Con Mắt Thứ Ba (The Third Eye) T. Lobsang Rampa


CHƯƠNG VII: LUYỆN THẦN NHÃN



tải về 1.54 Mb.
trang8/19
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích1.54 Mb.
#38941
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   19

CHƯƠNG VII: LUYỆN THẦN NHÃN


Ngày sinh nhật của tôi đã đến. Ngày đó tôi được tự do, không phải đến lớp học hay dự lễ. Vào lúc sáng sớm, Đại đức Mingyar bảo tôi: « Lobsang, hôm nay con hãy vui chơi thỏa thích. Chúng ta sẽ đến tìm con chiều nay. » 

Thật dễ chịu khi được nằm một cách lười biếng dưới ánh nắng mặt trời. Ngay bên dưới tôi có thể nhìn thấy những mái vàng sáng chói của cung điện Potala. Phía sau tôi là màu xanh của dòng sông Norbu Linga, hay là Jewel Park, làm cho tôi mơ ước rằng tôi có thể lấy một con thuyền làm bằng da và bơi dọc theo con sông. Về phía Nam, tôi có thể nhìn thấy một nhóm các nhà buôn đang đi phà vượt sông Kyi Chu. Ngày trôi qua rất nhanh.

Ngày trôi qua rồi đêm đến, và tôi đi vào căn phòng nhỏ nơi tôi sẽ ở lại đó. Bên ngoài có tiếng động nhẹ của những đôi giầy da mềm đi trên nền đá, ba vị Lạt Ma cao cấp bước vào. Họ đặt một miếng gạc làm bằng thảo dược lên trán tôi và băng chặt lại. Vào buổi tối, ba vị lại đến lần nữa, trong đó có Đại Đức Mingyar. Miếng gạc được bỏ đi một cách cẩn thận, trán tôi đã sạch sẽ và khô ráo. Một vị Lạt Ma trông khoẻ mạnh ngồi phía sau và giữ đầu tôi giữa hai đầu gối của ngài. Vị Lạt Ma thứ hai mở một cái hộp và lấy ra một dụng cụ làm bằng thép sáng bóng. Nó giống như một cái dùi nhưng thay vì có dáng trục tròn thì cái dùi này có hình chữ “U”, và thay cho mũi nhọn là những chiếc răng nhỏ xung quanh cạnh của chữ “U”. Vị Lạt Ma kiểm tra các dụng cụ một lát rồi hơ nó lên ngọn lửa đèn để khử trùng. Đại Đức Mingyar cầm tay tôi và nói: « Sẽ khá đau, Lobsang, và việc này chỉ có thể thực hiện được trong khi con hoàn toàn tỉnh táo. Sẽ không mất nhiều thời gian, vì vậy con hãy cố gắng hết sức. »

Tôi thấy nhiều dụng cụ khác nhau được bày ra la liệt, cùng với nhiều loại kem thảo dược, và tôi tự nhủ: “Được rồi, Lobsang, anh bạn của ta, dù cách nào thì họ cũng sẽ hoàn thành việc này và mình không thể làm gì khác được, ngoại trừ giữ im lặng!”

Vị Lạt Ma cầm dụng cụ trong tay nhìn quanh mọi người, và nói «Tất cả đã sẵn sàng chưa? Chúng ta hãy bắt đầu bây giờ, mặt trời vừa mới lặn xong.»

Ngài ấn dụng cụ vào giữa trán tôi và xoay tay cầm. Trong khoảnh khắc đó tôi có cảm giác như bị gai đâm. Thời gian với tôi như dừng lại. Không có cảm giác đau đặc biệt khi dụng cụ đó đâm xuyên qua da và thịt, nhưng tôi bị giật mình khi nó chạm vào xương. Ngài ấn mạnh hơn nữa, đu đưa nhẹ dụng cụ để những chiếc răng nhỏ khoan xuyên qua xương trán. Cơn đau không gay gắt, mà chỉ cảm thấy bị ấn mạnh và đau âm ỉ. Tôi ngồi bất động, bên cạnh là sư phụ đang chăm chú nhìn; tôi thà chết còn hơn là cử động hay kêu la. Người tin ở tôi, cũng như tôi tin người, và tôi biết rằng bất cứ điều gì người làm hay nói đều đúng cả. Người đang quan sát rất chăm chú, một nếp nhăn hằn sâu căng thẳng nơi khóe miệng người.

Đột nhiên có một tiếng “rắc” nhỏ và dụng cụ đã xuyên qua xương. Ngay lập tức, vị Lạt Ma giải phẫu nghe thấy và ngưng dụng cụ lại. Ngài nắm chắc cán dụng cụ, trong khi Đại Đức Mingyar chuyển cho ngài một mảnh gỗ sạch sẽ và rất cứng đã được xử lý qua lửa và thảo dược để làm cho nó cứng như thép. Mảnh gỗ được đưa vào chữ “U” của dụng cụ và trượt xuống để đặt vào cái lỗ trên đầu tôi. Vị Lạt Ma giải phẫu di chuyển sang một bên một chút để sư phụ cũng có thể đứng trước mặt tôi. Sau đó, với một cái gật đầu, nhà phẫu thuật vô cùng thận trọng đẩy nhẹ mẩu gỗ sâu hơn và sâu hơn. Đột nhiên tôi cảm thấy đau nhói, cảm giác buồn buồn nơi sống mũi. Cảm giác đó lắng dần, và tôi nhận ra mùi hương tinh tinh tế mà tôi không thể xác định. Rồi nó qua đi và được thay thế bằng cảm giác như thể tôi đang bị đẩy qua đẩy lại trên một tấm lưới đàn hồi. Bỗng một ánh sáng lóe lên, lập tức Đại Đức Mingyar nói “dừng lại”. Trong khoảnh khắc cơn đau dữ dội, rồi giống như có một ngọn lửa sáng trắng bùng lên. Cơn đau giảm dần và hết hẳn, thay vào đó là những hình xoắn ốc nhiều màu sắc, và những vệt khói sáng rực.

Dụng cụ kim loại được rút ra một cách cẩn thận. Mảnh gỗ được để lại trong hai hoặc ba tuần, và cho tới khi nó được lấy ra tôi sẽ phải ở lại căn phòng nhỏ này, hầu như trong bóng tối. Không ai được gặp tôi ngoại trừ ba vị Lạt Ma, những người sẽ tiếp tục hướng dẫn tôi hàng ngày.

Khi mảnh gỗ còn chưa được lấy ra, tôi chỉ được ăn uống rất ít để vừa đủ duy trì sự sống. Phần mảnh gỗ nhô ra được băng chặt để nó không thể dịch chuyển, Đại Đức Mingyar quay lại tôi và nói: « Lobsang, từ nay con đã thật sự trở thành một cao đồ trong môn phái của chúng ta. Kể từ nay cho đến suốt đời con, con sẽ nhìn thấy rõ chân tướng của mọi người chứ không chỉ là cái bề ngoài của họ.»

Lần đầu tiên trong đời tôi, thật là một sự kiện lạ lùng khi thấy rằng cả ba vị Lạt-ma đều được bao phủ quanh mình bằng một vầng hào quang vàng chói như ánh lửa. Về sau tôi mới hiểu rằng, đó là vì ba vị đã có một đời sống tinh khiết và không phải ai cũng có được một hào quang tốt đẹp như thế. Trái lại, đa số người đời có hào quang với hình dáng và màu sắc khác hẳn. 

Khi tôi đã phát triển thần nhãn, tôi còn phát hiện được những rung động khác nữa, xuất phát từ trung tâm của hào quang con người. Kế đó, tôi có thể biết tình trạng sức khỏe của một người bằng cách nhìn xem màu sắc và hình dáng vầng hào quang của người ấy. Cũng vậy, bằng cách quan sát sự thay đổi màu sắc trong hào quang của một người tôi có thể biết rằng người ấy nói thật hay nói dối. 

Tuy vậy, thần nhãn không phải chỉ dùng để quan sát thân thể của con người. Tôi còn được trao cho một quả cầu thủy tinh dùng để quan sát bằng thần nhãn và đến bây giờ tôi vẫn còn cất giữ. Những quả cầu thủy tinh này không phải là những vật nhiệm mầu gì cả, mà chỉ là những khí cụ. Cũng giống như một kính hiển vi hay kính viễn vọng có thể cho phép ta nhìn thấy những sự vật mà mắt thường không nhìn thấy được, một quả cầu thủy tinh có tác dụng như một khí cụ tập trung để sử dụng thần nhãn, giúp người ta có thể xâm nhập vào phần tiềm thức của mọi sự vật và nhìn thấy những sự việc diễn biến trong quá khứ hay tương lai xuất hiện trong đó. 

Mỗi loại thủy tinh không phải đều thích hợp với tất cả mọi người. Có người đạt được kết quả tốt hơn với loại thủy tinh khoáng thạch, có người lại thích hợp với một bầu pha lê. Những người khác nữa dùng một bồn nước trong hoặc một cái đĩa tròn màu đen huyền. Nhưng dù sử dụng kỹ thuật nào thì cũng vẫn cùng một nguyên tắc. 

Trong tuần đầu tiên căn phòng được giữ hầu như tối hoàn toàn. Tuần tiếp theo có một tia sáng le lói, rồi ánh sáng tăng dần cho đến cuối tuần. Vào ngày thứ mười bảy phòng được chiếu sáng hoàn toàn, và ba vị Lạt Ma cùng đến để lấy miếng gỗ ra. Công việc cũng đơn giản. Đêm hôm trước, trán tôi đã được bôi kem thảo dược. Sáng hôm sau, ba vị đến và, cũng như lần trước, một vị giữ đầu tôi giữa hai đầu gối. Vị Lạt Ma giải phẫu dùng dụng cụ kẹp phần nhô ra của mẫu gỗ. Một cú giật mạnh bất thình lình và đó là tất cả. Mẩu gỗ đã được lấy ra. Đại Đức Mingyar đặt một miếng gạc thảo dược lên chỗ vết thương chỉ còn là một lỗ rất nhỏ, và cho tôi xem mẩu gỗ. Nó đã chuyển màu đen như gỗ mun trong khi ở trong đầu tôi. Vị Lạt Ma phẫu thuật quay về phía cái lò than và đặt lên đó mẫu gỗ cùng với một vài hương liệu khác nhau. Khói thơm tỏa lên tới trần nhà, như vậy giai đoạn khởi đầu đã hoàn tất.

Đêm đó tôi ngủ thiếp đi trong đầu quay cuồng những câu hỏi; Tzu có khác với những gì mà tôi đã biết hay không? Cha, mẹ, họ sẽ hiện ra như thế nào? Nhưng không có câu trả lời cho các câu hỏi như vậy.

Buổi sáng, các vị Lạt Ma lại đến và khám cho tôi một cách cẩn thận. Các ngài quyết định rằng tôi có thể rời khỏi phòng nhập thất và trở về với cuộc sống bình thường, nhưng sẽ phải dành phân nửa thời gian hằng ngày bên cạnh Đại đức Mingyar, để sư phụ giúp tôi tăng cường sự học đạo bằng một số phương pháp. Phân nửa thời gian còn lại sẽ dành cho những buổi học và lễ cầu nguyện, không phải vì mục đích giáo dục, mà là để cho tôi có một sự hiểu biết quân bình về mọi sự.

Ít lâu sau đó, khoa thôi miên cũng sẽ được sử dụng để dạy đạo cho tôi. Nhưng hiện giờ tôi chỉ nghĩ đến duy nhất vấn đề... ăn uống! Tôi đã phải ăn uống rất khắc khổ trong gần ba tuần, và nay tôi phải ăn bù lại. Tôi bèn hối hả từ biệt các vị Lạt-ma với ý nghĩ duy nhất ấy trong đầu tôi. Nhưng ra đến ngoài hành lang, tôi nhìn thấy một bóng người bao phủ trong một đám khói xanh với những vết lớn màu đỏ chói như lửa khắp thân mình. Tôi kêu lên một tiếng thất thanh và hối hả thối lui về phòng. 

Các vị Lạt-ma nhìn tôi một cách ngạc nhiên; tôi có vẻ gần như ngất xỉu vì sợ hãi và nói: «Có một người đang cháy như bó đuốc ở ngoài hành lang.»

Đại đức Mingyar chạy nhanh ra ngoài. Khi sư phụ trở lại phòng, người vừa mỉm cười vừa nói: « Lobsang, đó chỉ là một người lao công đang nóng giận. Hào quang của ông ta giống như một đám khói xanh, vì trình độ tâm linh còn thấp. Những vết lửa màu đỏ là những tư tưởng nóng giận. Con có thể đi ra một cách an toàn để tới phòng ăn, vì chắc con đã đói lắm! » 

Thật là một kinh nghiệm vô cùng lý thú khi tôi gặp lại những bạn học cũ mà trước kia tôi vẫn tưởng rằng tôi biết quá rõ, nhưng sự thật thì tôi chưa biết gì nhiều về họ cả! Nay tôi chỉ cần nhìn họ là đọc được những tư tưởng thầm kín, những tình thương chân thành, sự ganh tị hay sự thờ ơ lãnh đạm đối với tôi. 

Không phải chỉ nhìn những màu sắc trên hào quang của mỗi người mà biết được tất cả, người ta còn phải luyện tập giải đoán ý nghĩa của những màu sắc đó nữa. Để thực tập vấn đề này, sư phụ tôi và tôi cùng ngồi ở một chỗ vắng vẻ, từ đó chúng tôi có thể quan sát những người đi đường bước vào cổng đền. Đại đức Mingyar nói với tôi: 

– Lobsang, con hãy nhìn người kia đang đi tới. Con có nhìn thấy một đường chỉ màu đang rung động ở phía trên quả tim của y? Màu ấy và sự rung động ấy là triệu chứng của bệnh phổi! 

Sư phụ lại bình phẩm về một người lái buôn: 

– Con hãy nhìn những lằn ngang đang cử động và những đốm, vết đang chớp lập lòe trên hào quang của y... Người lái buôn này đang nghĩ rằng ông ta có thể lừa bịp những nhà sư ngu ngốc kia, và ông ta nhớ rằng đã có lần thành công như vậy rồi. Chỉ vì tiền bạc, người ta không lùi bước trước bất cứ hành vi ti tiện nào! 

Hoặc về một người khác nữa: 

– Lobsang, con hãy nhìn vị sư già kia. Đây là một vị sư chân tu, nhưng ông ta lại hiểu kinh điển một cách quá chật hẹp, sát nghĩa theo từng chữ từng câu một cách gò bó. Con có thấy chăng, màu vàng trên hào quang của ông ta đã phai nhạt? Đó là vì ông ta chưa đủ tiến hóa để có thể tự mình suy luận... 

Và như thế, chúng tôi tiếp tục quan sát để thực tập hằng ngày. Nhưng chính trong khi tiếp xúc với những người đau ốm, bệnh tật về thể xác cũng như tinh thần mà tôi mới thấy khả năng thần nhãn là vô cùng hữu ích. 

Một buổi chiều, sư phụ nói với tôi: 

– Sau này, ta sẽ dạy con nhắm mắt thần lại tùy ý muốn, vì thật là một điều khổ sở khi phải luôn luôn nhìn thấy trước mắt những cảnh tượng buồn thảm, bất toàn của người đời. Nhưng bây giờ, con hãy sử dụng năng khiếu đó thường xuyên, cũng như con sử dụng đôi mắt phàm. 

Những truyện thần thoại của xứ Tây Tạng quả quyết rằng trong quá khứ đã có một thời kỳ mà nhân loại, nam hay nữ, đều có thể sử dụng mắt thần. Đó là thời kỳ mà các đấng thần minh sống lẫn lộn với người trần gian, khi con người hãy còn chất phác, hồn nhiên và tâm hồn trong sạch. Nhưng về sau, loài người đã mở mang trí khôn, bèn sinh ra kiêu căng ngạo mạn và xúc phạm cả thánh thần. Để trừng phạt tội xúc phạm này, nhãn quang thần thông của họ bị thâu hồi. Kể từ đó, trải qua nhiều thế kỷ, chỉ có một số rất ít người sinh ra đã có năng khiếu thần nhãn. Những người nào có năng khiếu ấy một cách tự nhiên có thể tăng cường năng lực của họ lên gấp ngàn lần nhờ một phép tu luyện bí truyền, cũng như trường hợp của tôi. Lẽ tất nhiên, một năng lực đặc biệt như thế phải được sử dụng một cách cẩn mật và vô cùng thận trọng. 

Một ngày nọ, vị Sư trưởng cho gọi tôi vào gặp ngài và nói: 

– Này con, nay con đã có được một năng lực mà đa số mọi người không có. Con chỉ nên sử dụng nó để làm việc thiện, đừng bao giờ dùng nó vào những mục đích ích kỷ. Năng lực ấy được ban cho con để giúp đỡ kẻ khác chứ không phải để mưu lợi cho riêng mình. Nhờ thần nhãn, có nhiều điều sẽ được tiết lộ với con, nhưng dầu cho con biết được điều gì, con cũng không được tiết lộ cho người khác biết nếu điều đó có thể làm cho họ đau khổ hay làm thay đổi chiều hướng cuộc đời của họ. Vì mỗi người phải được tùy ý chọn lựa con đường của mình. Dầu cho con nói với họ điều gì, họ vẫn đi theo con đường của họ. Con hãy giúp đỡ những kẻ bệnh tật và những người đau khổ, nhưng con đừng nói gì có thể làm đổi hướng cuộc đời của một người. 



Vị Sư trưởng là một người có văn hóa rất cao, cũng là vị y sĩ thân tín của đức Đạt-lai Lạt-ma. Trước khi chia tay từ biệt, vị Sư trưởng cho tôi biết rằng không bao lâu tôi sẽ được gọi vào để yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma, vì ngài có ý muốn gặp tôi. Trong dịp đó, Đại đức Mingyar và tôi sẽ là khách của điện Potala trong vài tuần.


tải về 1.54 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương