

- Giai cấp Sát-đế-lợi: Giới vua chúa, giới quân sự, phụ trách công việc quản trị quốc gia, thực hiện tế lễ, thống lãnh mọi quyền bính quan trọng nhất.

- Giai cấp Thương gia: Giới thương buôn, canh tác đất đai, nuôi gia súc, làm nông nghiệp; tham dự các cuộc tế lễ của Bà-la-môn giáo.

- Giai cấp Lao động (sudra): Phục dịch và nô lệ cho 3 giai cấp trên. Không được học hành, không được tham dự nghi thức tôn giáo.

Ba giai cấp trên có 2 lần sinh ra. Lần thứ nhất là do cha mẹ. Lần thứ hai từ sự học hỏi văn hóa từ kinh Veda.



c) Bốn giai đoạn của kiếp người

1) Phạm thế kỳ: Từ 5-19 tuổi đối với Bà-la-môn, từ 6-20 tuổi đối với Sát-đế-lợi và 8-24 tuổi đối với thương gia. Học kinh Vệ-đà, kỹ năng và phẩm chất tốt.

2) Gia trú kỳ: Làm gia chủ, từ việc lập gia đình. Hưởng hạnh phúc gia đình và phục vụ xã hội bằng cách nuôi dạy con cái, làm giàu, giúp đỡ cha mẹ và họ hàng, dâng cúng Bà-la-môn, và tế lễ chư thần.

3) Lâm trú kỳ: Tuổi về hưu, sống trong rừng bằng rau quả. Tiếp tục nghiên cứu kinh Vệ-đà và thực hiện tín ngưỡng.

4) Độn thế kỳ: Tuổi 70 trở đi, từ bỏ cuộc sống, đi lang thang tìm đạo. Khất thực, từ bỏ bám víu, tu tập thiền định, để hợp nhất với Phạm Thiên

d) Dùng thần để cai trị con người

- Ấn Độ giáo chủ trương đa thần, đề cao vai trò của thượng đế qua ba phương diện (khai sinh, duy trì, hủy diệt), chủ trương định mệnh, bất công, khổ hạnh và tế lễ.

-Con người trở thành nô lệ của thần và 2 giai cấp đầu.

- GS. P.L. Narasu (1976) : «Thuật tế lễ phát sinh sự kính trọng của người dân. Người có kiến thức về tế lễ sẽ thành công trong việc thống trị nhân dân Ấn Độ » Bà-la-môn là trên hết. (Xem D. III. 93-95; DB. III. 88-91; Trường II. 407-410).



2) Các phái phi chính thống (Nastika)

a) Khuynh hướng 

- Các nhà tư tưởng tiến bộ bất bình trước sự bất công của xã hội bị tôn giáo lũng đoạn qua hình ảnh của Phạm thiên. Gọi chung là các phái sa-môn, đạo sa-môn.

- Tự do tư tưởng, hình thành thế giới quan và nhân sinh quan không lệ thuộc vào Veda và quan niệm tôn giáo truyền thống.

- Không chấp nhận 3 chủ thuyết chính chủ nghĩa (1) thần ý luận, (2) định mệnh luận và (3) ngẫu nhiên luận.

- Loại bỏ vai trò của thượng đế, các thần linh, giới Bà-la-môn.

b) Các trường phái sa-môn

+ Phái duy vật (Lokayata) : Đề cao tự do ý chí và hành động, không chấp nhận định mệnh.

+ Phái kỳ-na (Jainism) : Bất bạo động, trường trai, mặc áo không khí, khổ luyện, nửa định mệnh, nửa tự lực.

- Họ tự cho được toàn tri trong khi đi, đứng, ngồi hay nằm. Tên của các vị Lục Sư Ngoại Đạo được biết đến là Pùrana Kassapa (phi nghiệp), Makkhali Gosàla (tự nhiên luận), Ajita Kesakambali (thuyết hoại diệt), Pakudha Kaccàyana (thuyết thường hằng), Nigantha Nàtaputta (thuyết trừ nghiệp cũ, ngưng nghiệp mới) và SanÕjaya BelatÏtïha putta (ngụy biện luận).

- Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh (D. I. 47; DB. I. 66; Trường I, 94) đề cập đến 6 đạo sĩ thuộc các truyền thống sa-môn ngoài đạo Phật. Mỗi vị là “lãnh tụ của một giáo đoàn, của một nhóm ủng hộ, thầy của một trường phái, được biết đến nhiều và nổi tiếng là một nhà hùng biện, được người dân kính trọng, một người có kinh nghiệm, từ lâu là một người tu ẩn dật, cao tuổi và có ảnh hưởng trong nhiều năm.” Phạm vi hoạt động ở Magadha.

- Hình thành 62 học thuyết triết học tôn giáo thời Phật, thuộc về tà kiến.

+ Phái sa-môn giác ngộ (Buddhism) :

- Cuộc cách mạng tư tưởng, sinh ra hệ thống triết học lấy con người (tự ngã) làm trung tâm. Thành công nhất là đạo Phật (triết học nhân bản và nhân văn).

- Đề cao trách nhiệm đạo đức và vai trò trí tuệ,

- M. I. 39; MLS. I. 49; Trung I. 93: Tín ngưỡng rữa tội bằng cách dìm mình xuống các sông thiêng như Bahuka, Sundarika, Bahumatì, Ganga, Sarassatì là không có tác dụng.



IV. VỊ TRÍ CỦA ĐẠO PHẬT

1. Quan điểm 1: Đức Phật chịu ảnh hưởng từ Ấn giáo đương thời.

- Các tư tưởng hiện hữu trước thời Đức Phật nhất thiết là đã có những ảnh hưởng đối với Đạo Phật.

- Cho rằng Đạo Phật phát nguồn từ các tư tưởng Vệ-đà, Áo nghĩa thư, Kỳ-na giáo, Yoga.

- S.Radhakrisnan trong Triết học Ấn giáo (1958): “Đạo Phật ít nhất trong nguồn gốc của nó là một nhánh của Ấn giáo.”

- K.N. Upadhyaya (1983: 104): “Đạo Phật cũng chịu ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng đương thời khác nhau.”

- P. Bandyopadhyay: “Đức Phật không cảm thấy Ngài đang tuyên dương một tôn giáo mới.”



2. Quan điểm 2: Đạo Phật có vị trí độc lập vì đức Phật là bậc có trí tuệ vô sư.

- P.D. Mehta trong Tư Tưởng Tôn giáo Ấn Cổ (1982:186f) “Tôn giáo mà Đức Phật đã tuyên bố là độc lập đến nỗi nó khác xa một cách đáng ngạc nhiên so với tất cả các tôn giáo lớn khác. Giáo Pháp,chứ không phải một Con Người thần thánh hay một Đấng Tuyệt Đối, chính là nguồn gốc. Mục tiêu là vô ngã, đoạn diệt với nguồn đau khổ và xấu ác, và sự chứng ngộ Bất Tử, Niết-bàn. »

- K.T.S.Sarao (1995:25) : “Đạo Phật xuất hiện như một câu trả lời cho nhiều vấn đề khác nhau, những vấn đề đã phát sinh trong xã hội và cái ảnh hưởng toàn diện của Đạo Phật cung cấp một mãnh đất trù phú cho sự đâm chồi của nhiều đức tin. Trong thời Đức Phật, sự đặt ngang nhau của kinh Vệ đà về công việc và sự thờ phụng, giàu có và phúc lợi, con người và thiên nhiên bị phá vỡ một cách thô bạo. »

- K.N.Upadhyaya (1971:105): “Đức Phật không chỉ chịu ảnh hưởng bởi những tư tưởng đương thời. Thiên tài của Ngài nằm trong sự tránh xa tất cả các cực đoan và đi theo một con đường trung đạo trong đó các chân lý một phần của các trường phái đối nghịch khác được kết hợp mà không hủy hoại vị trí của Ngài.”


Bài 4: BA GIAI ĐOẠN TRIẾT HỌC ẤN GIÁO

I. NỀN TẢNG TRIẾT HỌC ẤN GIÁO

1. Khái niệm

- Ấn Độ giáo (Hinduism): Bắt nguồn từ tiếng Ba-tư “sindhu,” = Latin “Indus,” = cư dân sống tại địa lục Ấn Độ (cf. Monier-Williams p.1298) => Từ “umbrella term” chỉ chung các truyền thống tôn giáo và triết học tại Ấn Độ (Indian religio-philosophical traditions), bao gồm Phật giáo (Buddhism) và Kỳ-na giáo (Jainism).

- Bà-la-môn giáo hay Ấn Độ giáo (Hinduism) = hệ thống tín ngưỡng tôn giáo và triết học (a body of religious and philosophical beliefs) tại Ấn Độ (Indian subcontinent). Không có người sáng lập.

- Ấn Độ giáo = một trong các truyền thống tôn giáo cổ xưa nhất của nhân loại (Hinduism is one of the world’s oldest religious traditions) dựa vào kinh điển Veda, các bản văn tôn giáo xưa nhất của nhân loại, hiện còn tồn tại (the oldest surviving Vedas). # Ấn Độ giáo mới (Neo-Hinduism) = hệ thống tín ngưỡng và triết lý Ấn giáo do các nhà Ấn Độ học chủ xướng theo phong cách thế tục hóa (sectarianism) và khoa học (scientism) của phương Tây.

- Các nước theo Ấn Độ giáo: Bali, India, Mauritius, Nepal. Nay có mặt khắp châu Á, châu Phi, châu Âu và châu Mỹ.

2. Đa thần giáo (Polytheism)

- Đa thần giáo = tín ngưỡng thờ phượng nhiều thần = đặc điểm quan trọng nhất của Ấn Độ giáo

- Cũng có người Ấn Độ theo truyền thống giáo phái (sectarian traditions): Vaiṣṇavism chỉ thờ nhất thần Viṣṇu hoặc Śaivism, chỉ thờ nhất thần Śiva.

- Trong các thần Ấn giáo (Indic deities), Phạm thiên (Brahmā) được xem là quan trọng nhất, đấng sáng thế (the Creator God). (cf. Majjhima Nikāya II.130; Saṃyutta Nikāya I.421-23).

- Trong Veda, có 33 thần chính. Có khoảng 330 triệu thần (Wikipedia.com) => các hình thái vô tận của thượng đế (indicating infinite forms of God).

- Tam thần quan trọng (Hindu Trinity): Brahma (sanh, sống), Viṣṇu (tồn tại, duy trì, the Preserver or Sustainer of life. Có 10 hóa thân, vợ là Lakṣmī) và Śiva (chết, hủy diệt = Shiva Limgam).

- Các thần phổ biến khác của Ấn giáo:

(1) Ganesha: Con của Shiva and Parvati. Biểu tượng của thành công, diệt tà ma, chướng ngại. => tri thức, trí tuệ, tài lộc.

(2) Krishna: hóa thân thứ chín của Vishnu. Ảnh hưởng trong tư tưởng, văn hóa, văn học, hội họa, điêu khác, múa, nhạc.

(3) Rama: Hóa thân hoàn thiện nhất của thần duy trì Vishnu (Supreme Protector Vishnu) = biểu tượng chân lý, đạo đức, con lý tưởng, chồng lý tưởng, vua lý tưởng, chủ nghĩa anh hùng.

(4) Hanuman: hóa thân của thần Shiva. Chống lại sự dữ, tà ma. Biểu tượng sức khỏe, duy trì và dâng hiến. Phổ biến trong đền Ấn giáo.

(5) Lakshmi: nữ thần may mắn, tài lộc, thịnh vượng. Nghĩa đen là mục đích (aim, goal). Đẹp, thanh tịnh, sinh sôi, lý tưởng.

(6) Durga: nữ thần mẹ (The Mother Goddess): năng lực thiên khải (shakti) của thần Shiva. Bảo vệ công bằng, tiêu diệt tà ác.

(7) Kali: Nữ thần đen (the dark goddess): Hình thái sợ hãi của thần nữ mẹ Durga. Vợ của Shiva.

(8) Saraswati: nữ thần học hỏi, tri thức, trí tuệ, nghệ thuật, âm nhạc. Mẹ của kinh Veda. Con của thần Shiva và Durga.

3. Nghiệp (Karma)

- Giống với Phật giáo và Kỳ-na-giáo, cuộc sống con người được quản lý bởi nghiệp (karma).

- Karma = hành động = nhân quả đạo đức gồm thân thể, luân lý, tâm lý, tâm linh (the moral, psychological spiritual and physical causal consequences).

4. Cứu cánh của con người (Puruṣārthas): dharma, artha, kāma and mokṣa

- Hệ bốn giá trị chính (a core set of values) = puruṣārthas = cứu cánh của con người (ends of persons). Quan trọng trong tư tưởng Ấn Độ.

a) Pháp (dharma): Trách nhiệm đạo đức và luân lý theo Veda.

b) Tài sản (artha): Tài sản kinh tế cần cho sự sống.

c) Khoái lạc (kāma): Khoái lạc giác quan.

d) Giải thoát (mokṣa): Kết thúc sinh tử.



5. Giai cấp (Varna, caste)

- Varna = màu da, đặc điểm phân biệt chủng tộc. Nhóm cùng nghề nghiệp mang tính tập cấp. Dựa vào huyết thống (jati).

- Xã hội 4 giai cấp (the four-fold caste society/ caste-social order): trách nhiệm tập cấp (strict obligations).

- Thiết chế giai cấp Ấn giáo dựa vào màu da (varna) và phân định theo huyết thống thọ sinh (jāti).

- Thiết chế giai cấp (the institution of a caste system): được biện hộ như sự phân công lao động (obligate them to certain occupations in life).

- Vũ trụ là hệ thống đạo đức được thực hiện bằng trách nhiệm và tế tự súc vật cho thần linh (the universe is a closed ethical system, supported by a system of obligation and animal to the gods).

- Mục đích ngự trị xã hội (social domination) => quy định đạo đức học giai cấp (caste morality) cần thiết cho người tầm cầu tâm linh (spiritually serious aspirant).

a) Bà-la-môn (Brahmins): Giai cấp tu sĩ (priestly caste), giai cấp học giả (scholarly caste).

b) Giai cấp Sát-đế-lợi (Kṣatriya): Giai cấp hoàng gia (royal caste), chính trị gia và quân đội (marshal caste).

c) Giai cấp thương gia (Vaiśyas): Bao tử của xã hội.

d) Giai cấp lao động (Sūdras): Các thành phần lao động tay chân.

* Ba giai đoạn tôn giáo - triết học Ấn Độ

a) Triết học Ấn Độ giáo không hệ thống (Non-Systematic Hindu Philosophy): Bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ 2 trước TL. Dựa vào kinh Veda và các bản văn tôn giáo khác.

b) Triết học Ấn Độ giáo có hệ thống (Systematic Hindu Philosophy): Thiên niên kỷ thứ nhất trước TL.

c) Triết học Ấn Độ giáo mới (Neo-Hindu Philosophy): Bắt đầu thế kỷ 19.

II. Triết học Ấn Độ giáo không hệ thống (Non-Systematic Hindu Philosophy)

- Bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ 2 trước TL. Dựa vào kinh Veda và các bản văn tôn giáo khác.



a. Bốn bộ Veda (Vedas Samhitā)

- Tk 12 TTL, người Aryan hình thành văn minh thung lũng Indu, văn hóa Harappan.

- Không có bộ kinh gốc, không thuộc một tác giả. Công của nhiều giáo sĩ Ấn giáo.

- Kho tàng văn học lớn (large corpus), theo khẩu truyền từ thầy sang trò (transmitted orally from teacher to student).

- Thuật ngữ “veda” = tri thức (knowledge) hay trí tuệ (wisdom).

- Vedas được sáng tác khoảng 900 năm, từ 1500 TTL đến 600 TTL. Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language) > ngôn ngữ Sanskrit, thực ra là tiền Sanskrit, ngôn ngữ Vedic.

- Bốn Veda gồm: Thánh ca thọ minh (Ṛg Veda), Thánh ca bình minh (Sāma Veda), Thánh ca tự minh (Yajur Veda) và Thánh ca thuật minh (AtharvaVeda). Kinh Phật đề cập 3 Veda đầu. Atharva Veda phát triển về sau.

- Mỗi Veda thường được biên tập thành 4 phần: Thần chú thư (Mantras), Tế nghi thư (Brāhmanas), Lâm thư/ A-lan-nhã thư (Āraṇyakas), Áo nghĩa thư (Upaniṣads).

(1) Phần hành động của Veda (Karma Khaṇḍa/ Action Section of the Vedas).

+ Phần thần chú (mantras): phần chính yếu = bùa chú (incantations) và thánh vịnh (sacred chants).

+ Phần Tế nghi th (Brāhmaas): 800 TTL. Các hướng dẫn về nghi lễ (ritual instruction), thảo luận về ý nghĩa của nghi lễ Veda (Vedic rituals), thần thoại vũ trụ.

- Còn gọi là Pūrvamīmāṃsā, nghĩa là khảo cứu trước (former inquiry).

- Cầu mong ân tứ của thần linh (favors from deities), quả phúc (artha, kāma) do tế tự.



(2) Phần tri thức của Veda (āna Khaṇḍa/ Knowledge Section of the Vedas)

Bao gồm Lâm thư (Āraṇyakas) Áo nghĩa thư (Upaniṣads).

- Sau Phần hành động (karma khaṇḍa) là Lâm thư (Āraṇyakas/ forest books): Sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo (rituals), dành cho giáo sĩ Ấn giáo. Dạy khổ hạnh và thiền là cách hợp nhất với Phạm thiên.

- Sau Lâm thư là Áo nghĩa thư (Upaniṣads). 700 TTL. Đỉnh cao của Veda. Đối thoại tôn giáo giữa thầy và trò về các vấn đề siêu hình học (metaphysical issues) và vũ trụ (cosmological issues). Thuyết bất nhị (advaita) giữa Phạm thiên và tiểu ngã. Khát vọng giải thoát bằng Yoga.

- Kiến thức (jñāna) về Phạm thiên (Brahman), từ trung tính chỉ cho đấng tuyệt đối, tức thượng đế (a neuter term for the Ultimate/ the ultimate God).

(2) Phần tri thức của Veda (āna Khaṇḍa/ Knowledge Section of the Vedas)

- Trong Upaniṣads, Phạm thiên (Brahman) = tiểu ngã (Ātma). Nhận thức được tính đồng nhất này, con người thoát khổ (cf. MuṇdakaUpaniṣad 7).

- Brahman/ Ātma = thực tại toàn trí, toàn năng, hiện hữu cùng khắp (the omniscient, omnipotent, omnipresent).

- Phần sau của Veda được gọi là hậu Veda (vedānta) hayuttara mīmāṃsā (khảo cứu cao cấp, higher inquiry) không thỏa mãn với các nghi lễ tôn giáo (dissatisfaction with ritual).

- Vedānta có nghĩa là “end of the Vedas.” Còn được gọi là phần tri thức (jñānakhaṇḍa/ knowledge portion) của Veda.

- Trường phái Vedānta nhấn mạnh phần tri thức của Vedas.

- Nhấn mạnh rằng vũ trụ là kết quả của mối quan hệ nhân quả giữa Phạm thiên và tiểu ngã (cosmos is the result of the causal efficacy of Brahman, or Ātma). (cf. MuṇdakaUpaniṣad I.ii.10).

b. Các bản văn thứ yếu (Smṛti Literature/ Secondary Texts)

- Theo các trường phái Pūrvamīmāṃsā và Vedānta, các Kinh Vedas là các bản văn mặc khải (śruti = heard/ revealed texts) và đối lại với văn học thuộc lòng (smṛti/ remembered texts).

- Các bản văn thuộc lòng rất nhiều, do dựa vào việc học tập kinh Veda của quần chúng.

- Văn học Vedas dành cho giai cấp cao. Văn học smṛti từ gốc Sanskrit, xâm nhập vào ngôn ngữ phổ thông.

- Xuất hiện cuối giai đoạn Veda. Giúp tín đồ hợp nhất mục đích (đạo đức) cho phần hành động trong Veda để được giải thoát (mokṣa)

(1) Văn học chuyện kể (Itihāsas)

- Khoảng 1000 TTL – 700 STL. Được biên tập nhiều lần, đến tk 2 TL mới xong.

- itihāsa= từng được nghe kể về (thus spoken). Dạng chuyện kể, chứa triết lý về đạo đức và vũ trụ.

- Nổi tiếng nhất trong văn học thuộc lòng (smṛti) là anh hùng ca Ấn giáo (Hindu epics) như Mahābhārata Rāmāyana.

(b) Mahābhārata: Chiến tranh giữa con cái của 2 hoàng tử. Nhân vật thần Kṛṣṇa nổi trội nhất, là cousin của hai bên. là Chí tôn ca (Bhagavad Gītā).

(a) Rāmāyana: Cuộc đời của thái tử Rāma chiến thắng vua Rāvana, dành lại công chúa Sītā.



(2) Chí tôn ca (Bhagavad Gītā)

- Phần nổi tiếng nhất của Mahābhārata.



- Đàm đạo của thầnKṛṣṇa ngay đêm xảy ra cuộc chiến giữa Mahābhārata với Arjuna (anh em chú bác), giành ngai vàng. Kṛṣṇa khuyên Arjuna hãy thực hiện nghĩa vụ chiến tranh (Bhagavad Gītā 2:31) (For “better is one’s own duty, though ill done, than the duty of another well done….” (Bhagavad Gītā 18:47; cf. Manu X. 97).

(3) Văn học lịch sử (Purāṇas)

- “Purāna” = lịch sử. Gồm các bản văn có nội dung: (a) Giới thiệu tiểu sử các thần và vũ trụ, (b) Ca tụng các thần.

- Không giới hạn trong các hóa thân của các thần. Mô tả hoạt động của các thần, bao gồm tái sinh.

- Khó xác định niên đại ra đời của Purāṇa. Có nhiều Purāṇas, nổi tiếng nhất là BhāgavataPurāṇa.



(4) Pháp luận (Dharmaśāstra)

- “dharmaśāstra” = luận hoặc khoa học (śāstra) về pháp (dharma).

- Loại văn học của các nhà Bà-la-môn với mục đích truyền bá và củng cố giai cấp (Varna āśrama dharma). Bà-la-môn là giai cấp được đặc quyền nhất.

- Chứa nhiều đặc điểm của văn học thuộc lòng (smṛti), hấp dẫn về triết lý.

- Giống Purāṇa, Pháp Luận nói về nguồn gốc thế giới, quy định gắt gao về tập cấp xã hội như một trách nhiệm đạo đức, loáng thoáng về sự giải thoát. Hình thành trật tự xã hội Ấn giáo.

- Thiên niên kỷ thứ nhất trước TL. Ngôn ngữ Sanskrit.

- Kinh điển Veda là nền của các trường phái triết học Ấn giáo (systematic Hindu philosophies) nhưng không phải là các bản văn về triết học một cách có hệ thống. Nhiều vấn đề triết học bị bỏ qua.

- Các trường phái triết học Ấn giáo (darśana) hệ thống hóa Veda theo cách riêng.

- “darśana” = “vision” => chỉ cho quan điểm triết học có hệ thống (systematic philosophical views).

- Các phái triết Ấn nhấn mạnh đến darśanas như quan điểm triết học (philosophical views), xuất hiện cùng nhau.



III. Triết học Ấn Độ giáo có hệ thống (Systematic Hindu Philosophy)

- Triết Ấn gồm 6 phái (āstika): Nyāya, Vaiśeṣika, Sāṅkhya, Yoga, Pūrvamīmāṃsā, và Vedānta.



a. Nyāya

- Tổ sáng lập Gautama (Tk. 2).

- “Nyāya” = luận lý hình thức (formal reasoning), về sau hiểu chung là logic.

- Dùng logic để thảo luận về nhận thức luận, thần học, siêu hình học.

- Giai đoạn đầu được xem là đối lập với các phái triết Ấn chánh thống (darśanas). Từ thế kỷ 17 Gaṅgeśa đánh giá lại như triết chính thống, nhấn mạnh các vấn đề nhận thức luận, không đào sâu siêu hình học => hình thành nên phái Luận Lý Mới (Navya Nyāya).

- Nhận thức luận: Trực quan (perception), suy luận (inference), ảnh dụ (analogy) và luận chứng miệng (verbal testimony). (Nyāya-Sūtra I.1.3–7).

- Theo tác phẩm Nyāya-Sūtra, phái này phân tích 16 chủ đề: pramāna (nhận thức luận, epistemology), prameya (bản thể học, ontology), saṃśaya (hoài nghi, doubt), prayojana (mục đích, purpose), dṛṣṭānta (tình huống lập luật, cases that establish a rule), Siddhānta (học thuyết, established doctrine), avayava (tiền đề của tam đoạn luận, premise of a syllogism), tarka (reductio ad absurdum), nirnaya (niềm tin được từ phương tiện, beliefs gained through means), vāda (thảo luận, discussion), jalpa (tranh biện thắng đối phương, sophistic debates aimed at beating the opponent), vitaṇḍa (tranh biện thành lập quan điểm, a debate establishing a positive view), hetvābhāsa (luận điểm thuyết phục, persuasive arguments), chala (phản biện làm rõ nghĩa, attempt to contradict a statement by equivocating its meaning), jāti (hồi biện dựa vào ví dụ sai, an argument based on a false analogy), và nigrahasthāna (nền tảng tranh biện) (Nyāya-SūtraVātsyāyana’s Bhāṣya I.1.1-20).

b. Thắng luận (Vaiśeṣika)

Khái niệm: Sáng lập sáu phạm trù (lục cú luận), không có thuyết nào hơn nỗi, nên gọi là Thắng. Do Thắng nhân sáng lập nên gọi là Thắng luận.

- Do đạo sĩ Kaṇāḍa (Tk.1) thành lập. Tên nghĩa đen là “atom-eater” vì chủ trương chủ nghĩa nguyên tử bản thể luận (ontological atomism) (Vaiśeṣika Sūtra VII.1.8).



Chủ trương (Vaiśeṣika-sūtra): Lục cú luận. Các phạm trù (padārtha) vốn đa thù, thực hữu tính, được nhận thức bằng hiện lượng.

- Căn bản có 6 phạm trù: (1) thực thể (dravya), (2) đức tính (guṇa), (3) nghiệp (karma), (4) đồng (sāmānya), (5) dị (sādṛśya), (6) hòa hiệp (samavāya). (Vaiśeṣika Sūtra I.1.4).

- 10 phạm trù (Thắng tông thập cú nghĩa luận): 6 phạm trù đầu + (7) hữu năng (śakti), (8) vô năng (aśkati), (9) câu phần (sādṛśya: tương tợ), (10) vô thể, vô thuyết (abhāva).

- Từ kiến thức về phạm trù (knowledge of the categories/ knowledge of the essences), đến kiến thức về chân lý (knowledge of truths), nhằm đạt giải thoát mokṣa.

- Vaiśeṣika Sūtra’ của Kaṇāḍa: Giảng giảng về dharma (luân lý giai cấp) vốn do thượng đế (niḥreyasa) quy định; con đường đạt được 4 mục đích kiếp người (puruṣārtha).

- Śaṅkara-Misra (Tk. 15): Giá trị Veda là do giải thích về luân lý (validity of the Vedas rests on the fact that it is an explication of dharma). (Śaṅkara-Misra’s VaiśeṣikaSūtra Bhāṣya I.1.2, p.7).



c. Số luận (Sāṅkhya)

- Thần ngã có tính năng nhận thức. Chủ thể “tôi.” Tâm, hoạt động tâm, thông đạt (mahat) không phải là một phần của thần ngã, mà là kết quả của tổ chức vật chất phức tạp (complex organization of matter), gọi là guṇa. (Sāṅkhya Kārikā 12-13, 19, 21).

- Hai bản thể này kết hợp nhau, phát sinh 23 sự thật: đại (mahat), ngã mạn (ahaṃkāra); từ ngã mạn phát sinh 16 thứ: 11 căn (indriyāni) và năm duy (pañca tanmātrāṇi). Từ 5 duy phát sinh 5 đại (pañca mahābhūtāni). Trong đó, một nguyên lý duy bản chất là tự tánh; duy biến thái gồm có 5 đại và 11 căn vì được sinh từ cái khác chứ tự thân không làm bản chất để phát sinh cái khác; vừa bản vừa biến gồm đại, ngã mạn và 5 duy vì được sinh từ cái khác và cùng phát sinh ra cái khác. Thần ngã phi bản, phi biến. Tổng thể, có tất cả 25 nguyên lý, từ đó phát sinh mọi hiện tượng

d. Yoga

- Khoảng tk.3; dựa vào UpaniṣadsBhagavad Gītā. Hệ thống nhất là Yoga Sūtra của Patañjali.

- Chủ trương vũ trụ nhị nguyên luận (dualistic cosmology) như Số luận (Sāṅkhya).

- Không lệ thuộc 100% vào thẩm quyền Veda, nhấn mạnh về siêu hình học và luân lý, như bản chất của tác nhân (the nature of agency) và hướng dẫn các phương pháp giải thoát.

- Vũ trụ là tương tác của hai phạm trù thần ngã (Puruṣa) và tự tánh (Prakṛti). Về thần ngã, giống với Số Luận (cf. Yoga Sūtra II.18)

- Không cho tâm (Mahat) là tạo vật vĩ đại của thiên nhiên (the greatest creation of Nature).

- Yoga Sūtra IV.18: Thần ngã là “chúa của tâm” (lord of the mind). Giải thoát là do nỗ lực của thần ngã. Số luận: giải thoát do tự tánh làm thần ngã giác ngộ (Nature enlightening the Puruṣa).

- Làm thư lắng tâm (Astāṅga yoga): Theo Yoga Sūtra II.29-32, gồm có 8 (aṣṭa) bước (anga) :



yama – Không làm điều tà ác như sát hại (Ahiṃsā), nói láo (asatya), tham lam – ganh ghét (aparigraha), tuyệt dục (brahmacarya).

niyamas – thực tập thanh tịnh (sauca), hài lòng (santos) and khổ hạnh (tapas).

āsana – tập tư thế.

prāṇāyāma – làm chủ hơi thở.

pratyāhāra – rút tâm khỏi đối vật.

dhāranā– nhất niệm.

dhyāna – thiền.

samādhi – định.

e. Pūrvamīmāṃsā

- Dựa vào kinh MīmāṃsāSūtra của Jaimini (Tk.1).

- Chính thống nhất trong các trường phái triết Ấn. Đặt tên theo một phần của kinh Veda, liên hệ đến phần khảo cứu (Mīmāṃsā) đầu (pūrva) của Veda, còn gọi là karma khaṇḍa.

- Giống các phái triết Ấn, Pūrvamīmāṃsā cho rằng dharma (“trách nhiệm” hay “đạo đức”) là trọng tâm (MīmāṃsāSūtra I.i.1), có thể mang lại phúc lợi (artha).

- Khác với các phái triết Ấn, Pūrvamīmāṃsā không giảng thích về giải thoát (mokṣa).

- Kumārila (Tk.7.): Giải thoát là đối tượng đáng theo đuổi, gắn với dharma (Kumārila V.xvi.108–110).

- Không chỉ thừa nhận Veda như các phái triết khác, phái này còn xem Veda là nền tảng nhận thức luận quan trọng (Vedas are epistemically foundational), phương tiện nhận thức đảm bảo => thánh giáo lượng. Cũng thừa nhận một số kiến thức có giá trị độc lập (independently valid knowledge).

- Śaṅkara-Misra (VaiśeṣikaSūtraBhāṣya, p.7): Vedas là nhân chứng của thượng đế => Được Hậu Veda (Vedānta) như Viśiṣṭādvaita cho thượng đế là tác giả của Veda. (cf. Rāmānuja’s Bhagavad GītāBhāṣya 18:58).

- Lóe lên các tranh luận về triết học ngôn ngữ, ảnh hưởng đến các vấn đề thần học. Chẳng hạn, mối quan hệ giữa một từ (word) và vật tham chiếu (referent) là thuộc tính. Các từ hoặc các đơn vị ngữ thanh (śabda, verbal units) là các hiện hữu ngoại tại. (MīmāṃsāSūtra I.i.5).

f. Hậu Veda (Vedānta)

- Dựa vào tác phẩm VedāntaSūtras, hoặc BrahmaSūtras của Bādarāyana (Tk.1)

- Như triết phái Pūrvamīmāṃsā tradition, phái Vedānta liên hệ đến phần nội dung sau (anta) của Vedas.

- Phần đầu của Veda là hành động (karma) và pháp (dharma). Phần sau của Veda là tri thức và giải thoát (mokṣa), là mãng văn học Ấn giáo quan trọng.

- Hệ thống hóa và phân tích tóm tắt nội dung của Upaniṣads: bản chất của tuyệt đối gồm Phạm thiên (Brahman) và tiểu ngã (Ātma/ về sau là jīva)

IV. Ấn giáo mới (Neo-Hinduism)

- Ấn giáo mới (Neo-Hinduism) = đạo Ấn giáo do các tác giả cận đại thành lập theo triết học Ấn độ truyền thống.

- Chủ trương: Ẩn dụ “Mọi sông chảy về biển” => tất cả tôn giáo dẫn đến thượng đế (all religions lead to God). Mỗi tôn giáo là một con sông cứu khổ. Cứu cánh cứu khổ là thượng đế.

- Swami Vivekānanda (1863-1902) thuộc trường phái Rāma-Kṛṣṇa: “Tôn giáo của chúng ta là tôn giáo hoàn vũ. Đây là sự bao hàm, đủ rộng để bao gồm tất cả lý tưởng. Lý tưởng của tất cả tôn giáo trên thế gian này có thể được bao gồm, và chúng ta có thể đợi tất cả lý tưởng đến trong tương lai, được nhìn nhận theo cùng cách thức, được chứa đựng trong bàn tay vô tận của tôn giáo Hậu Veda.”

(Ours is the universal religion. It is inclusive enough, it is broad enough to include all the ideals. All the ideals of religion that already exist in the world can be immediately included, and we can patiently wait for all the ideals that are to come in the future to be taken in the same fashion, embraced in the infinite arms of the religion of Vedānta. (Vivekānanda, vol. III p.251-2.)

- Tổng thống đầu tiên của Ấn Độ, Sarvepalli Radhakrishnan (1888-1975): “Hậu Veda không phải là một tôn giáo, nhưng là tôn giáo trong chính nó trong ý nghĩa sâu xa nhất và phổ quát nhất”

(The Vedānta is not a religion, but religion itself in its most universal and deepest significance).

- Swami Nirvenananda trong quyển Hinduism at a Glance: “Tất cả tôn giáo chân chính trên thế giới dẫn dắt chúng ta đến cùng một mục đích, đò là sự chân thiện mỹ, và dĩ nhiên các tôn giáo phải được thực tập cách chân thành. Mỗi tôn giáo là con đường chân chánh dẫn đến thánh thiên. Người Ấn giáo được huấn luyện, xem tôn giáo bằng nhãn quan này.”

(All true religions of the world lead us alike to the same goal, namely, to perfection if, of course, they are followed faithfully. Each of them is a correct path to Divinity. The Hindus have been taught to regard religion in this light). (Nivernananda, p.20.)

- Ấn giáo hiện đại là hình thái mới của Advaita Vedānta, nhấn mạnh khuynh hướng thần học giải thoát (liberal theological tendencies) trên đặc tính kép của Phạm thiên (the two-fold account of Brahman). “Phạm thiên cao” (nirguṇaBrahman) là phi nhân, gắn với tính thượng đế; thực tại tồn tại bên ngoài. Phạm thiên thấp (saguṇa Brahman) có đặc tính người, gắn với thần linh; lỗi của sáng thế.

- Các nhà phê bình cho rằng Neo-Hinduism là một lịch sử tồi (a bad history).

- Neo-Hinduism tự cho mình tôn giáo cách tân (revisionism). Giải thích lịch sử của triết Ấn.


TRIẾT HỌC CỦA ĐỨC PHẬT

Bài 5: ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO

I. ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO LÀ GÌ?

- Đạo đức học (Ethics) = triết học đạo đức (moral philosophy) là ngành triết học, hệ thống hóa, quy chuẩn hóa các khái niệm thiện ác, đúng sai, hành vi đạo đức của con người.

- Đạo đức học gồm bốn phương diện nghiên cứu a) Đạo đức học quy chuẩn (Normative Ethics), b) Đạo đức học ứng dụng (Applied Ethics), c) Đạo đức học mô tả (Descriptive Ethics) = đạo đức tỷ giảo (comparative ethics) và d) Siêu đạo đức học (Meta-ethics). Phật giáo nhấn mạnh đến đạo đức học quy chuẩn và đạo đức học ứng dụng.

- Đạo đức học Phật giáo nghiên cứu các khái niệm, quy chuẩn, hành vi đạo đức theo tinh thần Phật dạy trong kinh điển Pali.

- Tầm quan trọng của đạo đức Phật giáo như nền tảng con đường giác ngộ, giải thoát là không thể phủ định.

- Poussin (1927): viii: Phật giáo trong tinh hoa là khuôn phép đạo đức (Buddhism is, in its essence, an ethical discipline).



- Saddhatissa (Buddhist Ethics, 1970): Đạo đức là tinh hoa Phật giáo (ethics is the Essence of Buddhism).

- Wijesekera (1971): 49: Phật giáo trở nên nổi tiếng hơn các tôn giáo thế giới là nhờ vào học thuyết đạo đức (dhammavadā / kammavāda): Đã được chấp nhận phổ quát rằng Phật giáo được xem là tôn giáo đạo đức nhất trong các hệ thống triết học tôn giáo trên thế giới (It is universally recognized that Buddhism can claim to be the most ethical of all religious-philosophical systems of the world).

- Mrs. Rhys Davids: Triết học Phật giáo là triết học đạo đức. Đây là điều không thể phủ định (Buddhist philosophy is ethical first and last-this is beyond dispute).

II. PHÂN LOẠI ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

1. Đạo đức học giới (Sila ethics): Giới học trong Therāvāda và Mahāyāna. Đạo đức tại gia: a) Năm đạo đức (pañca-sīla), b) Tám đạo đức (ahaṅga-sīla). Đạo đức xuất gia gồm a) Mười đạo đức sa-di (dasa-sīla), b) Sáu học giới (sikkhāpada), c) Đạo đức cụ túc (bhikkhu / bhikkhunī pātimokkha), d) Đạo đức Bồ-tát (Bodhisattva Prātimokkha). Đạo đức giới (sīla) là nền tảng của thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā).

2. Đạo đức học nghiệp (Kammic ethics): Đạo đức chuyển hóa thân tâm thông qua chức năng và động cơ của hành động. Hành động lý trí và phi lý trí. Trách nhiệm đạo đức. Động cơ (cetanā) và kết quả.

3. Đạo đức tâm lý (Psycho ethics): Các nguyên lý tâm lý Phật giáo, bản chất tâm (citta, mind, thought), ý (mano, mentation), thức (viññāṇa // vijñāna). Tổ hợp tâm vật lý (nāmarūpa, psycho-physical complexity). Nguồn gốc thiện (kusalamūla) và bất thiện (akusalamūla). Động cơ và kết quả. Xử lý khổ đau bằng vô ngã: Cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi, cái này không phải là sở hữu của tôi (M. III. 241-4).

4. Đạo đức trách nhiệm (Ethics as duties) = đạo đức xã hội (social ethics): Dựa vào kinh Thiện Sinh (D. III. 180-93, Sigālovāda Sutta). Trách nhiệm đạo đức song phương (aññamañña, bilateral relationship). Gồm a) Vợ - chồng, b) cha mẹ - con cái, c) nhà giáo – học viên, d) chủ lao động – người lao động, e) tình bạn, f) Tín đồ - Tăng sĩ. Một phần nền tảng triết học xã hội.

III. TIÊU CHÍ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

- Thiện (Kusala) và bất thiện (akusala) do Phật sáng tạo, là khái niệm chìa khóa, đánh giá hành vi của con người.

- Thiện: tốt lành (good), chân chính (right), đạo đức (virtuous), công đức (meritorious), lợi lạc (beneficial); may mắn (lucky), hạnh phúc (happy), khỏe mạnh (healthy) và thịnh vượng (prosperous); khéo léo (skilful), thông thái (intelligent). (theo Dhammapada, Aṅguttara-nikāya, Itivuttaka, Udāna and Saṃyutta-nikāya).

- Bất thiện được định nghĩa đối lập với thiện, phát khởi nghiệp dữ (kammānaṃ samudayāya).

- Thiện = hành vi đạo đức không dẫn đến hậu quả tai hại (asavyāpajjha-vipāka), bất thiện => thảm hại (savyāpajjha-vipāka).

- Thiện ác là các giá trị mặc định, mô tả trạng thái đạo đức của hành vi con người.

- Phát triển các giá trị đạo đức sẽ chuyển hóa người phàm (puthujjana) thành thánh nhân (perfect human being, Arahat).

- Buddhaghosa: Năm tiêu chí thiện gồm (1) thoát khỏi bệnh tật (ārogya, free of illness), (2) không nhơ uế (anavajja, unstained, clean), (3) dựa vào trí tuệ (kosala-sambhūta, based on wisdom), (4) giải phóng khỏi khổ lụy (niddaratha, freedom from bondage), và (5) hướng đến hạnh phúc (sukha-vipāka, conductive happiness or well-being).

- A.I.58: Từ bỏ ác, phát triển thiện:

Bhikkhu, what is morally evil should be abandoned. It can be done. If it were not possible I would not tell you to do so. Moreover, if the abandoning morally evil qualities were not conductive to welfare, but to suffering, I would not tell you ‘abandon evil,’ but because its abandoning conduces to well being and happiness, I therefore ask you to do so.

Bhikkhu, what is morally good should be cultivated. It can be done. If it were not impossible I would not tell you to do so. Moreover, if the cultivation of morally good qualities was not conductive to welfare, but to suffering, I would not tell you ‘cultivate good,’ but because its cultivation conduces to well-being and happiness, I therefore ask you to do so.

- A.I.204: Thiện dẫn đến Niết-bàn:

“Having abandoned the evil demeritorious states, which born of greed, hatred and delusion, he lives in this world undisturbed, free from suffering, bondage and attains the ultimate goal (nibbāna) in this very existence, just like a palm-tree stump, unable to grow again in the future.”

- Hai cấp độ thiện (MA. I. 89ff): a) Dẫn đến tái sinh (vaa gāmī) trong cảnh giới lành (sugati), b) kết thúc tái sinh (vivaa gāmī, leading to the end of rebirth ).

- Sn.183: Đề cao thiện (kusala apasampadā) là một phần của đạo đức Phật giáo (promoting is part of the Buddhist ethics).

- S.V. 106: Phân định thiện ác (kusala-akusala), đáng khen và đáng chê (sāvajja-anavajja, blameworthy and non-blameworthy), hạ liệt và cao thượng (hīna-paṇīta, low and excellent), mờ ám và thanh tịnh (kaṇha-sukka, shady and clean).



IV. NỀN TẢNG LÝ TRÍ (KRAVAT) CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO

- MLS, I. 16; It. p. 101: Đức Phật kêu gọi đệ tử ngài hãy trở thành người thừa kế chánh pháp (heirs of Buddha’s dhamma), thay vì tài vật (āmisa, heirs of material things).

- M.I.69: Giáo pháp của ta dành cho người lý trí, chứ không phải ngớ ngẫn. Để đạt chánh đạo (magga), yếu tố lý trí và thông thái trở nên quan trọng.

- A. I. 189ff: Tinh thần lý trí của đạo đức Phật giáo (rational spirit of Buddhist ethics): Không dựa vào (1) Quyền lực kinh thánh (anussava, Vedic authority), (2) truyền thống (paramparā, tradition), (3) truyền tụng (itikirā, hearsay, report), (4) thẩm quyền sách vở (piakasampadā, textual authority), (5) được người ủng hộ (samaṇo no garu, apparent agreebility of the view), (6) thẩm quyển của người nắm quan điểmr (takkahetu, authority of the holder of the view), (7) tính logic của quan điểm (nayahetu, logicality of the view), (8) quan điểm được chấp nhận (ākāraparivitakka, the fact that the view is an accepted standpoint), (9) lý trí thiếu tương thích (bhabbarūpatā, inadequate reflection on reasons), (10) trùng với quan điểm bản thân (dihinijjhānakkhanti, the fact that the view agrees with one’s own).

01. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.

02. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.

03. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

04. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.

05. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.

06. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.

07. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.

08. Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

09. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

10. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.



V. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

a) Phật giáo là hệ thống triết học đạo đức (dhammaniyāma) để hành trì, là con đường tuệ giác (bodhidhamma), giáo pháp giác ngộ (mokkhadhamma). (Pháp cú 19-20).

b) Đạo đức Phật giáo không bận tâm đến các câu hỏi siêu hình vô ích (avyākata // avyākṛta). (1-4) thế giới là thường còn, không thường còn, hữu biên, vô biên, (5-6) tâm đồng thân, tâm khác thân, (7-10) Phật tồn tại khi chết, không tồn tại, vừa tồn tại vừa không tồn tại, chẳng phải tồn tại chẳng phải không tồn tại. (M. I. 426-32; 483 ff; M. II. 228-38; S. III. 213-24; 257ff.; S. IV. 374-403; Milin. 144ff).

- Vì không đưa đến lợi lạc, đời sống thánh, ly tham, ly chấp, tịch tịnh, trí tuệ, giác ngộ, niết bàn (because these questions are not profitable, not basically conductive to holy life, nor leading to aversion, to detachment, to cessation, to tranquillity, to supernatural knowledge, to perfect enlightenment, to nibbāna) (M.I.431).

- Dụ ngôn mũi tên độc (M.I.429).

- Dụ ngôn lá siṃsapā trên tay và trong rừng (S. V. 437; GS. V. 370).



c) Đạo đức Phật giáo mang tính nhân bản

- Giải phóng con người khỏi thần linh.

- Vai trò của ý chí tự do (cetanā) trong hành vi đạo đức.

- Cuộc đấu tranh toàn thiện đạo đức (The struggle for moral perfection) là tự lực, trên nền tảng trí tuệ.

- Dhp. 183; D. II. 39: Ba phương diện quan trọng: a) Không làm ác (Sabbapāpassa akaraṇaṃ), b) Tình nguyện làm thiện (kusalassa upasampadā), c) Làm thiện với động cơ cao quý (sacittapariyodapanaṃ).

- A.I.173-9: Giúp con người vượt qua chủ nghĩa ngẫu nhiên (ahetu-apaccayavāda, accidentalism), thần ý luận (assarakaraṇavāda, theistic determinism) và định mệnh luận (pubbekatavāda, past-action determinism).



VI. ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO: PHƯƠNG TIỆN HAY CỨU CÁNH?

- Đạo đức Phật giáo qua tam học thánh: a) Giới học (sīla), b) Định học (samādhi), c) Tuệ học (paññā).

- Hành trình tâm linh Phật giáo (the hallmarks of the Buddhist spiritual journey).

- Đạo đức là cứu cánh? Anesaki (1908-26): 448. Đạo đức không đơn thuần là một phương tiện dẫn đến toàn thiện. Đạo đức là một phần của toàn thiện, như một trong các đức hiệu của đức Phật là minh hạnh túc” (Morality is not merely a means to perfection . . . it is an integral part of the perfection, and hence of the epithets of Buddha … ‘abounding in wisdom and goodness).

- Đạo đức là công cụ? Keown (1992): 75: “Theo ảnh dụ Chiếc bè, khái niệm được chấp nhận là đạo đức trong Phật giáo là tình trạng tạm thời, mang tính công cụ, có chức năng đưa hành giả sang sông giác ngộ” (Largely on the basis of the parable of the Raft], the notion has gained acceptance that ethics in Buddhism has only a provisional and instrumental status and may- even must- be discarded when it has fulfilled its function of ferrying the practitioner to the further shore of enlightenment.)

- Mối quan hệ công cụ giữa giới, định, huệ? Trong phần lớn trường hợp, mang tính trình tự, kéo theo, duyên khởi. Hiếm khi từ “thiền định => giới, trí tuệ” hoặc “trí tuệ => giới, thiền định”.

- Vin. III.1: Trí tuệ là yếu tố tạo ra giác ngộ, thành Phật (Buddha), toàn giác (Sambuddha), toàn trí (Sabbaññū), người sở hữu siêu nhãn (Cakkhumā), bậc toàn tri (Samantacakkhu), bậc đại tuệ (Bhūripañña), người thấy rõ thực tại (Tathāgata), người thấu rõ thế giới (Lokavidu) bậc minh hạnh đầy đủ (Vijj ācaraṇasampanna). => chứng Niết-bàn (nibbāna).

- Dhp. 372: Không có thiền định, không có trí tuệ. Không có trí tuệ, không có thiền định. Người có thiền và trí là đang gần Niết-bàn. (Without meditation there is no wisdom; without wisdom there is no meditation. He who has both meditation and wisdom is near to nibbāna).

- Dhp 217: Hạnh phúc khi già có đức. Hạnh phúc khi có trí tuệ (Happy is morality lasting to old age; happy is attainment of wisdom).

- Piyadassi (1972): 30: “Giới định tuệ là lời dạy cốt lõi, khi thực tập trọn vẹn sẽ giúp con người chuyển hóa từ thấp thành cao, từ tối ra sang, từ tham ái đến ly tham, từ bấn loạn thành định tĩnh. Giới định tuệ không phải là các phản ứng rời rạc, mà là các phần đoạn của con đường thánh” (Virtue, Concentration and Wisdom or Insight (sīla, samādhi, paññā) are the cardinal teaching which when fully cultivated raise man from lower to higher levels of mental life; lead him from darkness to light; from pass to dispassion; from turmoil to tranquillity. These three are not isolated reactions, but integral parts of the path).
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA ĐỨC PHẬT

Bài 6: KHẾ ƯỚC XÃ HỘI VÀ VƯƠNG QUYỀN

I. HỌC THUYẾT KHẾ ƯỚC XÃ HỘI (SOCIAL CONTRACT)

1. Nguồn gốc khế ước xã hội

- D.III.93 (Aggañña-Sutta):Sự tiến hóa của xã hội loài người theo Phật giáo khác với thuyết Darwin và Ấn giáo.

- Ấn giáo cho rằng trong sự sáng thế, Phạm thiên đã tạo ra thiết chế xã hội gồm 4 giai cấp. Phật giáo cho rằng xã hội loài người do con người tạo ra bởi tự do ý chí (cetanā) trên nền tảng chức năng.

- Theo D.III.93: Nguồn gốc con người trên hành tinh này là con người đến từ hành tinh khác, vì tham ái, đam mê, hưởng dục => tạo ra thiết chế tài sản tư hữu, nói dối, lừa đảo, trộm cắp, bạo lực và các tệ nạn xã hội khác.



Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa3 -> HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ
Khoa3 -> TÓm tắT ÐẠi kinh sakuludàyi (SỐ 77) (Mahàsakuludàyin sutta) I. Giới thiệu tổng quan
Khoa3 -> TÓm tắt kinh kandaraka (SỐ 51) (Kandaraka sutta) I. Giới thiệu tổng quan người giảng: Đức Phật. Địa điểm: Bên bờ hồ Gaggaranước Campa
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Tóm tắt 28 phẩm kinh Pháp hoa. 18/05/2012 phẩM 01 phẩm tựA
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Bài 31: (tr. 135) 梧桐兩株 梧桐兩株,枝高葉大。霜降後,葉漸黃。西風吹來,落葉滿階。 Phiên âm: Ngô đồng lưỡng chu
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Chuyện Tiền Thân Đức Phật (I) Jàtaka Mục lục chưƠng mộT [01] phẩm apannaka

tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương