CÂu lạc bộ SÁng tác thơ – VĂn công giáO


THIÊN CHÚA VÀ CHỦ THUYẾT VÔ THẦN MỚI



tải về 0.77 Mb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu17.11.2017
Kích0.77 Mb.
#34395
1   2   3   4

THIÊN CHÚA VÀ CHỦ THUYẾT VÔ THẦN MỚI
Vài hàng giới thiệu tác phẩm và tác giả của người dịch:




Tại Hoa kì, hiện nay có một nhóm tự xưng là vô thần, phổ biến nhiều sách bán chạy nhất và bài báo, cả trên mạng, phi bác sự hiện diện của Thiên Chúa và tôn giáo, cách riêng Kitô giáo. Trong nhóm này phải kể đến Richard Dawkins, một giáo sư đại học, Sam Harris, Christopher Hitchens, Daniel Dennett, vv.
John F. Haught là Trưởng khoa và Giáo sư tại Phân khoa thần học Đại học Georgetown từ năm 1970 đến 2005. Ông là Thành viên thâm niên về Khoa học và Tôn giáo tại Trung tâm thần học Woodstock thuộc Đại học Georgetown. Về vị giáo sư tác giả của “Thiên Chúa và chủ thuyết vô thần mới” (God and the New Atheism) này, tôi xin mượn lời của Elia Delio trong bài nhận định của bà về tác phẩm mới nhất của John F. Haught “Làm cho tiến hóa có ý nghĩa” (Making Sense of Evolution): “John Haught không chỉ là một trong các nhà thần học hay nhất của thời đại chúng ta; ông, như Teilhard, là một tiên tri.”
Trong bản dịch này, chúng tôi cố gắng sử dụng từ thuần Việt, tránh dùng từ Hán Việt khi có thể được. Về tên riêng người và địa điểm, chúng tôi giữ lại gốc tiếng Anh trừ phi tên đã quá quen thuộc, ví dụ chúng tôi viết Frank, nhưng Phêrô, nước Sweden, nhưng nước Pháp. Theo ý kiến riêng, điều này sẽ dễ dàng cho bạn đọc trẻ đã quá quen thuộc với các ngoại ngữ Anh Pháp ngày nay, hơn là viết theo các phiên âm nhiều khi gây bối rối.
Trần Hữu Thuần
Dẫn nhập
Bất cứ ai theo dõi ngày nay sách bán chạy trong thế giới xuất bản không thể không chú ý đến sự bùng phát gần đây các luận giải vô thần đầy khiêu khích. Các sách bán chạy nhất của Richard Dawkins, Sam Harris, và Christopher Hitchens đã lôi cuốn một số lượng chú ý khác thường. Nhiều người đọc, kể cả các nhà khoa bảng, đã tìm thấy các sách đó không chỉ hấp dẫn mà còn, trong vài trường hợp, thuyết phục. Cuốn Ảo giác về Thiên Chúa (The God Delusion) của Dawkins viết hay tuyệt vời, cho dẫu không luôn luôn chính xác, những gì một số nhà khoa học và triết học đã từng suy nghĩ đến. Tương tự, trong cuốn Chấm dứt đức tin (The End of Faith) và Thư cho một quốc gia Kitô giáo (Letter to a Christian Nation), và Hitchens, trong cuốn Thiên Chúa không vĩ đại: Làm sao tôn giáo đầu độc mọi thứ (God Is Not Great: How Religion Poisons Everything), đã nêu lên rõ ràng và thích thú những gì mà nhiều người đọc của họ cũng cho tôn giáo là sai lầm. Tôi sẽ nói đến các tác phẩm đó cách chung là “chủ thuyết vô thần mới.”i
Một số sách có vẻ trí thức tương tự giờ đây đang cố gắng nhân danh khoa học vạch trần tôn giáo và cách riêng ý niệm về Thiên Chúa.ii Thoạt tiên tôi có ý muốn kể cả cuốn Phá vỡ lời nguyền: Tôn giáo như là một hiện tượng tự nhiên (Breaking the Spell: Religion as a Natural Phenomenon) của Daniel Dennett một cách tập chú hơn vào trong nghiên cứu của tôi về chủ thuyết vô thần mới, nhưng sách của Dennett là một lý luận dài dòng vô ích về một vấn đề tương đối đơn giản, và dù cách nào cũng không là một phương cách ngoại lệ để tấn công tôn giáo.iii Hơn nữa, khi trả lời ba cuốn sách mà tôi đã chọn để đánh giá, tôi quả thực cũng đề cập đến tuyên bố chính yếu của Dennett, nói rõ ra là rằng tôn giáo nên được nghiên cứu theo tự nhiên, cách riêng theo cách nhìn của sinh vật học tiến hóa. Dù sao tên của Dennett cũng thường được nhắc tới, nhưng vì các hạn chế của độ dày và phức tạp của cuốn sách này, tôi đã quyết định đề cập minh nhiên với ba tác giả kia, và với Dennett thỉnh thoảng hơn.
Quan điểm chính của Dennett là rằng khoa sinh vật tiến hóa cung cấp cách giải thích sâu sắc nhất về mọi hiện tượng, kể cả đạo đức và tôn giáo.Xem xét một nhận thức tiến hóa về tôn giáo, tôi có thể lý luận, không là điều thần học chống đối. Thực tế, thần học, như tôi nhận thức nó, không có đối kháng nào trong việc thúc đẩy các cách giải thích tiến hóa về mọi hệ thống sinh vật, kể cả tôn giáo, bao lâu nó có thể hữu lý và hiệu quả khoa học để làm như vậy. Với khoa học, nói cho cùng, các tôn giáo cũng là thành phần của thiên nhiên như tất cả mọi thực tế khác có thể quan sát được. Tuy nhiên, Dennett không ngừng lại với nhận thức rằng tôn giáo là một hiện tượng tự nhiên mà khoa học có đủ mọi quyền để nghiên cứu. Theo ông, cũng như theo Dawkins, một tri thức tự nhiên về tôn giáo không còn dành chỗ đáng kể nào nữa cho các tường trình thần học đáng tin cậy về tại sao phần lớn con người có tôn giáo. Thần học theo Dennett, cũng như theo Dawkins, Harris, và Hitchens, giờ đây hoàn toàn thừa thãi. Chỉ một mình khoa học có thể cho chúng ta biết mọi điều về tôn giáo thực sự là gì, và nó có thể cung cấp các giải đáp tốt hơn thần học có thể cung cấp cho mọi câu hỏi quan trọng người ta hỏi đến. Theo Dawkins, khoa học thậm chí có đủ tư cách để quyết định liệu Thiên Chúa có hiện hữu hay không. Cho dẫu Dennett không hoàn toàn tự tin như vậy, ông chia sẻ sự tin tưởng rằng tầm bao quát nhận thức của khoa học là toàn vẹn, và từ đó rằng nó không để lại chỗ đáng kể cho giải thích thần học về tôn giáo.
Sự tin tưởng của Dennett rằng khoa học có thể cung cấp một tri thức đầy đủ về tôn giáo hiển nhiên không phải là một tuyên bố đã được khoa học chứng tỏ hay thậm chí có thể chứng tỏ được. Đó là một tín điều, một tuyên ngôn về đức tin. Không một tích lũy lớn lao nào về lời lẽ phỉ báng châm chọc hay rèn luyện trí tuệ có thể che đậy sự kiện này khỏi người đọc có tính phê phán. Hệ thống niềm tin mà Dennett các các người vô thần mới khác tán đồng được biết đến như là “chủ thuyết thiên nhiên khoa học” (scientific naturalism). Giáo điều trọng tâm của nó là rằng chỉ có thiên nhiên, kể cả nhân loại và các tạo dựng của chúng ta, là thực; rằng Thiên Chúa không hiện hữu; và rằng chỉ có khoa học có thể cho chúng ta tri thức hoàn toàn và đáng tin cậy về thực tế. Vì Thiên Chúa không nằm trong phạm vi lãnh vực của “chứng cứ” (evidence) mà khoa học cứu xét đến, bất cứ ai có lý trí, có giáo dục về khoa học phải do đó từ khước niềm tin vào Thiên Chúa. Vì phần lớn mọi điều Dennett viết về tôn giáo đều dựa trên niềm tin riêng của ông vào chủ thuyết thiên nhiên khoa học, tôi sẽ trả lời phê phán các bài viết của ông thậm chí nếu tôi không luôn luôn nêu đích danh ông.
Theo Dawkins và Dennett, người ta phải quyết định giữa các giải thích thần học và Darwin. Mỗi người đọc phải chọn lựa hoặc cái này hoặc cái kia. Không thể nào cả hai được. Khi phổ biến giáo điều này, Dennett và Dawkins đơn giản chỉ nêu lại một trong các giả định của phần lớn mọi chủ thuyết vô thần gợi hứng từ khoa học. Carl Sagan, Michael Shermer, Steven Weinberg, Owen Flanagan, và Victor Stenger, ấy là chỉ kể ra một ít, đã tuyên bố tương tự,iv vì thế ở đây không cần phải khảo sát riêng lẻ các tác giả này. Các tác giả mà tôi cứu xét đề cập đến cũng lãnh vực đó và hơn thế nữa. Vô số cuốn sách, bài báo, và điểm sách hiện nay tán đồng giáo điều trọng tâm của chủ thuyết vô thần mới, nhưng tôi thấy rất ít điều trong các tác phẩm khác đó đã không được đề cập đến, nếu không muốn nói hay hơn, bởi ba tác giả mà tôi nêu bật trong bộ sách này.
Tuy nhiên, tôi phải thú nhận niềm thất vọng của tôi khi chứng kiến sự trỗi sinh gần đây mối quan tâm đến chủ thuyết vô thần. Đó chẳng phải mảy may vì cuộc đời tôi như là một nhà thần học gặp nguy hiểm—cho dẫu các tác giả được bàn đến thiết tha ao ước như vậy. Cũng chẳng phải vì xử lý về tôn giáo trong các tiểu luận này bao gồm phần lớn các khái quát quá mức hời hợt bỏ ra ngoài hầu hết mọi điều mà các nhà thần học có thể muốn nêu rõ lên trong cuộc thảo luận đương thời của chính họ về Thiên Chúa. Đúng ra, chủ thuyết vô thần mới không một chút thử thách nào về thần học. Việc dấn thân vào thần học của chủ thuyết này nằm gần như ở cùng một tầm mức với suy tư về đức tin mà người ta có thể tìm thấy trong văn chương của các người theo thuyết tạo dựng (creationist) và căn bản (fundamentalist) đương thời. Điều này không gì đáng ngạc nhiên vì chính từ những người theo thuyết tạo dựng và người hữu thần theo thiết kế thông minh mà các người vô thần mới thu nhặt phần lớn nhận thức của họ về đức tin tôn giáo. Các nhà thần học dòng chính, cũng như các sinh viên lịch sử trí tuệ, sẽ tìm thấy trong các sách báo đó quá ít những gì họ chưa từng được thấy trước đây. Hơn nữa, tôi có thể giả thiết nhiều người đọc cuốn sách này không có bối cảnh thần học để biết rõ cách làm sao đồi xử với họ, và vì thế không phải chỉ dành cho các chuyên viên, thầy cô giáo, và sinh viên học sinh, mà còn cho người đọc đại chúng mà tôi cống hiến trong các trang sách này một trả lời theo thần học.
Sử dụng từ “theo thần học” ở đây, tôi muốn chứng tỏ, trước hết, rằng suy tư của tôi phát sinh từ việc tôi tùy thuộc vào một truyền thống tôn giáo hữu thần, nghĩa là, một truyền thống tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa có tính con người (personal Godv), một Thiên Chúa của quyền uy và tình yêu vô tận, đấng tạo dựng và duy trì thế giới, và đấng mãi mãi mở ra cho thế giới một tương lai mới và không có tiền lệ, một Thiên Chúa làm mới mọi sự. Nhận thức kinh thánh thiết yếu này về Thiên Chúa nói rằng huyền nhiệm siêu nhiên chỉ có thể xử lý bằng phương cách đức tin, tin tưởng, và hy vọng (các quan niệm gần như không thể phân biệt được trong văn chương kinh thánh), không phải như là một sở hữu nhận thức hay tôn giáo. Hơn nữa, cho dẫu Thiên Chúa không thể được biết đến tách rời khỏi đức tin và hy vọng, đa số các nền thần học cho phép rằng đức tin và hy vọng hoàn toàn nhất quán với và tràn đầy nâng đỡ bởi lý trí con người, kể cả việc theo đuổi nhận thức khoa học.
Thứ hai, thần học, như tôi dùng từ đó, là một suy tư tán thưởng nhưng cũng phê phán, triết học về các tôn giáo tuyên xưng niềm tin vàoThiên Chúa. Từ đây trở đi, khi tôi nói đến “thần học,” tôi sử dụng từ này như là nhãn hiệu chung cho công việc của nhiều người tư duy về thông tin kinh thánh, suy tư phê phán, và tôn giáo mà tôi đã tìm thấy hữu ích trong việc hình thành nhận thức của riêng tôi về đức tin và chủ thuyết vô thần. Cách riêng, tôi muốn nói đến các nhà tư duy như Paul Tillich, Alfred North Whitehead, Paul Ricoeur, Rudolf Bultmann, Edward Schillebeeckx, Bernard Lonergan, Karl Barth, John Bowker, Elizabeth Johnson, Karl Rahner, Jürgen Moltmann, Wolfhart Pannenberg, Ian Barbour, David Tracy, Dorothee Soelle, Sallie McFague, Henri de Lubac, Hans Konas, Emil Fackenheim, và Seyyed Hossein Nasr, chỉ kể ra một ít.
Rõ ràng các người vô thần mới không quen thuộc với bất cứ ai trong các nhà tư duy tôn giáo, và sự thù địch với cái mà họ gọi là “thần học” gần như không dính líu gì đến nền thần học như tôi sử dụng từ đó. Thỉnh thoảng, phê phán của chúng tôi đến gần việc nghi ngờ rằng có thể có cả một thế giới khác về tư duy tôn giáo thích đáng ở ngoài đó, nhưng họ muốn làm cho mọi sự dễ dàng cho họ và các người đọc họ, vì thế họ để thần học, ít nữa theo ý nghĩa của tôi với từ này, ra ngoài toàn bộ thảo luận của họ. Chiến thuật này là để chận đứng trên thực tế bất cứ tiếng nói thần học có ý nghĩa nào có thể mong muốn tham gia vào trò chuyện với họ. Kết quả của việc loại bỏ này, phẩm chất trí tuệ của chủ thuyết vô thần của họ bị giảm giá trị một cách không cần thiết. Nhận thức của họ về đức tin tôn giáo vẫn nhất quán ở cùng một tầm mức không uyên bác như tính tôn giáo không suy tư, mê tín, và theo nghĩa đen của những người mà họ chỉ trích. Hơn nữa, ở giữa tất cả nổi bất bình biện minh được của họ với các lạm dụng tôn giáo, họ không thể đo lường tính khả dĩ rằng tôn giáo nhân gian cũng thường lên đến độ cao của cao quí, can đảm, và đích thực mà không một học thuật công bình và vô tư nào có thể làm ngơ.
Một cách lý tưởng, tác giả các sách tôi sẽ đánh giá cũng sẽ liếc nhìn vào các trang sau đây, nhưng vì các bài viết của họ cho đến nay cho thấy không quan tâm gì đến thần học, chắc chắn không còn trông mong rằng họ cũng sẽ hoà điệu vào. Tôi cũng sẽ rất vui nếu các người hữu thần Do thái và Hồi giáo tìm thấy được điều gì đáng quan tâm trong nghiên cứu này, cho dẫu họ chắc chắn sẽ có câu trả lời độc đáo của riêng họ cho chủ thuyết vô thần mới.
TẠI SAO CÓ SÁCH NÀY?

(Why This Book?)
Tôi quyết định viết cuốn sách này nhằm để phơi bày các sai lầm và ngụy biện cơ bản làm cho chủ thuyết vô thần mới ít có ấn tượng hơn là nó thoạt xem ra như vậy. Tôi không thể xử lý từng tác giả với chi tiết, cũng không thể trả lời mọi quan điểm, nhưng không cần thiết phải làm như vậy nhằm để phơi bày tính không nhất quán họ cùng chia sẻ. Các người vô thần mới có biết bao nhiêu điều chung với nhau cũng như với các thể loại chủ thuyết vô thần trước kia cho đến nổi những gì tôi sẽ phải nói để phê phán một người này, ngoại trừ một vài khác biệt thứ yếu, thường thường cũng áp dụng cả cho các người khác. Kết luận này cách riêng đúng về quan điểm chung họ chia sẻ với nhiều nhà khoa học, triết học,và các nhà trí thức đương thời. Ở đây tôi dẫn chiếu đến viễn ảnh ảnh hưởng gia tăng của thực tế mà trước đây tôi đã gọi là chủ thuyết thiên nhiên khoa học. Vì sự quan trọng của nó trong việc hình thành định kiến của tất cả các người vô thần mới, kể cả nhiều người tôi không thể đề cập đến, tôi sẽ liệt kê ra đây các giáo điều chính của nó:


  1. Ngoại trừ thiên nhiên, bao gồm cả hiện thân con người và các tạo dựng văn hóa của chúng ta, không có gì nữa cả. Không có Thiên Chúa, không linh hồn, và không có đời sống sau sự chết.

  2. Thiên nhiên tự khởi sinh (self-originating), không phải Thiên Chúa tạo dựng

  3. Vũ trụ không có quan điểm chung hay mục đích, cho dẫu các cuộc sống con người cá nhân có thể được sống với chủ đích.

  4. Vì Thiên Chúa không hiện hữu, tất cả mọi giải thích và mọi nguyên ủy đều thuần túy tự nhiên và có thể được nhận thức chỉ bằng khoa học.

  5. Tất cả mọi hình thái đa dạng của hiện thân sống động, kể cả trí thông minh và cách cư xử của con người, đều có thể cuối cùng được giải thích thuần túy bằng diễn giải tự nhiên, và ngày nay điều này thường có nghĩa là bằng diễn giải tiến hóa, cách riêng theo thuyết Darwin.

Các người vô thần mới có thể thêm các điều sau đây vào các giáo điều của chủ thuyết thiên nhiên khoa học:




  1. Đức tin vào Thiên Chúa là nguyên ủy của vô số điều ác (evils) và phải bị từ khước trên nền tảng luân lý.

  2. Luân lý không đòi buộc niềm tin vàoThiên Chúa, và người ta cư xử tốt không có đức tin hơn là có nó.

Các giả định cùng chia sẻ đó, căn bản trí tuệ của chủ thuyết vô thần mới, đòi buộc một trả lời nếu chúng ta phải đào sâu tận gốc rễ. Trong cuốn sách trước đây, Thiên nhiên đã đủ chưa? Ý nghĩa và sự thực trong thời đại khoa học (Is Nature Enough? Meaning and Truth in the Age of Science), tôi đã lý luận sâu rộng hơn rằng chủ thuyết thiên nhiên khoa học là một hệ thống niềm tin không mạch lạc và tự hủy hoại (incoherent and self-subverting), nhưng tôi không thể nhắc lại toàn bộ lý luận trong thảo luận ngắn ngủi hơn này. Tôi đề cập đến tác phẩm trước đây, và nhiều tính khoa bảng hơn, để trường hợp vài người đọc đang tìm kiếm một phiên bản tương đối mở rộng hơn của một số các lời phê bình tôi trình bày ở đây khi áp dụng Dawkins, Harris, và Hitchens.


Tôi tiến hành như sau:

Trong chương 1, tôi hỏi chủ thuyết vô thần mới mới đến chừng nào. Trong chương thứ nhất, tôi nhằm cung cấp một tóm lược ngắn về các tuyên bố của từng người trong ba tác giả của chúng ta, hỏi xem nếu có khía cạnh nào có thể xứng đáng được xem xét đặc biệt. Tôi nhận thấy rằng các tác phẩm được nghiên cứu cung cấp một phơi bày mới mẻ và đôi khi lý thú về các vấn đề quan trọng, nhưng chúng chủ yếu cũng giống như những điều đã ám ảnh các tôn giáo và các nền thần học nhiều thế hệ. Năm câu hỏi kiên định phát sinh từ bất cứ cuộc thảo luận nào về chủ thuyết vô thần, và các câu hỏi đó được dùng làm chủ đề cho các chương 3-7:

Thần học có quan trọng gì không (chương 3)?

Thiên Chúa có phải là một “giả thiết” (hypothesis) mà khoa học có thể xác nhận hay từ khước không (chương 4)?

Tại sao con người lại nghiêng về niềm tin tôn giáo (vào chương 5)?

Chúng ta có thể tốt mà không có Thiên Chúa không (chương 6)?

Ý tưởng về một Thiên Chúa có tính con người có thể tin được không trong một thời đại khoa học (chương 7)?

Chương 2 chỉ hỏi chủ thuyết vô thần mới vô thần đến chừng nào.


Một Nietzsche, Camus, hay Sartre nghĩ gì về Dawkins, Harris, và Hitchens? Ở đây tôi phân biệt giữa chủ thuyết vô thần “hạng nặng” (hard-core) của nhiều chỉ trích cổ điển về tôn giáo một bên, và bên kia là đặc tính “hạng nhẹ” (soft-corevi) đa dạng mới của các người vô thần mới. Rôi tôi hỏi các cách đo lường của nhóm sau hay ho chừng nào so với các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của nhóm trước. Cuối cùng, trong chương 8, tôi cống hiến một câu trả lời cách riêng theo Kitô giáo cho các câu hỏi biện giải trong các chương 3-7.
Với một số người đọc, chương cuối cùng sẽ xem ra như tùy chọn, cho dẫu với riêng tôi đó là chương quan trọng nhất. Bảy chương đầu của tôi tránh xử lý chủ thuyết vô thần mới theo quan điểm thuần túy Kitô giáo. Thay vào đó, phê bình của tôi theo thể loại thế nào để những người hữu thần không Kitô giáo (cách riêng người Do thái và Hồi giáo tin vào Thiên Chúa), cũng như những người vô thần và không thể biết được (agnosticsvii) có thể theo dõi dễ dàng. Chỉ trong chương kết luận tôi mới phác họa một đáp ứng theo thần học Kitô giáo. Tôi chứng tỏ trong chương 8 rằng những gì các người vô thần mới của chúng ta hiểu về “Thiên Chúa” gần như chẳng có gì liên quan đến những gì đức tin và thần học Kitô giáo ngày nay hiểu về tên gọi này.
Càng đi sâu vào việc viết sách này, càng có nhiều chứng cứ hơn cho tôi rằng tôi đang cống hiến một phê phán không chỉ về chủ thuyết vô thần mới mà còn về thể loại tư duy tôn giáo, đạo đức, và tâm linh mà cuốn sách này phản ứng chống lại. Tôi gợi ý rằng có các cách thay thế thần học đáng tin cậy và hấp dẫn cho cả hai. Tuy nhiên, cho dẫu các người vô thần mới từ khước Thiên Chúa của những người tin vào thuyết sáng tạo, cơ bản, khủng bố, và những người bảo vệ thiết kế thông minh, không phải không hấp dẫn khi thấy họ đã quyết định bàn cãi với các người cực đoan đó hơn là với bất cứ nhà thần học chính yếu nào. Việc chọn lựa người đối kháng này phản bội sự tôn trọng vô ý thức của họ các phiên bản theo nghĩa đen và bảo thủ của tư duy tôn giáo trên các thể loại dòng chính theo truyền thống hơn—điều họ hoàn toàn làm ngơ và ngấm ngầm từ khước vì tính không chính thống của họ. Thực sự các người vô thần mới này đang nói nếu Thiên Chúa quả thực hiện hữu, chúng ta phải cho phép nhân dạng của vị Thiên Chúa này được những người theo thuyết cơ bản (fundamentalists) của các truyền thống tôn giáo Abraham chỉ định ra một lần dứt khoát. Tôi tin họ đã chọn chiến thuật này không chỉ để làm cho công việc hủy hoại của họ dễ dàng hơn mà còn bởi vì họ thán phục khó che dấu nổi sự đơn giản của các quan điểm của phe đối lập với họ về thực tế. Chứng cứ rõ nhất việc họ bị thu hút vào một quan điểm thế giới không phức tạp có thể tìm thấy trong việc họ trung thành với giả định thậm chí đơn giản hơn của chủ thuyết thiên nhiên khoa học.

i(Cước chú cuối bài là của tác giả trừ phi có ghi là của người dịch [nd])

Richard Dawkins, The God Delusion (New York: Houghton Mifflin, 2006); Sam Harris, The End of Faith; Terror, and the Future of Reason (New York: W. W. Norton & Co., 2004); and Letter to a Christian Nation (New York: Knopf, 2007); Christopher Hitchens, God Is Not Great: How Religion Poisons Everything (New York: Hachette Book Group USA, 2007)

ii Victor J. Stenger, God: The Failed Hypothesis: How Science Shows That God Does Not Exist (Amherst, N.Y.: Prometheus Books, 2007); Carl Sagan, The Demon-Haunted World: Science as a Candle in the Dark (New York: Ballantine Books, 1997); Steven Weinberg, Dreams of a Final Theory (New York: Pantheon, 1992); Michael Shermer, How We Believe: The Search for God in an Age of Science (New York: W. H. Freeman, 2000); Owen Flanagan, The Problem of the Soul: Two Visions of Mind and How to Reconcile Them (New York: Basic Books, 2002).

iii Daniel Dennett, Breaking the Spell: Religion as a NaturalPhenomenon (New York: Viking, 2006)

iv Xem số 2 trên

v Personal God: Một quan điểm thần học về Thiên Chúa, không phải là con người nhưng có tính con người. Có các tài liệu khác được dịch là Thiên Chúa (Thượng đế) con người có thể gây hiểu lầm Thiên Chúa là một con người. Tôi dịch là Thiên Chúa có tính con người để tránh hiểu lầm (người dịch) Các cước chú cuối trang là của người dịch.

vi Hard-core; Soft-core: Xin tạm dịch. Hard-core: hạng nặng; Soft-core: hạng nhẹ (nd)

vii Agnostics: Thường dịch là bất khả tri. Trong bản dịch này, tôi sẽ dùng từ thuần Việt thay cho Hán Việt khi có thể được (nd)
(Còn tiếp) Mời qúi độc giả đón xem TRANG VĂN số 03 – Chủ Nghĩa Vô Thần Mới, Mới Chừng Nào?


Đồng Xanh Thơ Sài Gòn – Trang Văn


tải về 0.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương