Dị vật đường ăn là một tai nạn rất thường gặp trong lĩnh vực Tai Mũi Họng. Dị vật đường ăn bao gồm dị vật họng và dị vật thực quản. Dị vật họng thường xảy ra trong sinh hoạt vì đường vào là đường miệng



tải về 0.55 Mb.
trang6/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.55 Mb.
#31301
1   2   3   4   5   6

4.2.3. Đặc điểm cận lâm sàng

4.2.3.1. Đặc điểm công thức bạch cầu

Chúng tôi đánh giá về số lượng bạch cầu qua công thức máu và nhận thấy có sự tăng cao dần số lượng bạch cầu từ giai đoạn chưa viêm đến giai đoạn biến chứng, đa số trường hợp có số lượng bạch cầu tăng trên 10000/mm3 ở giai đoạn viêm và biến chứng. Đồng thời có sự thay đổi công thức bạch cầu rõ: Với tăng cao bạch cầu đa nhân trung tính và giảm dần bạch cầu lymphô thể hiện một phản ứng viêm cấp và nặng khi bệnh đến muộn và có biến chứng. Điều này phù hợp với lý thuyết [12], [24].

Theo Trần phương Nam số lượng bạch cầu giai đoạn chưa viêm 10184 ± 2863, giai đoạn viêm 12133 ± 2003, giai đoạn biến chứng 17200 ± 9706. Tương tự kết quả của chúng tôi (p > 0,05). Điều này cho thấy xét nghiệm công thức bạch cầu cũng có giá trị về mặt chẩn đoán và tiên lượng mức độ nặng nhẹ của bệnh và nếu không điều trị kịp thời có thể gây nhiều biến chứng.

4.2.3.2. Đặc điểm X quang

Số trường hợp dị vật cản quang 31/45 chiếm đa số 68,9%. Tỉ lệ này phù hợp với các tác giả trong nước như: Lê Thị Hà có 28 trường hợp dị vật ở thực quản cổ thì có 20 trường hợp cản quang chiếm 71,4% [10], dị vật cản quang theo Trần Phương Nam là 68,8% [19] (với p > 0,05). Sở dĩ tỉ lệ cản quang cao là vì trong nghiên cứu của chúng tôi có 100% dị vật có khả năng cản quang trên phim (143 xương các loại, 2 răng giả có móc sắt, 1 đồng xu và 1 viên thuốc còn vỏ). Tương tự Lê Thị Hà có 91,7% dị vật có khả năng cản quang trên phim [10], tỉ lệ này ở Trần Phương Nam là 89,0% [19]. Còn lại những trường hợp không có hình ảnh gì (X-Q bình thường) không có nghĩa là không có dị vật mà có thể đó là những dị vật nhỏ mảnh lẫn khuất trong niêm mạc, dị vật nằm ở đoạn thực quản ngực. Hoặc áp xe quanh thực quản với hình ảnh những bóng hơi nhỏ, mức mủ mức hơi trước cột sống che lấy dị vật…

Tuy nhiên cũng có những nghiên cứu đưa ra tỉ lệ dị vật cản quang thấp hơn: theo Nayak tỉ lệ này là 48,0% [59], theo Harned tỉ lệ này là 59% [41]. Sở dĩ có sự khác nhau là do bản chất dị vật khác nhau, ngay cả cùng là xương cá nhưng mức độ cản quang trên phim cũng khác nhau. Theo Lue thì độ nhạy cảm trên phim X-Q sẽ thấp nếu dị vật mắc vào vùng có tổ chức mềm chồng lên nhau tối đa và tính đặc thù sẽ giảm vì sự cản quang của sụn phễu, sụn giáp do bị vôi hóa ở người lớn do đó có thể dẫn đến nhầm lẫn. Khắc phục nhược điểm đó CT Scan có thể phát hiện được những xương nhỏ, một nghiên cứu ở Nhật cho thấy 56% trường hợp không phát hiện được xương cá trên phim X-Q cổ điển nhưng trên CT Scan lại phát hiện được tất cả [54]. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế và thu nhập của BN nước ta còn thấp cho nên CT Scan để phát hiện dị vật ở nước ta chưa khả thi.

Có 17 trường hợp cột sống cổ thẳng chiếm tỉ lệ 37,8%, triệu chứng này thường chỉ xuất hiện trong giai đoạn viêm hoặc có biến chứng, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi có 3 trường hợp có triệu chứng này ở giai đoạn chưa viêm có lẽ do dị vật dài nhọn, kích thước lớn cắm vào thực quản gây đau nhiều nên BN không dám ngửa cổ. Khi có áp xe thành thực quản tỉ lệ cột sống cổ thẳng theo Lưu Vân Anh là 93,1% [2], theo Vũ Trung Kiên là 68,6% [14], còn trong giai đoạn viêm tấy, áp xe quanh thực quản cổ theo các tác giả trên thì các tỉ lệ này là 100%. Có 15 trường hợp trên X-Q phát hiện hình ảnh dày phần mềm trước cột sống cổ chiếm tỉ lệ 33,3% và đều ở giai đoạn muộn, hình ảnh này nói lên rằng đã có viêm phù nề niêm mạc thực quản hoặc đã có áp xe thành thực quản, tương tự theo Trần Phương Nam dày phần mềm trước cột sống cổ ở giai đoạn viêm nhiễm và giai đoạn biến chứng là 87,5% [19].

Nếu quá trình viêm không được khống chế, không được điều trị, dị vật làm thủng thành thực quản, quá trình viêm lan rộng ra thành thực quản và xung quanh thực quản. Trên X-Q có thể thấy ổ áp xe trước cột sống cổ với hình ảnh những bóng hơi nhỏ, mức mủ mức hơi trước cột sống cổ (dấu Minnegerod), trong nghiên cứu chúng tôi bắt gặp hình ảnh này chỉ trong một trường hợp (2,2%) trên một BN duy nhất bị áp xe quanh thực quản cổ. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Trần Phương Nam khi có 2,1% có dấu Minnegerod gặp ở một BN áp xe quanh thực quản cổ [19]. Tuy nhiên tỉ lệ này theo Lưu Vân Anh tỉ lệ gặp mức hơi nước trong viêm tấy quanh thực quản cổ là 55,2% [2], theo Vũ Trung Kiên là 91,4% [14]. Tỉ lệ dấu Minnegerod của chúng tôi thấp hơn là do tỉ lệ biến chứng thấp hơn.

4.3. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ

4.3.1. Các phương pháp điều trị gắp dị vật

Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp loại bỏ dị vật và điều trị biến chứng do dị vật đường ăn gây ra: Gắp dị vật ngay tại phòng khám có 84/147 BN chiếm 57,1%. Tiếp đến là soi thực quản ống cứng 27,9%, gắp dị vật gián tiếp 12,2%, mở thực quản 1,4%, mở cạnh cổ kết hợp với soi thực quản 2,1%, chỉ có một trường hợp lấy dị vật bằng xông Foley chiếm 0,7%.

- Đối với dị vật họng

Gắp dị vật trực tiếp được áp dụng với những dị vật mắc ở họng, khám họng và gắp ra dễ dàng, đã có 84/102 trường hợp (82,4%) dị vật ở họng được loại bỏ bằng phương pháp này. Tuy vậy nhiều khi rất khó khăn do dị vật quá bé như xương dăm nhỏ, ngắn và dị vật mắc ở vùng họng thanh quản như rãnh lưỡi - thanh thiệt, sụn phễu, miệng thực quản, xoang lê…cần phải soi hạ họng thanh quản gián tiếp qua gương hay qua nội soi và dùng dụng cụ để lấy dị vật. Thao tác này cần làm nhanh, chính xác vì BN rất dễ bị nôn ói. Hiện nay chúng tôi đã lấy dị vật ở họng qua nội soi cho 14/102 trường hợp (13,7%) dị vật họng. Sở dĩ tỉ lệ này còn ít là vì chỉ có 26 trường hợp dị vật mắc ở những vị trí có thể áp dụng phương pháp này (16 đáy lưỡi - rãnh lưỡi thanh thiệt, 5 xoang lê, 4 miệng thực quản, 1 sụn phễu). Áp dụng phương pháp loại bỏ dị vật họng qua nội soi có ưu điểm là: Có thể tìm thấy và lấy bỏ những dị vật nhỏ, nằm sâu mà không gây chấn thương ảnh hưởng đến các cơ quan xung quanh. Chỉ cần một phẫu thuật viên. Mọi người đều có thể nhìn thấy như điều dưỡng, sinh viên…phục vụ giảng dạy tốt hơn. Là công cụ để ghi lại thao tác và cung cấp trao đổi với gia đình. Giảm bớt việc soi cứng dưới gây mê; Bên cạnh những ưu điểm trên nội soi lấy dị vật ở họng cũng có những nhược điểm nhất định như: Sự hợp tác của BN, khó khăn đối với trẻ em, những người có phản xạ mạnh. Thao tác phải lặp lại nhiều lần nếu phẫu thuật viên ít kinh nghiệm. Mờ ống nội soi. Có những trường hợp thất bại phải chuyển sang soi ống cứng dưới gây mê [50].

- Đối với dị vật thực quản

Chúng tôi sử dụng các phương pháp soi thực quản ống cứng kiểu Chevalier - Jakson với nguồn sáng lạnh, mở thực quản, mở cạnh cổ kết hợp với soi thực quản và dùng xông Foley để lấy dị vật.

Hầu hết các trường hợp nội soi ống cứng lấy dị vật thực quản, trong 45 BN dị vật thực quản thì số ca soi lấy dị vật là 41 ca (91,2%), Trần Phương Nam soi ống cứng lấy dị vật 43/48 ca chiếm 89,6% [19], Huỳnh Anh là 98,7% [1], Trịnh Thị Lạp là 82,7% [16]. Đây cũng là phương pháp được hầu hết các bác sĩ Tai Mũi Họng trên toàn quốc áp dụng [7], [8], [13], [15], [29]. Phương pháp này thực hiện nhanh, dễ, cho phép nhìn trực tiếp, khảo sát đầy đủ dị vật và niêm mạc thực quản, cho phép loại bỏ dị vật mà ít làm tổn thương niêm mạc nhất cũng như đánh giá được có hay không tổn thương niêm mạc sau soi. Theo Nijhawan nghiên cứu 170 trường hợp dị vật thực quản được soi ống cứng 166/170 trường hợp chiếm 97,6% [60].

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 3/45 trường hợp phải phẫu thuật mở thực quản và mở cạnh cổ kết hợp soi cứng lấy dị vật chiếm 6,6%. Theo Nijhawan tỉ lệ này là 2,4% [60]. Trong đó có hai trường hợp dị vật là hàm răng giả có móc sắt nhọn nằm khoảng 24cm cách cung răng trên cắm vào thành thực quản sát ngay động mạch chủ khi quan sát thấy thực quản đập theo nhịp tâm thu. Đây là vị trí nguy hiểm đối với dị vật sắc nhọn do đó không cố gắng lấy dị vật qua đường tự nhiên vì có thể gây rách thủng thực quản làm tổn thương động mạch chủ gây tử vong cho bệnh nhân nên chúng tôi đã tiến hành mở thực quản. Đây là một chỉ định cần thiết để loại bỏ dị vật. Còn lại một trường hợp áp xe quanh thực quản cổ phải phẫu thuật mở cạnh cổ dẫn lưu mủ kết hợp soi thực quản lấy dị vật chiếm 2,2%. Tỉ lệ này tương tự Trần Minh Trường 1,5% [29], Trần Phương Nam 2,1% [19], nhưng thấp hơn Trịnh Thị Lạp 13,6% [16]. Giải thích điều này là do tỉ lệ biến chứng nặng của chúng tôi thấp hơn.

Có một trường hợp hóc đồng xu, đến sớm được lấy bằng xông Foley chiếm 2,2%, chúng tôi chỉ áp dụng phương pháp này cho BN hóc đồng xu vì đây là dị vật tròn, nhẵn không gây chấn thương nhiều cho thực quản. Kỹ thuật này có ưu điểm là thao tác nhanh, tránh được tai biến gây mê, BN không phải nhập viện. Qua đó giảm bớt chi phí điều trị cho BN. Nó cũng có nhược điểm là không quan sát được thực quản, không bảo vệ được đường thở, chống chỉ định trong những trường hợp hẹp, viêm thực quản và cần phẫu thuật viên có kinh nghiệm [41], [46]. Tương tự Trần Phương Nam khi lấy dị vật bằng xông Foley cho 4 trường hợp dị vật thực quản cổ chiếm 8,3% và đã thành công 3/4 trường hợp chiếm 75,0% [19]. Kết quả này cũng phù hợp các nghiên cứu nước ngoài như: Harned nghiên cứu trên 337 trường hợp dị vật thực quản là đồng xu được lấy bằng xông Foley thì tỉ lệ thành công là 96% [41], theo Schunk tỉ lệ thành công là 91% [66]. Tuy nhiên do số lượng dị vật là đồng xu của chúng tôi còn ít nên chưa nghiên cứu được vấn đề này.

4.3.2. Các phương pháp vô cảm

Qua bảng 3.19 cho thấy có đến 85 trường hợp chiếm 57,8% chúng tôi không sử dụng phương pháp vô cảm hỗ trợ khi lấy dị vật và chủ yếu là dị vật ở họng (84 trường hợp) vì thông thường dị vật ở họng khi khám sẽ nhìn thấy và dễ dàng gắp ra. Tuy vậy có khi cũng rất khó khăn do dị vật bé, BN có phản xạ nôn ẹo mạnh, dị vật ở họng thanh quản thì phải gây tê tại chỗ bằng xịt liđocaine 6 - 10% mới khám kỹ và lấy dị vật được. Có 18 trường hợp được gây tê và lấy dị vật chiếm 12,3% và những dị vật này đều là dị vật ở họng. Như vậy trong 102 dị vật ở họng được lấy thì có đến 84/102 trường hợp chiếm 82,3% không sử dụng các phương pháp vô cảm hỗ trợ nào. Điều này phù hợp với lý thuyết khi cho rằng dị vật ở họng thường đơn giản chỉ cần đeo đèn, đè lưỡi và dùng kẹp gắp ra vì dị vật sắc nhọn chủ yếu cắm vào Amiđan, các trụ Amiđan [13], [17], [26].

Gây mê giãn cơ có 44 trường hợp chiếm tỉ lệ 29,9%. Trong đó gây mê được áp dụng cho 41 trường hợp soi thực quản, còn lại 3 trường hợp gây mê là mở thực quản và mở cạnh cổ kết hợp soi thực quản. Nếu tính 45 trường hợp dị vật thực quản trong nghiên cứu thì gây mê hỗ trợ điều trị là 44 trường hợp chiếm 97,8%. Theo Trần Phương Nam gây mê hỗ trợ điều trị dị vật thực quản là 89,6% [19]. Đây là phương pháp hỗ trợ tối ưu khi lấy dị vật ở thực quản nó giúp cho BN tránh khỏi những sang chấn tâm lý, tạo điều kiện cho phẫu thuật viên yên tâm soi và tránh những tai biến nặng như thủng thực quản hoặc đẩy dị vật cắm sâu vào thực quản. Thực tế gây mê hỗ trợ trong tất cả các trường hợp đã soi thực quản trong nghiên cứu của chúng tôi không gặp một tai biến nặng nào như đã nêu trên. Hiện nay trên thế giới, vô cảm khi soi thực quản ống cứng người ta đều áp dụng phương pháp gây mê giãn cơ [30], [35], [67].

4.3.3. Điều trị kháng sinh

Qua bảng 3.20 chúng tôi nhận thấy có 62 trường hợp chiếm 42,2% sau khi lấy được dị vật không cần dùng kháng sinh. Đây là những trường hợp sau lấy dị vật không có tổn thương, BN đến viện sớm trong giai đoạn chưa viêm nhiễm, và BN cũng xuất viện sớm ngay sau lấy dị vật.

Sử dụng một loại kháng sinh có 65 trường hợp chiếm 44,2% và tập trung ở giai đoạn mới mới hóc và khi soi lấy dị vật nhận định là có tổn thương xước nhẹ niêm mạc.

Sử dụng kháng sinh phối hợp có 20 trường hợp chiếm 13,6%. Trong đó có 18 trường hợp ở giai đoạn viêm, giai đoạn biến chứng và 2 trường hợp mở thực quản lấy dị vật.

Kháng sinh chúng tôi thường dùng là nhóm Cephalosporin thế hệ thứ 3 và với Metronidazol khi cần phối hợp.

4.3.4. Đặt xông dạ dày

Số trường hợp đặt xông dạ dày có 20/147 BN chiếm 13,6%. Trong đó 18 trường hợp bệnh ở giai đoạn viêm, giai đoạn biến chứng và 2 trường hợp bệnh ở giai đoạn chưa viêm nhiễm có mở thực quản lấy dị vật. Những trường hợp đặt xông dạ dày này đều có chỉ định phối hợp kháng sinh, khi đặt xông dạ dày vừa để thực quản được nghỉ ngơi hoàn toàn vừa đảm bảo cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, thời gian đặt xông dạ dày thường là 3 - 5 ngày, có khi phải đặt hơn 10 ngày tùy theo tổn thương như áp xe quanh thực quản, mở thực quản, diễn biến lâm sàng và X-Q. Tương tự nghiên cứu của Trần Phương Nam đặt xông dạ dày 22,9% và đều ở giai đoạn muộn (72,7%) [19].

Chúng tôi nhận thấy ngoài vấn đề loại bỏ dị vật sớm thì điều trị kháng sinh và đặt xông dạ dày như trên là rất cần thiết, nó góp phần làm giảm biến chứng viêm, áp xe sau lấy dị vật.

4.3.5. Thời gian điều trị nội trú

Thời gian điều trị nội trú trung bình là 6,62 ± 3,93 ngày, ngắn nhất là 1 ngày và dài nhất là 20 ngày. Tương tự thời gian điều trị trung bình theo Trần Phương Nam là 6,27 ± 3,89 ngày [19] (p> 0,05). Thời gian điều trị nội trú trung bình giai đoạn chưa viêm là 2,17 ± 2,1; giai đoạn viêm là 9, ± 4,22; giai đoạn biến chứng là 11,7 ± 5 4,5. Tương tự thời gian này theo Trần Phương Nam lần lượt là 5,27 ± 3,15; 11,67 ± 5,77 và 11,0 ± 2,24 (p > 0,05) [19].

Chúng tôi nhận thấy thời gian điều trị nội trú tăng dần từ giai đoạn chưa viêm đến giai đoạn viêm và giai đoạn biến chứng, nó cho thấy khi BN đến viện muộn ở giai đoạn viêm và biến chứng thì điều trị nội trú kéo dài qua đó gây tốn kém chi phí điều trị cho BN cũng như nghành y tế nói chung. Theo Herranz - Gonzalez thời gian điều trị nội trú trung bình là 3,2 ngày [42]. Sở dĩ thời gian điều trị nội trú của chúng tôi còn cao là do tỉ lệ BN đến viện muộn còn cao, dị vật lại chủ yếu là xương các loại động vật rất sắc nhọn và nhiễm bẩn.

4.3.6. Kết quả điều trị

Tỉ lệ khỏi bệnh hoàn toàn của chúng tôi là 100%, không có trường hợp nào tử vong hay chuyển viện. Tỉ lệ tử vong 0,0% tương tự nghiên cứu của Huỳnh Anh (1997) [1], Phan Thị Hoài Thanh (1997) [25], Trần Phương Nam (2006) [19], Chử Ngọc Bình (2008) [3], Trần Minh Trường (2008) [29]. Trong khi đó theo Nguyễn Tư Thế (1984) tỉ lệ tử vong là 2,8% [27], Trịnh Thị Lạp (1994) tỉ lệ tử vong là 0,9% [16], Vũ Trung Kiên (1997) là 0,5% [14]. Điều này cho thấy trình độ nhận thức về tầm nguy hiểm của DVĐA trong nhân dân mỗi năm ngày càng cao, biến chứng nặng ngày càng ít đi, kinh nghiệm để điều trị DVĐA và biến chứng của nó ngày càng nhiều do đó tỉ lệ tử vong ngày càng giảm. Trong khi đó các báo cáo của các tác giả nước ngoài thỉnh thoảng vẫn ghi nhận những trường hợp tử vong do biến chứng của DVĐA nói chung và dị vật thực quản nói riêng [49], [53], [54], [59].



KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 147 trường hợp dị vật đường ăn tại bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 3/2008 đến tháng 5/2009 chúng tôi rút ra một số kết luận sau

1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng

1.1. Đặc điểm chung

Dị vật đường ăn xảy ra ở tất cả các lứa tuổi, với độ tuổi trung bình 37,74 ± 20,04. Người lớn (92,5%) gặp nhiều hơn trẻ em (p < 0,01).

Nông thôn (59,2%) nhiều hơn thành thị (p < 0,05). Không có sự khác nhau về giới và nghề nghiệp.

1.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng

Tỉ lệ bệnh nhân vào viện sớm trong vòng 48 giờ là 83,7%.

Dị vật mắc ở họng (69,4%), nhiều hơn dị vật mắc ở thực quản (30,6%).

Ở họng dị vật hay gặp theo thứ tự: Amiđan 73,5%; đáy lưỡi - rãnh lưỡi thanh thiệt 15,7%; xoang lê 4,9%; miệng thực quản 3,9%; thành sau họng và sụn phễu cùng chiếm 1,0%.

Ở thực quản: dị vật mắc đoạn cổ 91,1%; thực quản ngực 8,9%; không có dị vật ở thực quản bụng.

Lâm sàng: triệu chứng nuốt đau chiếm 95,2%, ấn đau gặp 86,7%, không ăn uống được chiếm 77,6%.

97,2 % dị vật là xương các loại, trong đó xương cá chiếm tỉ lệ lớn 85,0%.

Có 87,8% bệnh nhân vào khám và điều trị ở giai đoạn chưa viêm, 9,5% ở giai đoạn viêm và 2,7% ở giai đoạn biến chứng.

Có 68,9% xuất hiện hình ảnh dị vật cản quang trên phim thực quản
cổ nghiêng.

2. Kết quả điều trị

Gắp dị vật trực tiếp 57,1%.

Soi thực quản ống cứng 27,9%.

Gắp dị vật gián tiếp qua gương và nội soi 12,2%.

Mở thực quản và mở cạnh cổ kết hợp với soi thực quản 2,1%.

Lấy dị vật bằng xông Foley 0,7%.

Thời gian điều trị giai đoạn chưa viêm 2,17 ± 2,13 ngày; giai đoạn viêm 9,00 ± 4,22 ngày; giai đoạn biến chứng 11,75 ± 4,50 ngày.

Thời gian điều trị trung bình 6,62 ± 3,93.

Tỉ lệ khỏi hoàn toàn là 100%, không có trường hợp nào tử vong hay phải chuyển viện.

KIẾN NGHỊ
1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục sức khỏe trong nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về những nguy hiểm của DVĐA và biến chứng của nó. Tránh các nguy cơ có thể dẫn đến DVĐA như những thói quen ăn uống không tốt như: nói chuyện cười đùa trong khi ăn, ăn nhanh nuốt vội, ngậm đồ chơi trong miệng…tập quán chế biến thức ăn để cả xương lẫn thịt.

2. Không nên quan niệm sai lầm và lạc hậu chữa hóc xương bằng nuốt thêm cục cơm, rau., nhờ bàn tay người đẻ ngược cào, cúng bái…chỉ làm bệnh nặng thêm và khó khăn cho điều trị.

3. Khi hóc DVĐA phải đến ngay cơ sở y tế có chuyên khoa TMH để được xử trí kịp thời nhằm tránh các biến chứng để giảm chi phí và thời gian điều trị.

4. Nâng cao kiến thức về DVĐA và trang thiết bị gắp dị vật cho tuyến cơ sở, để đảm bảo có thể chẩn đoán đúng và loại trừ dị vật ngay từ tuyến cơ sở.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT

1. Huỳnh Anh, Phạm Sỹ Hoãn (1999), “Tình hình dị vật thực quản tại Bệnh viện Đà nẵng từ 1995-1998”, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Nội san Đại hội lần thứ X Hội Tai Mũi Họng Việt Nam, Đà Nẵng, tr. 266-269.

2. Lưu Vân Anh (2002), Nghiên cứu tình hình biến chứng của dị vật thực quản tại Viện Tai Mũi Họng, từ 1/1998-10/2002, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

3. Chử Ngọc Bình, Đặng Hanh Biên (2008), “Đánh giá kết quả điều trị dị vật đường ăn tại Bệnh viện Việt Nam-Cu ba từ 1/2004-6/2008”, Tạp chí Tai Mũi Họng, Hội Tai Mũi Họng Việt nam, (4), tr. 23-26.

4. Phùng Xuân Bình (2006), “Sinh lý tiêu hóa”, Sinh lý học tiêu hóa, Nhà xuất bản Y học, Hà nội, tr. 324-359.

5. Phạm Đăng Diệu (2001), “Hầu”, Giải phẫu đầu mặt cổ, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 236-251.

6. Nguyễn Thị Ngọc Dinh (2007), “Dị vật đường ăn đường thở”, Bệnh học Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà nội, tr. 224-230.

7. Nguyễn Văn Đức (2008), “Dị vật thực quản”, Tai Mũi Họng tập 2, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 389-398.

8. Nguyễn Văn Đức, Nhan Trừng Sơn, Đặng Hoàng Sơn, Bùi Văn Đông (1996), “Dị vật đường ăn trẻ em gặp tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Nhi đồng I trong 10 năm 1985-1995”, Nội san Tai Mũi Họng, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 34.

9. Frank HN (2004), Atlat giải phẫu người, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 74-239.

10. Lê Thị Hà (2006), “Tình hình dị vật thực quản tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện đa khoa Hà tĩnh 1/20004-12/2005”, Tạp chí Tai Mũi Họng, Hội Tai Mũi Họng Việt Nam, (1), tr. 22-28.

11. Đặng Mỹ Hạnh (2008), “Khảo sát mối tương quan giữa độ tuổi-bản chất dị vật đường ăn và biện pháp đề xuất giáo dục cộng đồng, qua 279 trường hợp tại Bệnh viện Tai Mũi Họng thành phố Hồ Chí Minh từ 1/1/2006 đến 30/6/2006”, Thời sự Tai mũi họng, Thành phố Hồ Chí Minh, (17), tr. 18-21.

12. Ngô Xuân Khoa (2006), “Giải phẫu miệng và thực quản”, Nhà xuất bản Y học, Hà nội, tr. 180-181.

13. Nguyễn Hữu Khôi (2007), “Dị vật đường ăn và đường thở”, Bài giảng lâm sàng Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 182-193.

14. Vũ Trung Kiên (1997), Tình hình biến chứng dị vật thực quản tại Viện Tai Mũi Họng Trung ương từ 1/1990-9/1997, Luận án thạc sỹ y học, Trường Đại Học Y khoa Hà Nội.

15. Vũ Trung Kiên, Vũ Thị Nguyệt Oanh (1999), “Dị vật thực quản ở người cao tuổi gặp tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Đa khoa Thái Bình từ tháng 1/1996 đến tháng 6/1998”, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Nội san Đại hội lần thứ X Hội Tai Mũi Họng Việt Nam, Đà Nẵng, tr. 281-285.

16. Trịnh Thị Lạp (1994), Tình hình dị vật thực quản tại Bệnh viện Đa Khoa Thái Bình trong 5 năm 1985-1989, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.

17. Lê Văn Lợi (2001), “Dị vật đường ăn”, Cấp cứu Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, Hà nội, tr. 426-438.

18. Lê Văn Lợi (2001), “Soi thực quản”, Các phẫu thuật thông thường Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, Hà nội, tr. 239-246.

19. Trần Phương Nam (2006), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết qủa điều trị dị vật thực quản tại Bệnh viện Trung ương Huế, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y khoa Huế.

20. Thái Phương Phiên (1999), “Nhận xét 37 trường hợp áp xe thực quản cổ do hóc xương cá tại Bệnh viện Ninh Thuận trong 5 năm từ 1/1/1994-1/1/1999”, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Nội san Đại hội lần thứ X Hội Tai Mũi Họng Việt Nam, Đà Nẵng, tr. 275-280.

21. Nguyễn Quang Quyền (2002), “Hầu”, Bài giảng giải phẫu học, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 361-371.

22. Võ Thanh Quang (1987), Nhận xét về các biến chứng của dị vật thực quản gặp tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương từ 1/1980-12/1984, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú bệnh viện, Trường Đại học Y Khoa Hà Nội.

23. Võ Tấn (2002), “Dị vật ở họng”, Tai Mũi Họng thực hành, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 362-363.

24. Võ Tấn (2002), “Dị vật thực quản”, Tai Mũi Họng thực hành, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 227-236.

25. Phan Thị Hoài Thanh, Chu Lan Anh, Nguyễn Thị Ngọc Dung (1999), “Tình hình dị vật đường ăn tại trung tâm Tai Mũi Họng từ 1/1999-12/1997”, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Nội san Đại hội lần thứ X Hội Tai Mũi Họng Việt Nam, Đà Nẵng, tr. 269-274.

26. Nguyễn Tư Thế (2009), “Dị vật đường ăn”, Giáo trình Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 37-41.

27. Nguyễn Tư Thế (1984), “Nhận xét 174 trường hợp dị vật đường ăn điều trị tại khoa Tai Mũi Họng Học viện y Huế”, Tập san nghiên cứu khoa học, Hà Nội, tr. 121-126.

28. Nguyễn Tư Thế (2004), “Đánh giá dịch tễ và đặc điểm lâm sàng dị vật đường ăn vào khám và điều trị tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Trung ương Huế”, Nội san đại hội Tai Mũi Họng toàn quốc lần thứ XI, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 164-170.

29. Trần Minh Trường (2009), “Đánh giá lâm sàng và kết quả lấy dị vật thực quản bằng ống nội soi cứng tại Bệnh viện Chợ rẫy từ 2002-5/2008”, Tạp chí y học thực hành, Bộ y tế xuất bản, Hà nội, (2), tr. 114-116.



TIẾNG ANH

30. Al-Qudah A, Daradkeh S, Abu-Khalaf M (1998) “Esophageal foreign bodies”, European Journal of Cardio-thoracic Surgery, 13, pp. 494-499.

31. Anwer AE (2004), “Removal of foreign bodies upper esophagus”, Journal of Postgraduate Medicine Institute, 18(4), pp. 681-684.

32. Ashraf O (2006), “Foreign body in the esophagus: a review”, Sao Paulo Med J, 124(6), pp. 346-349.

33. Athanassiadi K, Gerazounis M, Metaxas E, Kalantzi N (2002), “Management of esophageal foreign bodies: a retrospective review
of 400 cases”, Eurpean Journal of Cardio-thracic Surgery, 21(4),
pp. 653-656.

34. Balci AE, Eran S, Eren MN (2004), “Esophagus foreign bodies under cricopharyngeal level in children: An analysis of 1116 cases”, Interactive Cardiovascular and Thoracic Surgery, Elsevier, USA, 3, pp. 14-18.

35. Baraka A, Bikhazi G (1975), “Oesophageal foreign bodies”, British Medical Journal, 1, pp. 561-653.

36. Bennett A, Sharma A, Price T, Montgomery PQ (2008), “The management of foreign bodies in the pharynx and oesophagus using transnasal flexible laryngo-oesophagoscopy”, Ann R Coll Surg Engle, 90, pp. 13-16.

37. Ciriza C, Garcia L, Suarez P, Jimenez C, Romero MJ, Urquiza O, Dajil S (2000), “What predictive parameters best indicate the need for emergent gastrointestinal endoscopy after foreign body ingestion?”, J Clin gastroenterol, 31(1), pp. 23-28.

38. Conway WC, Sugawa C, Ono H, Lucas CE (2007), “Upper GI foreign body: an adult urban emergency hospital experience”, Surgical Endoscopy, Springer, USA, 21, pp. 455-460.

39. Dahshan AH, Kevin Donovan G (2007), “Bougienage vernus endoscopy for esophageal coin removal in children”, J Clin Gastroenterol, 41(5), pp. 454-456.

40. Dhillon RS (1999), “Foreign bodies”, Ear, Nose and Throat and Head and Neck Surgery, Churchill Livingstone, London, 2, pp. 83-85.

41. Harned RK, Strain JD, Hay TC, Doughlas MR (1997), “Esophageal foreign bodies: safe and efficacy of Foley catheter extraction of coin”, AJR Am J Roentgenol, 168(2), pp. 443-446.

42. Herranz- Gonzalez J, Martinez-Vidal J, Garcia-Sarandeses A, Vazquez-Barro C (1991), “Esophageal foreign bodies in adults”, Otolaryngol Head Neck Surg, 105(5), pp. 649-654.

43. Higo R, Matsomoto Y, Ichimura K, Kaga K (2003), “Foreign bodies in the aerodigestive tract in pediatric patients”, Auris nasus larynx, 30(4),
pp. 397-401.

44. Holinger LD (1994), “Foreign bodies of the airway and esophagus”, Cerrent therapy in otolaryngology head and neck surgery, Mosby-Year Book, USA, 6, pp. 470-478.

45. Isser DK (2005), “Rare andunusual presentation of multiple oesophageal foreign bodies in infant”, Indian J Otolaryngol Head Neck Surg, 57(2), pp. 159-161.

46. Kashima HK and Gayler RW (1998), “Upper digestive tract evaluation and imaging”, Head and Neck Surgery Otolaryngology, Lippincot Raven, New York, 44(6), pp. 589-597.

47. Khan MA, Hameed A, Choudhry AJ (2004), “Management of foreign bodies in the esophagus”, J Coll Physicians Surg Pak, 14(4), pp. 218-220.

48. Khurana AK, Saraya A, Jain N, Aman V, Sen S (1998), “Management of foreign bodies of the upper gastrointestinal tract”, Trop Gastroentorel, 19(1), pp. 32-33.

49. Lai AT, Chow LT, Lee DT, Kwok SP (2003), “Risk factors predicting the devenlopment of complications after foreign body ingestion”, Br J Surg, 90(12), pp. 1531-1535.

50. Lee FP (2004), “Removal of fish bones in the oropharynx and hypopharynx under video laryngeal telescopic guidance”, Otolaryngol Head Neck Surg, 131(1), pp. 50-53.

51. Leong HK, Chan RK (1987), “Foreign bodies in the upper digestive tract”, Singapore Medical Journal, 28(2), pp. 162-165.

52. Li ZS, Sun ZX, Zou DW, Xu GM, Wu RP, Lioa Z (2006), “Endoscopic management of foreign bodies in the upper-GI tract: experence with 1088 cases in China”, Gastrointest Endosc, 64(4), pp. 485-492.

53. Loh KS, Tan LK, Smith JD, Yeoh KH, Dong F (2000), “Complications of foreign bodies in the esophagus”, Otolaryngol Head Neck Surg, 123(5), pp. 613-616.

54. Lue A, MD (2000), “Fish bone impactions”, Grand rounds archives, Kaiser Permanente, USA, 1, pp. 1-7.

55. Mahafza T, Batieha A, Suboh M, Khrais T (2002), “Esophageal foreign bodies: a Jordanian experience”, Int J Pediatr Otorinolaryngol, 64(3),
pp. 225-227.

56. McGahren ED (1999), “Esophageal foreign bodies”, Pediatrics in review, 20, pp. 129-133.

57. Myles GM, Sylvan E (1983), “Foreign bodies of the pharynx and esophagus”, Pediatric Otolaryngology, Elsevier, USA, pp. 1095-1109.

58. Nashef SAM, Klein C, Velley JF, Couraud L (1992), “Foreign body perforation of the normal oesophagus”, Eur J Cardiothorac Surg, 6(10), pp. 565-567.

59. Nayak SR, Kirttane MV, Shah AK, Karnik PP (1984), “Foreign bodies in the cricopharyngeal region and oesophagus (a review of 226 cases)”,
J Postgrad Med, 30(4), pp. 214-218.

60. Nijhawan S, Shimpi L, Mathur A, Mathur V, Roop RR (2003), “Management of ingested foreign bodies in upper gastrointestinal tract: report on 170 patients”, Indian J Gastroenterol, 22(2), pp. 46-48.

61. Nixon GW (1998), “Foley catheter method of esophageal foreign body removal: Extension of applications”, European Jounal of Cardio-thoracic Surgery, 13, pp. 494-498.

62. Park JH, Park CH, Lee SJ, Lee WS, Joo YE, Kim HS, Choi SK, Rew JS, Kim SJ (2004), “Review of 209 cases of foreign bodies in the upper gastrointestinal tract and clinical factor for successful endoscopic removal”, Korean J Gastroenterol, 43(4), pp. 226-233.

63. Pasha R, MD (2009), “Foreign body and caustic ingestion”, Otolaryngology Head and Neck Surgery, Thomson Learning, USA, pp. 48-484.

64. Sankinsi U, Kocer B, Dural K, Kayhan B, Han S (2005), “A new and safe technique for removing cervical esophageal foreign body”, Turk J Gastroenterol, 16(2), pp. 108-110.

65. Schild JA, Snow JB (1996), “Esophagology” Otorhinolaryngology, Head and Neck Surgery, A Lea & Febiger Book, USA, 2, pp. 1221-1235.

66. Schunk JE, Harrison AM, Corneli HM, Nixon GW (1994), “Fluoroscopic foley catheter removal of esophageal foreign bodies in children: experience with 415 episodes”, Pediatrics, 94(5), pp. 709-714.

67. Shirakumar AM, Naik AS, Prashanth KB, Yogesh BS, Hongal Girish F (2004), “Foreign body in the upper digestive tract: a retrospective study of 104 cases”, The Indian Jounal of pediatrics, 71(8), pp. 689-693.

68. Takubo K (2009), “Structure of the esophagus”, Pathology of the esophagus, Springer, Japan, 2, pp. 8-10.

69. Wai PM, Chung LW, Kwok FH, Van HCA (2001), “A prospective study of foreign body ingestion in 311 children”, Int J pediatr Otorhinolaryngol, 58(1), pp. 37-45.

70. Waltzman ML, Baskin M, Wypij D, Mooney D, Johnes D, Fleisher G (2005), “A Randomized Clinical Trial of the Management of Esophageal Coin in the children”, American Academy of pediatrics, 116(3), pp. 614-619.

71. Webb WA (1995), “Management of foreign bodies of the upper gastrointestinal tract update”, Gastrointest Endosc, 42(1), pp. 39-51.

72. Yang M-C, Lee S-W, Huang Y-G, Yeh AR (2005), “Acute mediastinitis resulting from an unsuspected fish bone-case report”, Int Journal of Clinical Practice, 59(147), pp. 45-47.


MỤC LỤC

Trang


Каталог: 2009
2009 -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
2009 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
2009 -> Nghị ĐỊnh số 163/2004/NĐ-cp ngàY 07/9/2004 quy đỊnh chi tiết thi hành một số ĐIỀu của pháp lệNH
2009 -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> BỘ y tế Số: 12/2006/QĐ-byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở TƯ pháP Độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> CÔng ty cp đIỆn tử BÌnh hòa cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh

tải về 0.55 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương