Danh mục những từ viết tắT


LPG được sản xuất trong Nhà máy lọc dầu Dung Quất từ Phân xưởng Cracking xúc tác tầng sôi (RFCC). Sơ đồ tổng quát quá trình sản xuất LPG được trình bày ở sơ đồ dưới đây



tải về 2.53 Mb.
trang3/19
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.53 Mb.
#9724
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

LPG được sản xuất trong Nhà máy lọc dầu Dung Quất từ Phân xưởng Cracking xúc tác tầng sôi (RFCC). Sơ đồ tổng quát quá trình sản xuất LPG được trình bày ở sơ đồ dưới đây :


Sơ đồ 1.1.

Sơ đồ tổng quát quá trình sản xuất LPG (Phần màu đỏ)


LPG


C

DU (Crude Distillation Unit) : Phân xưởng chưng cất dầu thô

RFCC (Residue Fluidised Catalytic Cracker): Phân xưởng cracking xúc tác tầng sôi cặn

Gas Plant: cụm xử lý khí, là một phần của phân xưởng RFCC

LTU (LPG Treater Unit): Phân xưởng xữ lý LPG

PRU (Propylene Recovery Unit): Phân xưởng thu hồi propylene

Đây là phân xưởng bản quyền của IFP (AXENS) có công suất thiết kế 3.256.000 tấn/năm. RFCC được thiết kế để xử lý dòng nguyên liệu nóng đến trực tiếp từ CDU hoặc dòng nguyên liệu nguội từ bể chứa. Phân xưởng bao gồm một thiết bị phản ứng và hai tầng tái sinh xúc tác (R2R). Xúc tác trong cả ba thiết bị luôn ở trong trạng thái tầng sôi (giả lỏng). Ngoài ra còn có các cụm thu hồi nhiệt từ khói thải: CO Boiler/Waste heat Boiler/Economizer; Cụm phân tách sản phẩm và Cụm thu hồi khí (Gas Plant). Sản phẩm chính của cụm phản ứng/phân tách sản phẩm :

- Wet gas được đưa sang RFCC Gas Plant để thu hồi LPG

- Overhead Distilate được đưa sang RFCC Gas Plant làm chất hấp thụ

- Light Cycle Oil (LCO) được đưa sang bể chứa trung gian, làm nguyên liệu cho phân xưởng LCO Hydrotreater

- Decant Oil (DCO) làm phối liệu chế biến FO hoặc dầu nhiên liệu cho Nhà máy.

Gas Plant:

Có nhiệm vụ thu hồi LPG trong dòng wet gas và ổn định RFCC naphtha. Sản phẩm chính của cụm Gas Plant:

- Off gas sử dụng làm khí nhiên liệu trong nhà máy

- Hỗn hợp C3/C4 làm nguyên liệu cho phân xưởng LTU trước khi được đưa sang phân xưởng thu hồi Propylene

- Dòng RFCC Naphtha làm nguyên liệu cho phân xưởng NTU

Phân xưởng xử lý LPG

Đây là phân xưởng bản quyền của Merichem, công suất thiết kế 21.000 BPSD. Thiết kế của hệ thống này sử dụng công nghệ THIOLEXSM bản quyền Merichem. Công nghệ này sử dụng thiết bị tiếp xúc FIBER-FILMTM độc quyền của Merichem để các pha hydrocarbon và kiềm tiếp xúc nhau mà không phải trộn phân tán. Như vậy, giảm thiểu dòng kiềm cuốn theo và sử dụng bồn chứa nhỏ hơn.

LTU được thiết kế bao gồm giai đoạn rửa sơ bộ và trích ly bằng kiềm để làm giảm hàm lượng Mercaptan, H2S, COS, CO2 khỏi dòng LPG nguyên liệu đến từ Gas Plant của phân xưởng RFCC. Quá trình trích ly được tiến hành trong hai thiết bị mắc nối tiếp trong đó dòng LPG và dòng kiềm di chuyển ngược chiều. LPG đã xử lý được đưa sang phân xưởng thu hồi Propylene. Kiềm thải được đưa sang phân xưởng trung hòa kiềm thải (CNU). Mục đích của LTU là dòng LPG chưa xử lý từ RFCC có chứa tối đa 24 wt ppm H2S và 78 wt ppm mercaptan dạng lưu huỳnh trong trường hợp dầu chua được giảm xuống tối đa 0.5 wt ppm H2S và 15 wt ppm mercaptan dạng lưu huỳnh trong LPG đã xử lý để đạt những tiêu chuẩn của sản phẩm

1.1.6. Đánh giá công tác quản lý chất lượng LPG

Nhà máy Dinh Cố sản xuất LPG, với đặc thù của công nghệ và nguyên liệu đầu vào, chỉ kiểm tra một số chỉ tiêu ngay trên dây chuyền sản xuất, như là chỉ tiêu về thành phần, áp suất hơi và khối lượng riêng. Việc giám sát chất lượng sản phẩm LPG khi xuất hàng do cơ quan giám định Công ty cổ phần giám định năng lượng Việt Nam (EIC) thực hiện mỗi chuyến xuất. Sản phẩm LPG của nhà máy Dinh Cố được công bố phù hợp với ASTM D 1835 (do Trung tâm Kỹ thuật 3 chứng nhận).

Nhà máy Dung Quất sản xuất LPG cũng vừa mới đi vào sản xuất, với công nghệ và phòng thử nghiệm được trang bị đầy đủ, nhà máy Dung Quất đã kiểm soát được chất lượng sản phẩm LPG phù hợp với ASTM D 1835 (đã được Trung tâm kỹ thuật 3 cấp giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn) đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu trong TCVN 6548. Bên cạnh việc kiểm soát chất lượng nội bộ, sản phẩm LPG của nhà máy Dung Quất được Công ty cổ phần giám định năng lượng Việt Nam (EIC) kiểm tra chất lượng cho từng lô sản phẩm trước khi xuất ra thị trường.

Do nguồn LPG sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu nên Việt Nam vẫn phải nhập khẩu thêm LPG từ các quốc gia lân cận như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Taiwan, Trung Quốc … và kể từ năm 2008 đã triển khai nhập khẩu LPG bằng tàu lạnh. Chất lượng LPG của các nước này theo Tiêu chuẩn của từng nước áp dụng cụ thể, qua nghiên cứu tổng hợp thấy rằng nhìn chung chất lượng LPG nhập khẩu từ các nước là khá tốt, phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn Quốc gia của nước ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nguồn cung LPG cho thị trường Việt Nam từ các nước trong khu vực Đông Nam Á ngày càng trở nên khan hiếm và không ổn định do ảnh hưởng của dao động về giá cũng như chính sách xuất khẩu của các nước trong khu vực. Dự kiến trong tương lai, nguồn cung LPG nhập khẩu cho thị trường Việt Nam sẽ chủ yếu dựa vào nguồn xuất khẩu của các nước thuộc khu vực Trung Đông. Riêng thị trường Miền Bắc do liên quan đến yếu tố địa lý nên nguồn nhập khẩu chủ yếu sẽ là từ thị trường Nam Trung Quốc.



1.1.7. Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội :

Khí và các sản phẩm khí nói chung và LPG nói riêng với đặc tính là sạch, hiệu quả là nhiên liệu lý tưởng để phục vụ ngành công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt và giao thông vận tải. Có thể nói LPG là một loại nhiên liệu cao cấp, có nhiều ưu điểm nổi bật như an toàn và sạch, thường được các đối tượng tiêu dùng ưu tiên lựa chọn, nếu điều kiện cho phép. Tại Việt Nam, ngành công nghiệp khí nói chung và LPG nói riêng là một ngành công nghiệp khá non trẻ, nhưng đã nhanh chóng chiếm giữ một vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội nước ta. Riêng năm 2005, nguồn khí của Việt Nam được đưa vào bờ đã góp phần sản xuất 40% sản lượng điện, 66% sản lượng phân bón, đáp ứng 43% nhu cầu tiêu thụ LPG và 10% sản lượng xăng toàn quốc; đáp ứng 15% tổng nhu cầu năng lượng toàn quốc. Việc đưa LPG vào sử dụng rộng rãi và thông dụng trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trên toàn quốc đã góp phần rất nhiều vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, bảo vệ thiên nhiên, môi trường, nâng cao chất lượng, điều kiện sống cho toàn thể cộng đồng xã hội và góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước.



  • Hiệu quả về mặt kinh tế

Việc đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Nhà máy xử lý khí Dinh Cố (hệ thống sản xuất LPG) đem lại hiệu quả kinh tế - tài chính cao cho đất nước. Hàng năm trung bình mỗi nhà máy sẽ đóng góp cho ngân sách Nhà nước vài chục triệu USD/năm (bao gồm, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp chưa tính đến thuế vận chuyển, thuế xuất - nhập khẩu…). Lợi ích kinh tế của các dự án sản xuất LPG thể hiện ở bản thân giá trị của Dự án; Thuế giá trị gia tăng thu được; Thuế thu nhập doanh nghiệp thu được; Khối lượng công việc được ký hợp đồng và thực hiện ở Việt Nam; Lợi nhuận do các Nhà thầu thu được từ công trình; Thu nhập tiền lương của công nhân trong giai đoạn xây dựng cũng như vận hành; Lợi nhuận thu được tăng lên từ các tài sản của Việt Nam như: thiết bị xây dựng, dịch vụ, các ngành công nghiệp và các lĩnh vực khác; Nhiên liệu sạch hơn, cải thiện môi trường và thay thế nhập khẩu; Cơ sở hạ tầng được nâng cấp và phát triển trong quá trình thực hiện dự án.

+ Đối với quốc gia :

- Thu hút đầu tư: dự án nhà máy sản xuất LPG với cơ sở hạ tầng được phát triển của nó như là hệ thống đường bộ, hệ thống cung cấp điện và nước, mạng lưới thông tin liên lạc sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi cho các dự án khác đầu tư vào trong khu vực.

- Làm thay đổi cơ cấu lao động trong một thời gian dài. Số người gia nhập vào các ngành dịch vụ và thương mại sẽ tăng lên đáng kể. Trái lại, lực lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp lại giảm đi. Cũng có thể thấy rằng tốc độ đô thị hóa sẽ tăng lên trong khu vực dự án do nhiều người có chuyên môn kỹ thuật cao làm việc lâu dài cho dự án sẽ được huy động từ các vùng khác đến;



+ Đối với kinh tế quốc gia :

- Tạo một nguồn cung cấp ổn định cho nhu cầu LPG trong nước với giá cả ổn định, làm giảm sự phụ thuộc vào các nguồn nhập khẩu từ nước ngoài, là nhân tố đóng góp chính cho việc ổn định nền kinh tế quốc gia;

- Khuyến khích sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ khác như là: sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thức ăn, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, du lịch, hàng không, các ngành dịch vụ ...

- Tạo ra nguồn thu ngân sách hàng năm cho chính phủ từ các khoản thuế thu nhập DN, thu nhập cá nhân, thuế xuất khẩu..., đặc biệt là mang lại một lượng ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam bằng việc xuất khẩu các sản phẩm dầu khí và giảm nhập khẩu.



  • Hiệu quả xã hội và môi trường

Tạo công ăn việc làm cho hàng trăm người lao động, tạo động lực phát triển kinh tế vùng miền. Mang lại nguồn nhiên liệu sạch phục vụ cho công nghiệp và dân sinh, góp phần bảo vệ môi trường. Dự án góp phần phát triển ngành kỹ thuật cao, phát huy khả năng trí tuệ lao động kỹ thuật của Việt Nam, giúp cho các nhà quản lý, các kỹ sư và công nhân Việt Nam tiếp cận được công nghệ hiện đại của thế giới, có điều kiện nâng cao trình độ quản lý dự án, thực hiện dự án và vận hành, bảo dưỡng … Tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực trong nước khi thực hiện dự án, tạo tiền đề để thực hiện các dự án lớn trong tương lai. Việc thực hiện dự án Nhà máy sản xuất LPG sẽ kéo theo các dự án khác thực hiện tạo ra sức hút các ngành nghề, dịch vụ khác phát triển theo. Từ đó, tạo được nhiều công ăn việc làm cho toàn xã hội, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước.

LPG là loại nhiên liệu sạch, dễ sử dụng, hiệu quả cao và nếu kết hợp với mức giá hợp lý sẽ được người dân sử dụng nhiều sẽ góp phần giảm tình trạng chặt phá rừng gây ra sự mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường.



1.1.8. Đánh giá về năng lực cạnh tranh của sản phẩm LPG

Sản phẩm LPG với vai trò là nhiên liệu đốt sinh nhiệt có mặt trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội từ nông nghiệp, công nghiệp đến sinh hoạt dân dụng. Nhờ ứng dụng những thành tựu mới về công nghệ và xúc tác, sản phẩm LPG được sản xuất ra với chất lượng cao và giá thành hạ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Do có lợi nhuận và tăng giá trị tài nguyên dầu khí nên việc tập trung xây dựng nhiều dự án sản xuất LPG mới, bên cạnh việc mở rộng công suất các cơ sở cũ là hết sức cần thiết.

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm LPG so với các loại nhiên liệu truyền thống khác phụ thuộc rất nhiều vào giá nguyên liệu sản xuất, kỹ thuật công nghệ và tình hình cung- cầu sản phẩm trên thị trường thế giới. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm LPG trong bối cảnh giá dầu mỏ tăng cao trong những năm gần đây, các nhà đầu tư có xu hướng xây dựng nhà máy hoá dầu tại khu vực gần nguồn nguyên liệu và gần với các thị trường tiêu thụ lớn, áp dụng những công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm LPG do Việt Nam sản xuất được đánh giá ở một số khía cạnh sau :

- Về chất lượng sản phẩm LPG của VN đáp ứng được yêu cầu trong nước và khu vực.

- Công nghệ: Các nhà máy sản xuất LPG nước ta được trang bị những thiết bị công nghệ nhập khẩu, hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên chúng ta sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm từ các nước như Trung Đông, Thái lan, Malaysia, Trung Quốc ... Nhiều nhà máy hoá dầu của các nước này đã hoạt động từ lâu, không còn khấu hao và sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới nên có quyền linh hoạt trong điều chỉnh giá. Trong khi đó ở nước ta, ngoại trừ Nhà máy xử lý khí Dinh Cố hoạt động từ 1999, nhà máy lọc dầu Dung Quất mới đi vào hoạt động từ 2009, đang trong giai đoạn khấu hao và bắt đầu khẳng định thương hiệu trên thị trường nội địa.

- Cạnh tranh với các sản phẩm cũng loại trên thị trường trong nước. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với một loạt điều kiện kèm theo, trong đó có vấn đề cắt giảm thuế suất và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan. Do đó, các sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn với các sản phẩm nhập ngoại ngay trên thị trường trong nước.

1.1.9. Nhận định tổng quát :

Do tính thuận tiện, khả năng ứng dụng rộng rãi và đặc biệt là không gây ô nhiễm môi trường nên nhu cầu tiêu dùng LPG liên tục tăng, góp phần đáp ứng nhu cầu nhiên liệu trong nước nói chung đang ngày càng tăng nhanh và làm đa dạng nguồn cung cấp nhiên liệu sạch cho đất nước. Để nâng cao giá trị sử dụng, rất cần đầu tư chế biến các nguồn khí thiên nhiên. Hơn nữa, theo các kết quả nghiên cứu của KOGAS và SK E&S trong nghiên cứu “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp khí Việt Nam giai đoạn đến 2015, tầm nhìn đến 2050” thì chi phí để sản xuất LPG từ nhà máy xử lý khí (GPP) của Việt Nam là thấp hơn so với chi phí cho việc nhập khẩu LPG tính trên đơn vị 1 tấn sản phẩm. Cụ thể là chi phí để sản xuất LPG từ GPP khoảng 160$/tấn (tương ứng với mức giá dầu thô của OPEC là 50 $/thùng). Hiện nay thị trường LPG đang hoạt động hoàn toàn theo mô hình tự do cạnh tranh và hiện đang có một số vấn đề sau:



    - Nguồn sản xuất trong nước chưa đa dạng, nguồn cung cấp trong nước từ NMLD Dung Quất (mới đi vào hoạt động 2009) và Nhà máy xử lý khí Dinh Cố công suất 350 nghìn tấn/năm với sản lượng rất phụ thuộc vào nguồn khí đồng hành thu gom từ các mỏ của Bể Cửu Long.

    - Đối với LPG sản xuất từ nguồn nhà máy lọc dầu, do thực tế lượng dầu thô khai thác trong nước hiện nay đang suy giảm nhanh, việc tìm kiếm nguồn dầu thô chất lượng tốt và giá cả phù hợp vẫn đang là bài toán khá phức tạp. Hơn nữa, thực tế hiện nay hiệu quả kinh tế khi đầu tư xây dựng các nhà máy lọc dầu hiện nay là không cao nên trong tương lai việc thu hút vốn đầu tư để triển khai các dự án lọc dầu là tương đối khó khăn.

    - Thị trường phụ thuộc lớn (khoảng 70%) vào nguồn nhập khẩu. Nguồn nhập khẩu chủ yếu từ các nước trong khu vực Châu Á; chỉ duy nhất PVGas có các hoạt động nhập khẩu từ Trung Đông.

    - Mức giá và biến động của giá bán LPG trong nước chịu ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn của giá LPG trên thị trường thế giới.

    - Có quá nhiều các công ty kinh doanh LPG trên thị trường và phần lớn hoạt động với qui mô nhỏ, không chú trọng đầu tư bài bản về cơ sở vật chất để hoạt động SXKD LPG lâu dài, có quy hoạch. Trong số 70 công ty, chỉ có khoảng 20% đơn vị đầu tư kho chứa LPG và việc đầu tư phát triển kho thương mại LPG là hoàn toàn tự phát.

    - Sức chứa các kho đầu mối nhỏ và phân tán nên dự trữ cung cho thị trường ngắn, mặt khác khiến cho việc nhập hàng phải tiến hành bằng tàu nhỏ, hoặc phải san mạn từ tàu biển trước khi vận chuyển LPG vào các kho chứa, điều này dẫn đến tăng chi phí lưu thông trong giá thành cung cấp LPG tại Việt Nam. Tuy nhiên, PVGas hiện đã đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ kho lạnh LPG tại Việt Nam và kho lạnh LPG đầu tiên của VN với qui mô 60.000 tấn đã được khởi công xây dựng từ 11/2009 tại Thị Vải, đã đi vào hoạt động từ cuối tháng 3/2013.

    - Việc đầu tư cho hệ thống tổng thể đòi hỏi vốn lớn, để triển khai hiệu quả thì phải phát triển đồng bộ giữa khâu sản xuất, tồn chứa, vận chuyển và phân phối kinh doanh. Đây là một hạn chế chưa thể khắc phục được trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.

    - Sản lượng khí cấp phụ thuộc nhiều vào kế hoạch khai thác dầu của Vietsovpetro, JVPC. Sản lượng LPG của nhà máy Dinh Cố đang giảm dần theo sản lượng khí đồng hành (sản lượng khai thác khí đồng hành của mỏ Bạch Hổ, mỏ Rạng Đông, mỏ Cá Ngừ Vàng hiện đang giảm dần, trong các năm tới khí đồng hành vẫn được tiếp tục thu gom cố gắng duy trì sản lượng 2 tỷ m3 khí/năm nhưng với lưu lượng giảm dần và có thể kết thúc vào khoảng 2017-2018).



1.2. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI LPG VIỆT NAM

1.2.1. Đánh giá thị trường và công tác quản lý thị trường khí hoá lỏng (LPG)

1.2.1.1. Đánh giá thị trường

Thị trường LPG Việt Nam hình thành muộn hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới nhưng có tốc độ phát triển rất nhanh, có giai đoạn (1998-2005) đạt tới 30%/năm. LPG xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 50 ở khu vực phía Nam với quy mô nhỏ. Do hoàn cảnh lịch sử, sau năm 1975, LPG không còn được lưu thông trên thị trường. Tiếp đó, thị trường LPG Việt Nam được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn từ năm 1990 đến 1998 và từ năm 1998 đến nay. Ban đầu LPG được tiêu thụ chủ yếu ở phía Nam cho mục đích dân sinh với lượng tiêu thụ LPG chỉ khoảng 400 tấn năm 1991. Sau đó không lâu, LPG đã phát triển tiêu thụ tại miền Bắc. Đến năm 1997, lượng LPG tiêu thụ đạt 200.000 tấn. Năm 1998, LPG sản xuất trong nước đáp ứng được 70% nhu cầu thị trường trong năm năm đầu. Tuy nhiên do nhu cầu tiêu thụ liên tục tăng nên hiện chỉ đáp ứng được khoảng 30%. Miền Nam vẫn được xem là thị trường lớn nhất và có nhu cầu tiêu thụ cao nhất, chiếm khoảng 66% nhu cầu LPG của cả nước, miền Bắc và miền Trung chiếm khoảng 30% và 4%.

Từ năm 2008 trở về trước, ngoài nguồn cung LPG trong nước, Việt Nam phải nhập khẩu thêm LPG định áp từ các quốc gia lân cận như Malaysia, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Hong Kong. Tuy nhiên, từ năm 2009 đến nay, khi Tổng công ty khí Việt Nam (PVGAS) triển khai phương án kinh doanh LPG lạnh nhập khẩu từ Trung Đông bằng tàu kho nổi, đồng thời nguồn cung LPG từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất dồi dào, trong khi nguồn cung LPG định áp cho thị trường Việt Nam từ các nước trong khu vực Đông Nam Á ngày càng trở nên khan hiếm và không ổn định, sản lượng LPG nhập khẩu định áp về Việt Nam sụt giảm đáng kể.



Biểu đồ 1.3.

Cơ cấu nguồn cung sản phẩm LPG giai đoạn 2006 - 2011


Cơ cấu nguồn cung sản phẩm LPG được tính toán dựa trên số liệu nhu cầu tiêu thụ, sản lượng LPG sản xuất nội địa và sản lượng nhập khẩu giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2011. Theo đó, sản xuất nội địa tăng từ 345 nghìn tấn năm 2006 lên 560 nghìn tấn năm 2010; 590 nghìn tấn năm 2011 và năm 2012 giảm 2,2% so với năm 2011; sản lượng sản xuất nội địa năm 2011 chiếm khoảng 47% tổng nguồn cung ứng.

Tính đến thời điểm hiện tại, sản lượng LPG nhập khẩu định áp về Việt Nam chủ yếu tại thị trường miền Bắc. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nguồn cung LPG cho thị trường Việt Nam từ các nước trong khu vực Đông Nam Á ngày càng trở nên khan hiếm và không ổn định. Dự kiến trong tương lai, nguồn cung LPG nhập khẩu cho thị trường Việt Nam sẽ chủ yếu từ các nước thuộc khu vực Trung Đông



Bảng 1.2.

Tỷ lệ xuất xứ nguồn LPG nhập khẩu năm 2010-2012
















STT

Xuất xứ

Tỷ lệ nguồn gốc LPG NK

2010

2011

2012

I

LPG lạnh

 

 

 

 1.1.

Trung Đông

38.1%

50.5%

42.9%

II

LPG định áp










 2.1.

Trung Quốc

48.9%

47.6%

52.6%

 2.2.

Malaysia

9.1%

1.2%

1.5%

 2.3.

Indonesia







1.5%

2.4. 

Singapore

2.6%

0.5%

0.2%

 2.5.

Philippin







0.5%

2.6. 

Đài Loan

0.1%




0.2%

2.7. 

Thái Lan

0.6%

0.3%

0.4%

2.8. 

Hàn Quốc

0.2%




0.1%

2.9 

Khác

0.4%







III

Tổng

100%

100%

100%

Nguồn : Tổng Công ty Khí Việt Nam

Số liệu từ Hiệp hội Gas cho thấy, nhu cầu tiêu thụ LPG tại Việt Nam tăng nhanh chóng, từ 400 ngàn tấn năm 2000 lên 810 ngàn tấn năm 2006; 1173 ngàn tấn năm 2010 (tăng 44,81% so với năm 2006) và năm 2012 là 1202,7 triệu tấn, giảm 2,77% so với năm 2011.


Bảng 1.3.

Tổng nhu cầu tiêu thụ LPG cả nước 2006 – 2012

Đơn vị: nghìn tấn

Năm

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Nhập khẩu

465

609

627

719

613

657

625,7

Sản xuất nội địa

345

281

260

361

560

590

577

Tổng nhu cầu tiêu thụ

810

890

887

1080

1173

1237

1202,7

% Nội địa

43%

32%

29%

33%

48%

47%

48%

Nguồn: VPI

Về thương hiệu LPG trên thị trường. Cả nước hiện có khoảng gần 70 doanh nghiệp tham gia thị trường kinh doanh LPG và cũng có chừng ấy thương hiệu. Trong các thương hiệu LPG hiện đang lưu hành trên thị trường, có nhiều thương hiệu cố tình gian lận thương mại như sang chiết gas trái phép, nhái bao bì mẫu mã, sử dụng vỏ bình gas không bảo đảm quy chuẩn an toàn và chính người tiêu dùng bị ảnh hưởng quyền lợi trực tiếp. Cách đây hơn 10 năm, Thái Lan cũng là nước có quá nhiều thương hiệu LPG như Việt Nam. Sau đó, ngành LPG Thái Lan đã tổ chức quy hoạch sắp xếp lại. Đến nay, ở Thái Lan chỉ còn 5 thương hiệu dù nhu cầu tiêu thụ LPG của Thái Lan cao gấp 4 lần Việt Nam.

Каталог: sites -> default -> files
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> Mẫu tkn1 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc ĐĂng ký thất nghiệP
files -> BỘ TÀi chính —— Số: 25/2015/tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc TỜ khai của ngưỜi hưỞng trợ CẤP
files -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO –––– Số: 40
files -> BỘ y tế CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
files -> Mẫu số 1: Ban hành kèm theo Thông tư số 19/2003/tt-blđtbxh ngày 22 tháng 9 năm 2003 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Tên đơn vị Số V/v Đăng ký nội quy lao động CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỦa bộ XÂy dựng số 04/2008/QĐ-bxd ngàY 03 tháng 4 NĂM 2008 VỀ việc ban hành “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựNG”

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương