Chuyển dich cơ CẤu lao đỘng nông thôn ciem-mispa viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ưƠNG


II. KINH NGHIỆM VÀ THỰC TẾ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI



tải về 2.73 Mb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu28.05.2018
Kích2.73 Mb.
#39100
1   2   3   4   5

II. KINH NGHIỆM VÀ THỰC TẾ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

2.1. Hàn Quốc


Quá trình phát triển các tập đoàn kinh tế lớn ở Hàn quốc luôn đi cùng với phát triển công nghiệp quy mô nhỏ theo hình thức vệ tinh ở nông thôn phục vụ cho các tập đoàn công nghiệp. Nhờ đi bằng cả hai chân như vậy, Hàn Quốc không chỉ giải được bài toán về kinh tế mà cả bài toán về công bằng xã hội. Nông thôn Hàn quốc đã có những thay đổi rất lớn cả về kinh tế và xã hội do ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế nhanh (GDP đạt ở mức bình quân trên 8%/năm), phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hướng vào xuất khẩu đã thu hút một lượng lớn lao động nông thôn ra thành thị, giải quyết cơ bản tình trạng thất nghiệp trong nông thôn. Chiến lược mà Hàn Quốc áp dụng là tập trung mọi nguồn lực cho phát triển công nghiệp và nhờ công nghiệp phát triển để tích luỹ cho nền kinh tế. Chính sự tích luỹ này đã làm tiền đề cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn ở Hàn Quốc.

2.1.1.Rút dần lao động trẻ ra khỏi nông nghiệp


Trong vòng 25 năm qua, tại Hàn Quốc lao động nông nghiệp giảm bình quân hàng năm 1,9%, dân số nông thôn giảm bình quân 2,7% và đã xảy ra xu hướng ngày càng nhiều người dân từ bỏ làm nông nghiệp nhưng vẫn sinh sống ở nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa đã thu hút khối lượng lớn lao động nông nghiệp đặc biệt là lao động trẻ. Năm 1990 lực lượng lao động nông nghiệp có 16,4% là thanh niên, đến năm 1995 chỉ còn 13%. Nguyên nhân chính là thanh niên tìm kiếm được cơ hội việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Lực lượng lao động nông nghiệp ngày một già đi (Xem Đồ thị 1.)

  1. Tuổi của lao động nông nghiệp Hàn Quốc



Nguồn: Nông nghiệp Hàn Quốc, Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc, 1999, trang 29
Hàn Quốc đã thực hiện chính sách nguồn nhân lực trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Từ đó rút dần lao động trẻ ra khỏi nông nghiệp. Chính sách này tập trung vào ba chương trình lớn đó là: Chương trình hỗ trợ trang trại gia đình; Chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp và Chương trình hỗ trợ giáo dục và đào tạo. Mục tiêu của các chính sách này là nhằm bảo vệ và hỗ trợ cho các nhà kinh doanh nông nghiệp có trình độ, kỹ năng canh tác, các công ty kinh doanh nông nghiệp, những người có khả năng thúc đẩy năng suất và quản lý việc canh tác một cách hiệu quả và ổn định.

2.1.2. Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn


Phong trào làng mới (Saemaul Undong) một phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm đã được triển khai rất thành công ở Hàn Quốc. Việc phát triển công nghiệp nông thôn dựa vào phát triển các nhà máy vệ tinh của các tập đoàn kinh tế. Sự nối kết này cũng chính là sự nối kết giữa nông thôn và thành thị theo nguyên tắc thành thị phát triển sẽ đem đến sự phồn thịnh cho nông thôn. Đầu tư của Chương trình được tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng nằm giúp cho hình thành các doanh nghiệp nhỏ đồng thời làm tăng năng suất nông nghiệp, làm ổn định đời sống của người dân làm nông nghiệp, không tạo ra các mâu thuẫn khi lao động được rút sang họat động phi nông nghiệp. Chương trình Làng mới sử dụng chiến lược tiếp cận từ trên xuống trong lập kế họach nhưng triển khai thực hiện lại từ dưới lên một cách dân chủ với sự tham gia đóng góp cả tài chính vào lao động của người dân địa phương. Nhà nước chỉ đầu tư một khối lượng nhỏ ban đầu bằng hiện vật như xi măng và sắt thép. Cũng chính Chương trình này đã làm cho công nghiệp xi măng và sắt thép của Hàn quốc phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ đầu.

2.1.3. Phát triển công nghiệp hóa nông thôn


Nông nghiệp truyền thống của Hàn Quốc là sản xuất quy mô nhỏ, lúa là cây trồng chính. Vì thế ngoài mùa vụ nông nghiệp, nông dân còn thực hiện các họat động tạo thu nhập phi nông nghiệp khác để có thêm thu nhập trang trải chi tiêu cho gia đình. Ngay những năm đầu của thập kỷ 60, Hàn Quốc đã có chính sách khuyến khích phát triển các họat động này để thu hút lao động nông nhàn trong đó chính sách tập trung vào khuyến khích các họat động chế biến nông sản và các tài nguyên thiên nhiên tại địa phương. Chính phủ cung cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật đối với các họat động tạo việc làm phi nông nghiệp và việc tổ chức sản xuất theo hình thức hợp tác.

2.1.4. Hỗ trợ xây dựng nhà máy ở nông thôn trong những năm 70s


Nhờ đẩy mạnh đầu tư phát triển, công nghiệp ở đô thị đã đạt mức toàn dụng về quy mô vào những năm 70s, vì vậy các nhà máy được khuyến khích chuyển về khu vực nông thôn để giải quyết việc làm và tạo thêm thu nhập phi nông nghiệp cho nông dân; chính phủ đã lên kế hoạch đưa ít nhất một nhà máy về một làng. Những nhà máy đưa về vùng nông thôn được nhận ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, được nhận hỗ trợ xây dựng nhà máy và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, thực hiện chính sách di dời nhà máy về nông thôn theo phương châm “mỗi làng một nhà máy” không đạt được như mục tiêu đề ra do chi phí quá cao về xây dựng cơ sở hạ tầng để đặt nhà máy tại từng làng. Hơn nữa do các nhà máy phân tán trên các vùng nông thôn làm nảy sinh chi phí cho công tác marketing cũng như tiếp cận các dịch vụ cần thiết khác về ngân hàng, thông tin cho sản xuất và thị trường, thu hút công nhân lành nghề...

2.1.5. Phát triển cụm công nghiệp nông thôn những năm 80s


Dự án phát triển cụm công nghiệp nông thôn đầu tiên được thực hiện vào năm 1984 và là dự án đầu tiên trong triển khai thực hiện Luật Phát triển nguồn thu nhập phi nông nghiệp. Nhờ rút ra bài học kinh nghiệm từ chính sách hỗ trợ đưa nhà máy về từng làng ở nông thôn của thập kỷ trước, dự án phát triển cụm công nghiệp ở nông thôn giúp giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, từng nhà máy trong cụm công nghiệp cũng giảm được chi phí họat động nhờ sử dụng các trang thiết bị dùng chung. Chính quyền địa phương thiết kế xây dựng các cụm công nghiệp theo quy định của luật pháp, sau khi xây dựng xong cơ sở hạ tầng tại cụm công nghiệp, chính quyền địa phương bán mặt bằng trong cụm công nghiệp cho nhà đầu tư đến xây dựng nhà máy. Các dự án công nghiệp về nông thôn được hưởng ưu đãi về miễn giảm thuế trong một số năm và nhận được hỗ trợ tài chính ưu đãi từ Chính phủ. Các dự án này đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và nhất là góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn Hàn Quốc.

  1. Kết quả thực hiện phát triển cụm công nghiệp đến 1997 của Hàn Quốc

Chỉ tiêu




Số cụm công nghiệp được thành lập (cụm)

288

Số diện tích đất bán cho xây dựng nhà máy (000 pyong)

9600

Số dự án đang họat động (dự án)

2500

Tổng số công nhân đang làm việc (người)

100000

Trong đó lao động là người địa phương

65000

Nguồn: Nông nghiệp Hàn Quốc, Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc, 1999, trang 195.

2.2. Trung Quốc


Trung Quốc là là một nước lớn về nông nghiệp, dân số nông thôn chiếm đến 80%, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là mẫu chốt nhằm thực hiện hiện đại hoá Trung Quốc. Thành tựu nổi bật trong đổi mới ở Trung Quốc là xuất phát từ đổi mới trong nông nghiệp và cơ cấu lại kinh tế nông thôn. Hai đặc trưng quan trọng nhất trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc là Phát triển công nghiệp hương trấn và sản nghiệp hóa nông nghiệp.

2.2.1. Phát triển các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn:


Trong những năm đầu của đổi mới, cải cách trong nông nghiệp đi kèm với phát triển các họat động phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp hương trấn ở Trung quốc. Sở dĩ công nghiệp Hưng trấn của Trung quốc phát triển mạnh do trong thời kỳ đầu hội đủ các yêu cầu về phát triển và đặc biệt là có thị trường tiêu thụ rộng lớn, tuy nhiên, về sau công nghiệp Hưng trấn gặp phải nhiều khó khăn nhất là về thị trường tiêu thụ do yêu cầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường tăng cao trong khi điều kiện về đổi mới công nghệ của công nghiệp nông thôn không đáp ứng kịp. Năm 1993 có khoảng 109,5 triệu lao động được thu hút vào làm việc tại khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn, tăng 6,24 triệu hay 6% so với năm 1992, (Báo cáo Kinh tế hàng năm của Trung Quốc, Green Report, 1994.

  1. Lao động được thu hút vào lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn Trung Quốc

ĐVT: triệu người




Công nghiệp

Xây dựng

Vận tải

Thương mại

Tổng cộng

1978

19,800

2,690

1,185

1,642

25,317

1984

36,561

6,835

1,293

4,553

49,242

1985

41,367

7,900

1,142

16,858

67,267

1991

58,136

13,843

7,323

14,358

93,660

1992

63,364

15,407

7,969

16,523

103,260

1993

66,500

Na

43,000

na

109,500

Nguồn: Báo cáo Green Report năm 1994, trang 17
Nhờ phát triển mạnh mẽ các hoạt động phi nông nghiệp, lao động nông thôn có nhiều cơ hội tiếp cận việc làm, qua đó thay đổi nhanh chóng cơ cấu lao động ở nông thôn, cụ thể

  1. Thay đổi cơ cấu GDP và việc làm ở Trung Quốc



Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc năm 2001, 2003

2.2.2 Sản nghiệp hóa nông nghiệp:


Trong bối cảnh chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, bản thân nông nghiệp của Trung Quốc cũng phải tự đổi mới để thích nghi để giải quyết mâu thuẫn vốn có giữa sản xuất nhỏ lẻ của nông dân với những thay đổi nhanh chóng và khó dự báo trước của thị trường. Qua một số thử nghiệm và chọn lọc, Trung Quốc đưa ra chính sách về “sản nghiệp hóa nông nghiệp” nhằm tìm lời giải cho phát triển nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc. Sản nghiệp hóa nông nghiệp ở Trung Quốc được hiểu là việc tổ chức kết hợp giữa nông hộ với công ty hoặc nông hộ kết hợp với tập thể, nông hộ cùng với các tổ chức kinh tế khác tiến hành liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, kết hợp giữa nông nghiệp-công nghiệp và thương mại, kết nối các khâu thành một dây chuyền. Sản nghiệp hóa nông nghiệp ở Trung Quốc bao gồm 5 đặc trưng cơ bản sau:

(i) Nhất thể hóa ngành nghề, liên kết hữu cơ giữa các ngành nông nghiệp trước sản xuất, trong sản xuất và sau sản xuất; thực hiện nhất thể hóa thương mại, gia công và chế biến nông sản hàng hóa, liên kết nhiêu nông hộ sản xuất nhỏ với thị trường lớn, liên kết giữa công nghiệp tiên tiến và nông nghiệp truyền thống, liên kết thành thị với nông thôn, thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất, dịch vụ hóa xã hội, kết nối các khâu sản xuất-gia công-vận chuyển-tiêu thụ nông sản hàng hóa thành một dây chuyền cùng thúc đẩy và phối hợp phát triển;

(ii) Chuyên môn hóa các khâu trong dây chuyền từ sản xuất tới tiêu thụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả tổng thể của sản nghiệp hóa;

(iii) Thương phẩm hóa, hàng hóa làm ra nhằm phục vụ trao đổi trên thị trường, lấy thị trường làm hướng đích cuối cùng;

(iv) Quản trị hóa xí nghiệp, dùng biện pháp quản lý xí nghiệp theo kiểu công nghiệp để quản lý nông nghiệp từ đó làm cho lối sản xuất phân tán, tiểu nông của các hộ nông dân dần đi vào tiêu chuẩn hóa, tổ chức tiêu thụ nông sản một cách khoa học để tối đa hóa lợi nhuận cho nông dân;

(v) Xã hội hóa dịch vụ, đi vào thúc đẩy kết hợp chặt chẽ các yếu tố sản xuất, cung cấp dịch vụ toàn diện cho các khâu trong dây chuyền sản nghiệp hóa.



Trong hai thập kỷ qua, chính sách về sản nghiệp hóa nông nghiệp đã mang lại thành tựu quan trọng. Từ năm 1997 đến 2001 số tổ chức kinh doanh sản nghiệp hóa nông nghiệp đã tăng từ 11834 lên hơn 66000 với các loại hình tổ chức này ngày càng đa dạng. Đến năm 2002 số các tổ chức sản nghiệp hóa đã lên tới 94000, trong đó phân theo ngành gồm: trồng trọt 44,8%, chăn nuôi 24,1%, thủy sản 8,2%, lâm nghiệp 10,4% và các loại hình khác 10,5%. Về hình thức liên kết, phương thức hợp đồng chiếm 51,9%, hợp tác 12,6%, cổ phần 13,3% và các phương thức khác khoảng 20%. Các tổ chức sản nghiệp hóa nông nghiệp đã thu hút được 7,2 triệu hộ nông dân tham gia (chiếm 30,5% tổng số hộ nông dân toàn quốc).

2.3. Thái Lan


Về cơ bản Thái Lan vẫn là nước nông nghiệp, tuy đóng góp của nông nghiệp trong GDP dưới 10% nhưng nông nghiệp vẫn là ngành thu hút và tạo việc làm cho 44% lực lượng lao động toàn xã hội và khu vực nông thôn còn là địa bàn sinh sống của gần 70% dân cư. Công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cơ cấu lớn trong GDP của đất nước; đây là kết quả của chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện bắt đầu từ những năm đầu của thập kỷ 60. Điều đáng chú ý là ban đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế chủ trương hướng vào thay thế nhập khẩu, nhưng nhanh chóng được thay bằng hướng về xuất khẩu trong những năm 1970.


  1. Dân số, lao động của Thái Lan 2000-2004




2000

2001

2002

2003

2004

Dân số (tr.người)

62,4

62,9

63,4

63,9

64,4

% dân số nông thôn

78.4

71.4

68.4

68.0

69.0

Lực lượng lao động (tr. người)

33,1

34,0

34,5

35,4

36,2

% thất nghiệp người trên 15 tuổi

3.6

2.4

1.8

1.8

1.5

Cơ cấu phân bổ lao động (%)
















Nông nghiệp

47.4*

45.1

44.6

43.4

44.0

Công nghiệp

18.6*

18.9

19.3

20,7

21.2

Dịch vụ

34.0*

35.2

36.1

38.0

38.9

Nguồn: Niên giám thống kê ASEAN, 2004, 2005

* Số liệu năm 1999

2.3.1. Đa dạng hóa họat động nông nghiệp gia tăng việc làm thông qua các họat động thương mại


Mặc dầu nhận được sự đầu tư của cả nhà nước và tư nhân, nhưng do lợi nhuận thấp, rủi ro cao, nông nghiệp và nông thôn Thái Lan đang phát triển theo hướng đa dạng hóa. Trong chính sản xuất nông nghiệp, việc đa dạng hóa được thực hiện bắt đầu bằng việc trồng nhiều loại cây thay vì chỉ trồng lúa và cao su như trước đây; bước tiếp theo là đa dạng hóa trong nội bộ ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản sang hệ thống canh tác đa dạng, nhờ đó danh sách hàng nông sản xuất xuất của Thái Lan được mở rộng từ hai hàng hóa truyền thống là lúa và cao su sang bột sắn, gà đông lạnh, tôm tươi đông lạnh .v.v.

Từ năm 2000 đến nay, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đều và tỷ trọng lao động phi nông nghiệp tăng. Phần lớn các công việc phi nông nghiệp ví dụ như bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ôtô, xe máy, đồ dùng gia đình và cá nhân (chiếm 11,9%), chế tạo (9,2%). Khu vực nông thôn có tới 73% người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, 27% phi nông nghiệp. Tuy nhiên chuyển dịch cơ cấu lao động ở Thái lan không đồng đều giữa các vùng. Khu vực Băng Cốc và vùng Trung tâm, phần lớn lao động làm phi nông nghiệp, 26,5% làm việc trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, và những người làm việc phục vụ cho bán buôn và bán lẻ là 14,9%. Trong khi đó, phần lớn lao động ở vùng phía bắc, đông bắc và phía nam của đất nước tham gia trong khu vực nông nghiệp. Ở khu vực phía bắc và phía nam, sau sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ lao động tham gia vào bán buôn và bán lẻ tương ứng là 10,7% và 14,2%, tỷ lệ lao động công nghiệp tương ứng 4,9% và 6,6%. Vùng đông bắc, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp còn thấp hơn, chỉ có 6,2% tham gia thương mại bán buôn bán lẻ và 3,2% tham gia vào lĩnh vực giáo dục.


2.3.2. Gia tăng các nhân tố ảnh hưởng tích cực tới việc làm


Theo một số phân tích về Thái lan, có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội việc làm phi nông nghiệp là:

Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tích cực gồm: (i) nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp tăng; (ii) chi tiêu của chính phủ cho phát triển nông thôn và cơ sở hạ tầng trên toàn đất nước; (iii) các chương trình xúc tiến phát triển doanh nghiệp phi nông nghiệp, đặc biệt đối với họat động sản xuất dệt lụa và vải bông, hàng thủ công mỹ nghệ; (iv) có nhiều điểm thu hút khách du lịch vào Thái Lan, công tác xúc tiến du lịch khá hiệu quả nhờ đó giúp tăng việc làm phi nông nghiệp.



Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, nhóm các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn gồm: (i) ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế, thiên tai làm cho nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp giảm sút; (ii) người lao động nông thôn thiếu các kỹ năng cần thiết cho họat động phi nông nghiệp, (iii) thiếu vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp phi nông nghiệp do tỉ lệ tiết kiệm ở khu vực nông thôn quá nhỏ.

2.4. Mông Cổ


Là nước có nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, cơ cấu kinh tế của Mông Cổ có sự thay đổi để đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, kéo theo đó, cơ cấu lao động và sử dụng lao động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân cũng biến đổi theo.

  1. Cơ cấu dân số nông thôn và cơ cấu GDP theo ngành




1990

1995

2000

% dân số nông thôn trong tổng dân số cả nước

43,0

48,1

42,8

% nông nghiệp trong GDP

15,2

36,7

29,1

% công nghiệp trong GDP

40,9

27,6

21,9

% dịch vụ trong GDP

43,9

35,7

49,0

Nguồn: Elizabeth Morris và Bruun, 2005.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ 1990-2000, cơ cấu dân số nông thôn Mông Cổ vẫn duy trì ở mức cao, thậm chí năm 1995, tỷ trọng dân số nông thôn lại tăng thêm 5% so với năm 1990. Kết quả này là hậu quả của chính sách tư nhân hóa ngành chăn nuôi và sự trì trệ của khu vực đô thị. Cơ cấu nông nghiệp trong GDP cũng có sự thay đổi, tăng từ 15,2% năm 1990 lên 36,7% năm 1995 và giảm còn 29,1% vào năm 2000. Đến năm 2002, nông nghiệp đóng góp 21% GDP và khu vực nông thôn vẫn là địa bàn sinh sống của 43% dân cư. Ngành chăn nuôi có vai trò lớn, đóng góp 79% giá trị sản lượng nông nghiệp và 31% tổng việc làm toàn xã hội. Năm 2002 trong số gần 250 ngàn hộ gia đình chăn nuôi gia súc thì khoảng 72,3% có cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào chăn nuôi.

2.4.1. Thất nghiệp tăng cao do cơ cấu lại nền kinh tế


Trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo cơ chế thị trường, rất nhiều người mất việc làm, một số bị đẩy ra khỏi lực lượng lao động, chuyển về làm việc trong khu vực chăn nuôi hoặc làm việc trong khu vực phi chính quy. Trong quá trình chuyển đổi này, lao động lớn tuổi gặp nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới, trong khi tỷ lệ lao động là trẻ em lại tăng lên do phát triển chăn nuôi. Rất nhiều phụ nữ mặc dù được tính là người có việc làm nhưng thực chất chỉ tham gia vào việc nội trợ ở nhà, nhiều người trong số này bị sa thải từ các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, hoặc bị buộc nghỉ hưu sớm.

Theo số liệu tổng điều tra năm 2000, 51% dân số Mông Cổ từ 15 tuổi trở lên được tính là có việc làm, tỷ lệ này ở nông thôn là 66%, thành thị 41%. Riêng khu vực nông thôn, tỷ lệ nam có việc làm là 72% và nữ là 60%. Khu vực sản xuất nông nghiệp thu hút 47% tổng lực lượng lao động cả nước, tính theo khu vực nông thôn-thành thị thì khu vực nông nghiệp thu hút 82% lao động nông thôn và 8% lao động thành thị. Chăn nuôi và chế biến nông sản là hai ngành nghề chính trong nông thôn.


2.4.2.Tạo việc làm nhờ phát triển chăn nuôi và các ngành phụ trợ


Do nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Mông Cổ nên chính sách việc làm đối với khu vực nông thôn trở thành một vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn. Chính phủ đã đưa ra một số khung chính sách và chương trình quốc gia về vấn đề này như chương trình dịch vụ chăn nuôi, thú y, cấp nước sạch, phòng ngừa thiên tai, cùng với các chương trình khuyến khích phát triển ngành sản phẩm như sữa, len và sản phẩm từ len. Chương trình hỗ trợ chăn nuôi gia súc được thực hiện với mục tiêu chính là hỗ trợ những người chăn nuôi cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện sống của họ thông qua phát triển hệ thống dịch vụ, tăng cường năng lực và khả năng sản xuất phù hợp với phát triển vùng và bảo vệ môi trường.

2.4.3.Chương trình xúc tiến việc làm quốc gia.


Chương trình này được thiết kế nhằm lồng ghép các chính sách việc làm vào chiến lược quốc gia, tăng cường sự tham gia chủ động của các cơ quan chính phủ, cộng đồng, tăng khả năng tiếp cận thông tin về việc làm. Các biện pháp cụ thể là cải thiện các dịch vụ tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển hợp tác xã, phát triển doanh nghiệp gia đình, lồng ghép chính sách tạo việc làm với bảo vệ môi trường và phân bố lại dân cư nông thôn, tạo việc làm tại địa phương thông qua phát triển du lịch và cơ sở hạ tầng. Chính sách thị trường lao động nhằm vào khuyến khích việc làm cho thanh niên và người nghèo, tăng cường phát triển kỹ năng và đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu thị trường, cải thiện về thông tin và nâng cao nhận thức về khuyến khích tạo việc làm.

2.5. Quản lý di cư ở Hàn Quốc


Cùng với quá trình công nghiệp hóa là sự phát triển không đều, kéo theo sự chênh lệch ngày càng lớn giữa nông thôn và thành thị. Ngay trong những năm 60s của thế kỷ XX, di dân ra khu vực đô thị đã gây ra nhiều vấn đề tiêu cực, thậm chí cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc. Hàn Quốc đã cố gắng tìm cách ngăn luồng di cư này không phải bằng các biện pháp hành chính mà bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn để người dân tiếp cận tốt hơn với cơ hội việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa phương mình, phát triển nông thôn tổng hợp để giảm khoảng cách chênh lệch nông thôn-thành thị. Có ba hướng tạo việc làm phi nông nghiệp mà Hàn Quốc đã sử dụng đó là:

(i) Phát triển các hoạt động phi nông nghiệp truyền thống ở nông thôn trong đó đặc biệt chú ý đến chế biến nông sản và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tại chỗ kết hợp với phát triển làng xã thông qua phong trào Làng mới, phát triển các thị trấn thị tứ, cơ sở hạ tầng nông thôn;;

(ii) đưa nhà máy về nông thôn, xây dựng các cụm công nghiệp nông thôn;

(iii) khuyến khích phát triển các họat động kinh doanh du lịch dựa trên khai thác lợi thế về sản xuất nông nghiệp và văn hóa xã hội của cộng đồng nông thôn;

(iv) phát triển cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện sinh sống và làm việc cho lao động di cư tại nơi đến;

(v) nhập khẩu lao động để giải quyết vấn đề thiếu hụt sức lao động trong phát triển của nền kinh tế.


2.6. Quản lý di cư ở Malaysia


Cùng với quá trình công nghiệp hóa, lao động nông nghiệp ở Malaysia đã giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1957 xuống chỉ còn 12% năm 2005. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra nhanh chóng như vậy là nhờ có sự tham gia của di dân từ nông thôn ra thành thị trong đó phần lớn là lao động trẻ tìm kiếm cơ hội việc làm ở đô thị, khu công nghiệp.

Chính sách của Malaysia đối với quản lý luồng di cư có thể khác nhau ở các giai đoạn nhưng tựu chung lại là giảm khoảng cách giữa nông thôn và thành thị bằng cách phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn, cung cấp các điều kiện tốt hơn để người dân nông thôn nhất là người thuộc nhóm mục tiêu (người Mã Lai) được tiếp cận tốt hơn với giáo dục và đào tạo để tham gia thị trường lao động.



Các chính sách trực tiếp và gián tiếp đối với quản lý lao động di cư bao gồm: (i) Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp; chuyển từ trồng cao su là chính sang phát triển cọ dầu, cây lương thực và một số cây ngắn ngày khác. Tăng cường chế biến công nghiệp đảm bảo liên kết giữa nhà máy chế biến và người trồng nguyên liệu thông qua cơ chế lợi ích, phát triển bền vững gắn với công nghệ sinh học thân thiện với môi trường; (ii) Đẩy mạnh thực hiện chương trình khai hoang để người dân nông thôn có đủ điều kiện cần thiết ổn định cuộc sống, không rơi vào bần cùng hóa; (iii) Phát triển các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn, đặc biệt là các hoạt động truyền thống, có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân; (iv) Đầu tư cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ưu đãi về giáo dục dành đặc biệt cho nhóm người Mã Lai để họ có điều kiện gia nhập thị trường lao động, các trường học và trường dạy nghề đều nhận được sự hỗ trợ của nhà nước, học sinh nghèo được miễn học phí và nhận được học bổng của Chính phủ; (v) Nhập khẩu lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước (Biểu 5.)

  1. Lao động nhập cư vào Malaysia làm việc

(1000 người)




1990

1995

2001

2003

2004

Nông nghiệp

115,8

173

284,1

185,9

335,2

Khai thác mỏ

1,4

1,8

2,1

-

-

Xây dựng

25,1

64,8

99

265,9

269,1

Công nghiêp chế tạo

23,7

115,7

213

355,4

414,3

Dịch vụ

76

124

265,5

319,6

340,9

Tổng cộng

242

479,3

863,8

1126,8

1359,5

Nguồn: Pazim Fadzim Othman. Đại học tổng hợp Mã Lai, 2005.

2.7. Quản lý di cư ở Trung Quốc


Trong thời gian dài, Trung Quốc duy trì chính sách kiểm soát di chuyển dân cư thông qua hệ thống đăng ký hộ khẩu, giấy phép làm việc tạm thời, hệ thống tem phiếu mua lương thực cùng với các biện pháp khác để hạn chế di cư lâu dài, giới hạn tạm thời chuyển dịch di chuyển nông thôn-thành thị. Số người di cư tạm thời (rời khỏi nơi cư trú ít nhất 1 lần trong 6 tháng) ở Trung Quốc khoảng 50-120 triệu người. Một khảo sát di cư tại Thượng Hải năm 1993 cho thấy những người di cư chiếm 20% dân số của thành phố.

Luồng di cư với quy mô lớn tại Trung Quốc đã trở thành vấn đề xã hội, bên cạnh các khó khăn về kinh tế còn có hai vấn đề quan trọng khác là (i) tăng trưởng nhanh của việc làm phi nông nghiệp dẫn đến tăng đột biến về chi phí cơ hội dẫn đến tăng chi phí cho sản xuất nông nghiệp, (ii) thay đổi cơ cấu của nền kinh tế đặc biệt cơ cấu về sản xuất và phân phối giữa kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị. Tuy nhiên, lao động di cư cũng mang lại nhiều tác động tích cực tới kinh tế nông thôn, cụ thể trên các mặt về: (i) khuyến khích phát triển kinh tế nông thôn do lực lượng lao động được huy động tham gia vào khu vực sản xuất và dịch vụ; (ii) đẩy mạnh hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp nhờ tạo điều kiện thuận lợi cho tập trung đất cho sản xuất quy mô lớn; (iii) đẩy mạnh hiện đại hóa khu vực nông thôn; (iv) kích thích việc hình thành các thành phố, thị trấn nhỏ qua đó đẩy mạnh quá trình đô thị hóa; (v) đa dạng các nguồn thu nhập của người dân nông thôn, giúp cải thiện đời sống của họ.

Cân đối giữa lực lượng lao động nông thôn đông đảo và nguồn lực hạn chế, có thể rút ra kết luận khu vực nông thôn Trung Quốc không thể giải quyết hết việc làm cho người lao động vì vậy khoảng 100-150 triệu lao động nông thôn buộc phải di chuyển. Thực tế di cư của lao động nông thôn ra thành thị đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Các cuộc cải cách đã dẫn đến những thay đổi to lớn về phát triển kinh tế nhưng đồng thời cũng tạo ra những bất bình đẳng mới, phân hóa xảy ra ngày càng sâu sắc đặc biệt sau quá trình triệt để hóa cải cách thị trường vào năm 1997-1999 Ngoài nguyên nhân bất bình đẳng về thu nhập thuần túy, còn có nguyên nhân về sự khác biệt trong tiếp cận dịch vụ an sinh xã hội, trợ cấp xã hội, nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe trở nên ngày càng gay gắt khi hình thái kinh tế thị trường được thay thế cho hệ thống sở hữu tập thể cũ ở nông thôn.

Chính quyền Trung Quốc đã nhận biết được những vấn đề nảy sinh của việc di dân và xác định những năm cuối của thập niên 90s là thời điểm chín muồi để thực hiện những thay đổi có tính quyết định, bao gồm đánh giá lại vai trò của việc di cư. Lao động di cư được xác định có vai trò chính trong phát triển kinh tế của đất nước, nhờ đó một số khởi xướng về chính sách đã được thực hiện nhằm mục đích khơi thông thị trường lao động trong khắp Trung Quốc, đảm bảo cho công nhân nhập cư được đối xử công bằng hơn, nhằm giải quyết những xung đột giữa người nhập cư từ nông thôn và những người sử dụng lao động ở nơi đến. Những cải cách quan trọng nhất đối với vấn đề di cư nhằm hướng tơi tự do hóa thị trường lao động trên khắp Trung Quốc gồm các nội dung về cải cách hệ thống quản lý hộ khẩu, xây dựng thị trường lao động thống nhất, chính sách về đảm bảo đối xử công bằng với lao động di cư.

Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc đang phải đối đầu với tình trạng khan hiếm lao động trên diện rộng, đặc biệt tại các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tây, Triết Giang và Hồ Nam. Tại châu thổ Châu Giang, nơi thu hút chủ yếu vốn FDI của tỉnh Quảng Đông, dòng người nông dân di cư đông đảo thường thấy trong nhiều năm trước đây nay vắng bóng nhiều. Con số thống kê cho thấy ngành công nghiệp chế biến và chế tạo tại Châu Giang hiện thiếu 2 triệu người làm việc. Nguyên nhân của tình trạng thiếu lao động này là do thái độ đối xử không công bằng, không tôn trọng người lao động từ nông thôn ra thành phố. Những “công nhân nông dân”, hay còn gọi là những “công nhân lang thang” là những người lao động nghèo nhất, những người phải kiếm sống bằng những công việc nặng nhọc, khó khăn, làm việc nhiều giờ, nhưng chỉ được nhận những đồng lương rẻ mạt. Họ thường phải chờ đợi rất lâu sau thời hạn trả lương mới nhận được đồng lương của mình, trong khi đó, mọi thứ dùng trong cuộc sống họ vẫn phải chi tiêu hàng ngày.

2.8. Một số bài học rút ra

2.8.1. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và tạo việc làm


- Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, vì vậy cần phải đáp ứng các vấn đề mới phát sinh của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong điều kiện đất chật, người đông quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đồng nghĩa với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng của đất nông nghiệp.

- Một bộ phận nông dân không còn đất hoặc còn rất ít đất để sản xuất nông nghiệp, trong khi đó lại chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng về chuyển đổi nghề nghiệp nên dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp và vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đặc biệt đối với những lao động đã lớn tuổi. Vì vậy, ngoài chính sách đền bù khi thu hồi đất, cần có các giải pháp hỗ trợ về đào tạo nghề mới, chuyển đổi nghề nghiệp và cần phải làm trước khi thu hồi đất nông nghiệp cho mục đích công nghiệp, xây dựng mở mang đô thị.

- Chuyển dịch cơ cấu lao động phải đảm bảo phù hợp với cơ cấu kinh tế không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng nguồn nhân lực. Trong nông thôn, khi cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển hướng sang các loại cây trồng, con nuôi có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường, sản xuất được tổ chức lại theo quy mô thích hợp cùng với việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới nhất là ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ sạch đảm bảo phát triển bền vững, bên cạnh đó là các họat động dịch vụ mới nảy sinh theo một xâu chuỗi của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng liên kết giữa các khâu, các tác nhân cùng tham gia vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Khi đó, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn phải đáp ứng kịp các nhu cầu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cả về số lượng, chất lượng lao động bao gồm cả kỹ năng lao động và tác phong làm việc công nghiệp, cơ cấu theo ngành nghề, cơ cấu phân bổ theo vùng, miền. Công tác đào tạo, định hướng nghề nghiệp phải được quan tâm đặc biệt trong chính sách phát triển nguồn nhân lực.

- Chính sách phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào đẩy nhanh khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cần đặc biệt chú ý đến phát triển khoa học công nghệ, có chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể và trong từng thời kỳ cụ thể, có xác định bước đi và chiến lược để đạt mục tiêu đề ra.

- Chính sách phát triển công nghiệp cần chú ý giữa bố trí công nghiệp tập trung hay phân tán, mức độ tập trung hay phân tán của bố trí quy hoạch công nghiệp ảnh hưởng mạnh tới chuyển dịch cơ cấu lao động và dòng dân di cư. Kinh nghiệm của Hàn quốc cho thấy, việc bố trí các doanh nghiệp về nông thôn ngoài tác động tạo việc làm cho lao động nông thôn nhưng cũng có thể làm cho giá thành sản xuất của các doanh nghiệp này tăng cao nếu không đi đồng bộ với cải thiện cơ sở hạ tầng và các dịch vụ đi kèm khác và như thế có thể dẫn đến sự phát triển thiếu bền vững của công nghiệp hóa nông thôn.

- Chính sách phát triển sản nghiệp hóa nông nghiệp Trung Quốc là một minh chứng về phát huy tính tích cực trong kết nối thành thị-nông thôn, công nghiệp-nông nghiệp, sản xuất-thị trường. Trong đó cần có các “đầu tàu” kết nối các khâu của quá trình sản xuất, kết nối những người nông dân nhỏ liên kết với các tổ chức kinh tế thông qua liên kết sản xuất- tiêu thụ, kết hợp sản xuất-chế biến-tiêu thụ, kết nối các khâu thành một dây chuyền đảm bảo gắn kết lợi ích, quyền lợi, trách nhiệm của các tác nhân tham gia.

- Kinh nghiệm của Mông Cổ về xúc tiến cơ hội việc làm trong khu vực nông thôn cho thấy, chiến lược việc làm nông thôn không nên chỉ giới hạn vào một ngành (chăn thả gia súc). Thực tế đã chứng minh nhiều hộ gia đình đã tìm được việc làm mới tại các trung tâm kinh tế, trong đó nhiều hộ gia đình không còn đàn gia súc nữa nhưng đã tìm được việc làm mới, có các họat động tạo thu nhập và việc làm trong khu vực phi chính quy. Trong khu vực nông thôn có tỷ lệ lớn dân số sống dưới mức nghèo khổ, thì điều quan trọng là cần phải phát triển địa phương đa dạng, tạo việc làm và thu nhập cả từ phía hỗ trợ của chính phủ và sự sáng tạo của địa phương.

- Về cách tiếp cận trong phát triển kinh tế địa phương, trước tiên cần nhấn mạnh vào xác định cơ hội rồi sau đó mới đưa ra sự giúp đỡ. Chiến lược việc làm cần phải lồng ghép nhiều chương trình khác nhau. Đào tạo gắn với việc làm; lập nghiệp và mở rộng kinh doanh đi kèm với với các dịch vụ hỗ trợ.

- Thực tế ở các nước cho thấy việc khuyến khích tạo việc làm trong khu vực nông thôn được thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án của Chính phủ và các nhà tài trợ. Để nâng cao hiệu quả thì những họat động này nên được kết hợp với nhau từ trên xuống dưới, từ cộng đồng nông thôn tới thành phố. Những người hưởng lợi cần được nhận thức về cách tiếp cận và công cụ về dịch vụ việc làm, khuyến nông, đào tạo nghề, tài chính vi mô, phát triển cơ sở hạ tầng và bảo hiểm xã hội. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn hỗ trợ, cần có sự điều phối tốt giữa các cơ quan của chính phủ và các chương trình phát triển,giảm chồng chéo và phổ biến tốt các kinh nghiệm điển hình. Một thách thức là tìm ra được một cơ chế điều phối để giảm được các gánh nặng về chi phí giao dịch hội họp, báo cáo để những cố gắng được chuyển từ phòng họp tới người dân nông thôn đang tìm kiếm việc làm tốt hơn để cải thiện cuộc sống của họ.

- Khi nông nghiệp còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thì việc đặt vấn đề tăng thu nhập và làm giàu của nông dân và cư dân nông thôn cần đặc biệt chú trọng trong chiến lược công nghiệp hóa đất nước. Tiềm năng sản xuất của nông dân chỉ được phát triển và đóng góp vào lợi ích của quốc gia khi có được môi trường thuận lợi phù hợp với lợi ích của nông dân, khi họ được tiếp cận một cách công bằng tới đất đai và các dịch vụ cần thiết để sử dụng đất đai một cách hữu ích. Những hỗ trợ ban đầu trong quá trình công nghiệp hóa có thể lại tập trung vào để nâng cao năng suất nông nghiệp, chỉ khi nâng cao được năng suất trong nông nghiệp, hộ gia đình ở nông thôn, đặc biệt là hộ nông dân mới có thể tăng được thu nhập và ví thế sẽ tăng được nhu cầu về hàng hóa phi nông nghiệp.

- Tương tự, việc tăng các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn như chế biến nông sản, vận tải, dịch vụ cung cấp đầu vào và các sản phẩm chế tạo khác sẽ tăng sức mua ở khu vực nông thôn, công nghiệp phát triển sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho khu vực nông thôn. Quá trình công nghiếp hóa cùng với tăng năng suất lao động cho phép người lao động giải thoát khỏi nông nghiệp nhưng đồng thời vẫn cung cấp đủ thực phẩm cần thiết với giá cả phù hợp đồng thời giảm tối thiểu hàng nông sản phải nhập khẩu.

- Cũng theo kinh nghiệm của các nước các nội dung chính của chiến lược phát triển nông thôn nên bao gồm: (i) bãi bỏ các chính sách kinh tế và các đầu tư công cộng có ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp, (ii) đẩy mạnh thực hiện chiến lược phát triển nông thôn tổng hợp để tạo sự tiếp cận công bằng về đất đai, khuyến khích người sản xuất nông nghiệp, (iii) ban hành các chính sách, chương trình nhằm giúp đỡ những người bị thiệt thòi trong khu vực nông thôn có được lợi ích thỏa đáng thông qua tiếp cận và sử dụng các nguồn lực của đất nước, (iv) thực thi luật về bảo tồn để bảo vệ nguồn lực đất đai, nguồn nước, nguồn lợi biển để đảm bảo sử dụng bền vững lâu dài (v) cải thiện các dịch vụ hỗ trợ và tăng cường cơ sở hạ tầng để khuyến khích sản xuất ở nông thôn, mở rộng thị trường đặc biệt đối với dịch vụ nghiên cứu và triển khai, hệ thống tưới, tiêu nước, cũng như cơ sở hạ tầng về vận tải và viễn thông; (vi) thực hiện chương trình kiểm soát kế hoạch hóa gia đình để giảm căng thẳng về áp lực đất đai và các nguồn lực có định khác, (vii) tăng cường các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, dịch vụ dinh dưỡng để nâng cao chất lượng lực lượng lao động, (viii) nâng cao hiệu quả họat động của các cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ hỗ trợ phát triển nông thôn, (ix) sự tham gia của công chúng hay đại diện vào quá trình hoạch định chính sách của chính phủ.



2.8.2. Về di chuyển lao động và quản lý lao động di cư


- Kinh nghiệm các nước cho thấy họ đều thừa nhận vai trò của di dân đối với phát triển kinh tế của đất nước và tôn trọng quyền tự do di chuyển của người lao động. Vai trò quản lý của cơ quan nhà nước đối với di dân được xác định phù hợp nhằm hướng các dòng di dân phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Một số nước đã chuyển từ các nỗ lực ngăn chặn dòng di dân sang lồng ghép chính sách di dân với phát triển vùng.

- Kinh nghiệm về di dân theo hướng đô thị của Trung Quốc là bài học về nhược điểm cho hoạch định chính sách hạn chế di dân nhưng không kết hợp được với chiến lược phát triển kinh tế và cơ hội việc làm. Trung quốc dần dần đã thừa nhận lao động di cư vào đô thị là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế nhanh trong bước quá độ tới một hệ thống kinh tế định hướng toàn cầu theo điều tiết của thị trường.

- Việc quản lý lao động di cư theo hướng phát triển một thị trường lao động thống nhất, xóa bỏ các phân biệt giữa lao động đô thị và lao động nhập cư là điều kiện cơ bản và quyết định để lao động di cư hòa nhập vào đời sống xã hội nơi đến tại đô thị. Tuy nhiên, về mặt quản lý nhà nước đối với lao động di cư, cần có cơ quan đảm nhận trách nhiệm này để giải quyết kịp thời nhiều vấn đề nổi lên của lao động nhập cư và trở thành lỗ hổng của chính sách đó là, người nghèo ở nông thôn, người nghèo ở thành thị và người nghèo là người di cư được đối xử khác nhau. Tuy nhiên, gợi ý chính sách đối với lao động di cư ở đây là, vấn đề không chỉ đơn giản ở “việc làm và sinh họat” khi ngày càng nhiều người thuộc thế hệ trẻ hơn tham gia vào lực lượng lao động di cư ra đô thị và họ sẽ ý thức hơn về quyền công dân của họ cũng như quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội .v.v. Như vậy người lao động nông thôn nhập cư có nguy cơ trở thành một giai cấp bị thua thiệt vĩnh viễn và điều này cần có một khung pháp lý cụ thể để điều chỉnh để tránh xảy ra những hậu quả xảy ra ngoài tầm kiểm soát.

- Động cơ lớn nhất của di cư nông thôn-thành thị là lý do kinh tế. Các vấn đề xã hội xảy ra đối với nơi đến và những hậu quả đối với nơi xuất cư cần được xem xét có chính sách hạn chế tác động tích cực, khai thác mặt tích cực.

- Về vấn đề đất cho sản xuất nông nghiệp. Cần xử lý tốt vấn đề phân bổ và trao quyền sử dụng kèm theo là các quyền năng khác trong quản lý sử dụng đất đai đối với cả người di cư và người địa phương để tránh những vấn đề xã hội có thể nảy sinh.

- Tổng kết kinh nghiệp từ các nước cho thấy chính sách các chính phủ đã áp dụng nhằm tạo thêm việc làm phi nông nghiệp và khuyến khích chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn tập trung vào các vấn đề sau:

(i) tăng đầu tư vào các dự án sử dụng nhiều lao động;

(ii) phân bổ vốn đầu tư, tín dụng, chuyển giao đông nghệ và đào tạo hướng vào nâng cao năng suất của hệ thống nông nghiệp truyền thống;

(iii) xúc tiến sử dụng đất theo hướng đa dạng hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trồng trọt ngắn ngày và của ngành chăn nuôi;

(iv) cải thiện cơ cấu và họat động của các hiệp hội, hợp tác xã, các tổ chức dựa vào cộng đồng để các tổ chức này trở nên chuyên nghiệp hơn theo định hướng thị trường và tạo việc làm ổn định cho người lao động;

(v) Tăng cường cung cấp tín dụng cho họat động phi nông nghiệp nhằm vào khuyến khích tăng chế biến nông sản, kinh doanh nông nghiệp ở quy mô hộ gia đình, doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa;

(vi) khuyến khích bằng các đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp mới thành lập ở khu vực nông thôn và doanh nghiệp chuyển từ thành thị về nông thôn, thị trấn nhỏ;

(vii) phát triển đi đôi với có kế hoạch cẩn trọng giải quyết vấn đề liên quan đến nợ của doanh nghiệp;

(viii)Trong điều kiện di cư nông thôn-đô thị trở lên quá “nóng” kinh nghiệm của các nước hầu hết cho thấy việc hạn chế luồng di cư thông qua phát triển nông thôn, công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhằm tạo thêm nhiều việc làm là giải pháp hữu hiệu chứ không phải là các biện pháp hành chính.




Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1

tải về 2.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương