CHÍnh sách ngoại thưƠng của việt nam


- Vai trò của xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay



tải về 0.51 Mb.
trang5/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.51 Mb.
#12979
1   2   3   4   5   6

3.1- Vai trò của xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay:

Xuất khẩu hàng hóa không chỉ đơn giản là bán hàng hóa ra nước ngoài, xuất khẩu có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Tầm quan trọng của xuất khẩu thể hiện qua các vai trò sau:

Thứ nhất, xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu và tích lũy phát triển sản xuất.

Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu được xem như là yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế: Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu gây phản ứng dây chuyền giúp các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả.

Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất: Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách, chất lượng sản phẩm thì một mặt phải đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất, một mặt người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến

Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước:

Thứ năm, đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản lượng sản xuất của quốc gia sẽ tăng thông qua mở rộng với thị trường quốc tế.

Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển xuất khẩu có tác động tích cực và có hiệu quả đến nâng cao mức sống của nhân dân.

Thứ bảy, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước.

Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là hướng phát triển có tính chất chiến lược để đưa nước ta thành nước công nghiệp mới trong giai đoạn hiện nay.



3.2- Định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn 2001-2010:

Theo tinh thần chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng chính phủ về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 thì:

“Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15% năm trở lên”

Dựa vào kết quả xuất khẩu giai đoạn 10 năm, 1990 - 2000, tốc độ xuất khẩu nước ta tăng trưởng bình quân 22%/năm, Chính phủ đã đưa ra một định hướng phấn đấu tăng trưởng thấp hơn nhiều giai đoạn trước đó. Chỉ tiêu phấn đấu này phù hợp với tình hình thực tế, dự kiến, sau năm 2005, khi nhà máy lọc dầu Dung Quốc đi vào hoạt động, kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm, trong khi phần kim ngạch này hiện nay chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.

Thực tế qua hai năm thực hiện Chiến lược xuất khẩu theo tinh thần chỉ thị 22 nêu trên, kết quả tăng trưởng xuất khẩu năm 2001,2002 chỉ đạt bình quân 7,5%. Mặc dù năm 2003 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu có khá hơn, nhưng chỉ tiêu tăng trưởng 15% vẫn là một chỉ tiêu mà lĩnh vực xuất khẩu cần phải phấn đấu mới đạt được trong giai đoạn hiện nay.

Bảng 6.14: Cơ cấu xuất khẩu phân theo nhóm hàng giai đọan 1996 -2002

Đơn vị tính %



Nhóm hàng

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Hàng hóa thông thường

 

 

 

 

 

 

 

Gạo

11,7

9,5

10,9

8,9

4,6

4,1

4,4

Cà phê

4,6

8,4

6,3

5,1

3,5

2,7

1,9

Thủy hải sản

8,9

8,6

9,2

8,4

10,2

12,3

12,2

Dầu thô

18,3

15,6

13,2

18,1

24,2

21,9

19,5

Hàng hóa chế tạo

 

 

 

 

 

 

 

Dệt may

15,7

16,4

15,5

15,1

13,1

13,6

16,4

Giày dép

7,2

10,7

11,0

12,0

10,1

10,8

11,1

Điện tử

 

4,8

5,3

5,1

5,4

4,2

3,1

Thủ công mỹ nghệ

1,1

1,3

1,2

1,5

1,6

1,6

2,0

(Nguồn: , An Assessment of the Economic impact of the United States - Vietnam Bilateral Agreement)

Về cớ cấu hàng xuất khẩu, Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 -2010 định ra rằng “Cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng tăng các sản phẩm chế biến, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; bên cạnh đó phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng nguyên, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong, cũng như ngoài nước có nhu cầu; đồng thời phải khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất khẩu”.

Cớ cấu xuất khẩu hiện nay của chúng ta mặt hàng thô vẫn còn chiếm tỷ trọng cao. Nhìn vào bảng 6.14 ta thấy tỷ trọng các mặt hàng thô có biến động giảm chút ít từ năm 2000 đến 2002, tỷ trọng mặt hàng điện tử và dệt may có gia tăng, nhưng rõ ràng, các sản phẩm “chế tạo” của chúng ta chiếm tỷ trọng còn rất nhỏ bé trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc thay đổi cơ cấu xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo là một yêu cầu bức xúc để tăng trưởng xuất khẩu.

Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2010 còn nêu lên các vấn đề về cơ sở hạ tầng, về qui hoạch sản xuất và thị trường xuất khẩu như sau:

- Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng XK sử dụng nguyên, vật liệu chất lượng cao trong nước với công nghệ mới; cải thiện cơ sở hạ tầng cơ sở nuôi, trồng, sử dụng các loại giống cây, con có sản lượng, chất lượng cao và công nghệ chế biến thích hợp đi đôi với các biện pháp bảo vệ môi trường.

- Phải có qui hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm sản phẩm; quy trình quản lý sản xuất phải được tổ chức lại một cách khoa học và tiết kiệm nhất; từng bước xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu với nhãn hiệu “sản xuất tại Việt Nam”.

Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hóa. Mỗi loại hàng hóa phải hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường khác theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ buôn bán; phải có đối sách cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm dần việc xuất khẩu qua các thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở Châu Á, đặc biệt là thị trường Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường sức mua lớn như Mỹ, Tâu Âu, thâm nhập, tăng dần tỷ trọng XK vào các thị trường Đông Âu, Nga và khu vực Châu Mỹ, Châu Phi.

Phấn đấu cân bằng cán cân thương mại vào những năm 2009-2010 và xuất siêu vào thời kỳ sau năm 2000.



3.3- Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗù trợ và đẩy mạnh xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay:

3.3.1 Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực:

Trong nền thương mại của một nước, và trong các mặt hàng xuất khẩu của một doanh nghiệp, người ta thường chia hàng hóa thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, hàng xuất khẩu quan trọng và hàng xuất khẩu thứ yếu:

- Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi.

- Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng

- Hàng thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của chúng thường nhỏ.

Việc phân loại các mặt hàng như trên nhằm: Phát hiện vai trò, vị trí của từng loại mặt hàng qua đó xác định được thị trường tiêu thụ và cách thức để khai thác tối đa nguồn lực bên trong, bên ngoài của doanh nghiệp, khai thác những yếu tố thuận lợi của từng thị trường tiêu thụ để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Việc xác định mặt hàng chủ lực có vai trò quan trọng, giúp doanh nghiệp tập trung đầu tư, cải tiến công nghệ, đứng vững trên thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng quan hệ thương mại và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.



Một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 3 yếu tố cơ bản:

(1) Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đo.ï

(2) Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi trong buôn bán.

(3) Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước.



3.3.2 Gia công xuất khẩu:

Gia công xuất khẩu là một hình thức xuất khẩu lao động nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng tại chỗ (được thể hiện trong hàng hóa), chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.

- Quan hệ gia công chủ động: Nước (hoặc người) đặt gia công cung cấp nguyên liệu hoặc bán thành phẩm (không chịu thuế quan) cho nước (hoặc người) gia công. Ở đây chưa có sự chuyển giao quyền sở hữu đối với nguyên liệu.

- Quan hệ gia công thụ động: Nguyên liệu hoặc bán thành phẩm được xuất đi nhằm gia công chế biến và sau đó nhập thành phẩm trở lại. Trong quan hệ này, quyền sở hữu đối với nguyên liệu đã được chuyển giao. Vì vậy, khi nhập trở lại các bộ phận giá trị thực tế tăng thêm đầu phải chịu thuế quan.

Hình thức gia công xuất khẩu gồm có gia công sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu và gia công sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu như trồng trọt và chăn nuôi

3.3.3 Đầu tư cho xuất khẩu:

Theo các nhà chuyên môn, mức tiêu dùng thực tế của dân ta trong những năm gần đây thực tế đã giảm. Nhà nước đang có chủ trương kích cầu chính là tăng mức tiêu dùng của dân cư nhằm tạo ra tiền đề cho sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên với nhu cầu có khả năng thanh toán không nhiều do 75% dân cư sống ở nông thôn, nguồn thu nhập chủ yếu trông cậy vào lượng hàng nông sản thực phẩm, mà giá hàng nông sản thực phẩm thô trong nước cũng như quốc tế thường hay có biến động. Vai trò đẩy mạnh xuất khẩu đang là hướng trọng điểm nhằm cải thiện mức tổng cung, tăng thu nhập cho nông dân, đạt mục tiêu kích cầu đã đề ra. Đầu tư cho sản xuất nói chung và cho xuất khẩu nói riêng là một động lực cho sự phát triển, vì vậy, nhà nước cần áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư nhằm hướng vào xuất khẩu.



* Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu:

Vốn đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở ta hiện nay gồm: Vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài gồm có.

(1) ODA (Official Development Assistance): Vốn hỗ trợ phát triển chính thức, bao gồm ODA không hoàn lại và ODA với lãi suất ưu đãi, hàm chứa 25% vốn không hoàn lại.

(2) FDI (Foreign Direct Investment): Đầu tư trực tiếp của nước ngoài

(3) Vốn vay thương mại từ nước ngoài, vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế, viện trợ nhân đạo...

3.3.4 Lập các khu chế xuất:

Khu chế xuất (KCX) theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới: “ KCX là một lãnh địa công nghiệp chuyên môn hóa dành riêng để sản xuất phục vụ xuất khẩu, tách khỏi chế độ thương mại và thuế quan của nước sở tại, ở đó áp dụng chế độ thương mại tự do”.



Lợi ích của KCX:

- Thu hút được vốn và công nghệ.û

- Tăng cường khả năng xuất khẩu tại chỗ.

- Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.

- Góp phần làm cho nền kinh tế nước chủ nhà hòa nhập với nền kinh tế thế giới và của các nước trong khu vực.

3.3.5 Nhà nước thực hiện bảo hiểm đối với XK:

Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhiều trường hợp để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, thương nhân thực hiện bán chịu trả chậm hoặc thực hiện tín dụng hàng hóa với lãi suất ưu đãi cho người mua hàng nước ngoài. Bán hàng như vậy có những rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong những trường hợp đó, để khuyến khích thương nhân mạnh dạn đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách bán chịu, các quỹ bảo hiểm của xuất khẩu của nhà nước đứng ra đền bù nếu bị mất vốn. Tỉ lệ đền bù có thể lên tới 100% vốn bị mất, nhưng thường tỉ lệ đền bù khoảng 50- 60% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu buộc phải quan tâm việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm đến thu tiền của nhà nhập khẩu sau khi hết thời hạn tín dụng.



3.3.6 Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu:

Tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu trừ việc nó mang hình thức một khoản cho vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua. Nhà nước sẽ cho nước ngoài vay vốn với qui mô lớn (lãi suất ưu đãi) để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hóa của nước cho vay. Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực về kinh tế và hình thức vay này khiến một số nước nghèo bị lệ thuộc nhiều hơn vào các nước giàu có, bởi vì khi mua chịu một mặt thường kèm theo các điều kiện chính trị, mặt khác mua hàng tràn lan dẫn đến phá hại sản xuất trong nước.

Hầu hết các nước đều có một cơ quan nhà nước là Ngân hàng xuất nhập khẩu có nhiệm vụ cung cấp các khoản cho vay ít nhiều có tính chất trợ cấp để hỗ trợ cho xuất khẩu. Ví dụ, để thực hiện chiến lược xuất khẩu quốc gia, trong năm 1998, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã chi 2,5 tỷ USD theo chương trình đảm bảo tín dụng xuất khẩu General Sales Manager; Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ đã ký biên bản cấp cho Hàn Quốc 2 tỷ USD tín dụng xuất khẩu trung hạn và cấp cho Thái Lan và Indonexia mỗi nước một tỷ USD trong khuôn khổ tài trợ ngắn hạn.

3.7 Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu:

Đây là sự ưu đãi về tài chính mà nhà nước dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi họ bán được hàng ra thị trường bên ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp cho các doanh nghiệp tăng thu nhập; tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu.



Có hai loại trợ cấp xuất khẩu:

Trợ cấp trực tiếp: Nhà nước áp dụng thuế suất ưu đãi , miễn hoặc giảm thuế hoặc áp dụng giá ưu đãi đối với các yếu tố đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp.

Trợ cấp gián tiếp: Nhà nước đầu tư vốn thành lập các tổ chức nghiên cứu về khoa học, hình thành các tổ chức cung cấp thông tin về kinh tế - khoa học- kỹ thuật - thị trường, thành lập các cơ sở nghiên cứu, lai tạo các loại giống, cây trồng, vật nuôi... phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, nhà nước còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tổ chức giới thiệu, triển lãm, quảng cáo... sản phẩm của mình ở nước ngoài để mở rộng thị trường xuất khẩu.

Về mức độ trợ cấp: Xu hướng chung là tăng cường trợ cấp gián tiếp, trợ cấp trực tiếp có xu hướng giảm vì nếu phát triển loại hình này nhìn chung không phù hợp với xu hướng mậu dịch thế giới ngày càng tự do hóa.

3.3.8 Chính sách về tỷ giá hối đoái:

Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng trong quá trình thực hiện chiến lược đối ngoại, cụ thể là đẩy mạnh xuất khẩu để thu nhiều ngoại tệ cho đất nước. Tỷ giá hối đoái luôn bị tác động bởi tình hình lạm phát trên thị trường nội địa và thị trường thế giới. Nhà nước phải tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo các quá trình lạm phát có liên quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện cạnh tranh thành công trên thị trường quốc tê.ú

 

 

Điều cần lưu ý là trên thực tế, một nước có quan hệ với rất nhiều bạn hàng,vì vậy khi tính toán tỷ giá hối đoái cần tính tỷ giá đó ở dạng song phương. Nhưng có thể có rất nhiều loại hàng và nhiều bạn hàng, nên trong tính toán chỉ chọn những khách hàng quan trọng nhất, mặt hàng quan trọng nhất để tính tỷ giá hối đoái.

Từ những năm 1991 trở về trước, nhà nước ta chưa xây dựng được chính sách ngoại hối cho thích hợp. Cuối năm 1992, Nhà nước ta đã bắt đầu sử dụng linh hoạt tỷ giá hối đoái để can thiệp vào chính sách ngoại hối và ngoại thương. Nhà nước thành lập các Trung tâm giao dịch ngoại tệ, Ngân hàng Trung ương tham gia mua bán ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái của nước ta hiện nay là loại tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, tức là vừa chịu sự tác động của thị trường, vừa có sự quản lý của nhà nước. Từ đó sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái luôn mang tính chiến lược của chính sách ngoại hối quốc gia. Hiện nay, tỷ giá hối đoái được ngân hàng Trung ương công bố hàng ngày, các ngân hàng thương mại giao dịch mua bán với biên độ là 0,5% so với tỷ giá hối đoái ngân hàng trung ương qui định.

3.3.9: Các biện pháp thuộc về cơ chế tổ chức quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu của nhà nước:

Nhóm biện pháp này thực sự ra là những hình thức trợ cấp gián tiếp cho xuất khẩu, có thể thực hiện các biện pháp này như sau:

Nhà nước thành lập các viện nghiên cứu để tổng hợp & cung cấp thông tin cho nhà xuất khẩu.

Nhà nước tổ chức các trường đào tạo các loại chuyên gia, các cán bộ khoa học kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu.

Nhà nước lập các phòng thương mại thuộc đại sứ quán ở các nước mà nước ta có quan hệ ngoại giao để nghiên cứu chính sách thương mại, luật, thị trường hàng hóa...

Nhà nước đứng ra ký kết các hiệp định về thương mại, hiệp định về hợp tác kinh doanh trên cơ sở đó để thúc đẩy XNK

Mức trợ cấp của các Chính phủ đặc biệt lớn cho lĩnh vực nông sản. Ví dụ, năm 1993, mức trợ cấp so với giá thành sản xuất nông sản lên gần 50%. Riêng Mỹ mỗi năm trợ cấp cho xuất khẩu lên đến 700 - 800 triệu USD; Ở Nhật Bản, trợ cấp cho nông nghiệp lên đến gần 90 tỉ USD/ năm, chiếm gần 3,2% GDP.

Trên thế giới, các nước công nghiệp phát triển trợ cấp xuất khẩu nhiều hơn các nước chậm và đang phát triển chủ yếu vì lý do tài chính. Tình trạng này làm cho hoạt động thương mại quốc tế lệch lạc, sản phẩm xuất khẩu của các nước nghèo, các nước được trợ cấp ít, ít có khả năng cạnh tranh bình đẳng với các sản phẩm của nước có trợ cấp lớn. Chính vì vậy mà một trong những mục tiêu của vòng đàm phán Uruguay là gây sức ép với các Chính phủ về chống phá giá và trợ cấp xuất khẩu. Cho đến hiện nay, khi vòng đàm phán Doha đang được tiến hành thì vấn đề trợ cấp xuất khẩu nông sản của các nước giàu vẫn là vấn đề nóng bỏng trong đàm phán giữa các nước đã và đang phát triển.



4- Chính sách nhập khẩu của Việt Nam:

TOP

4.1- Vai trò của nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay:

Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước

- Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định.

- Góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thỏa mãn nhu cầu trực tiếp về hàng tiêu dùng đồng thời đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động đồng thời qua đó tác động tích cực lại công tác xuất khẩu.



4.2-Nguyên tắc của chính sách nhập khẩu:

Chính sách nhập khẩu của nước ta hiện nay phải được đề ra phù hợp với những nguyên tắc chung về chính sách bảo hộ mậu dịch của các tổ chức quốc tế.

Nền công nghiệp của nước ta còn non trẻ, rất cần thiết phải có sự bảo hộ của Nhà nước thông qua chính sách hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, việc gia nhập ASEAN, APEC và đàm phán gia nhập WTO đòi hỏi chính sách nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu mở cửa kinh tế đất nước của các tổ chức này. Việc mở cửa kinh tế sẽ giúp nước ta mau chóng hội nhập với tiến trình khu vực hóa và quốc tế hóa kinh tế toàn cầu.

Ngoài ra, nhập khẩu phải được thực hiện theo các nguyên tắc:

- Sử dụng ngoại tệ với tinh thần tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao.

- Dành ưu tiên cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất đồng thời có chú ý thích đáng nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân.

- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu

- Kết hợp giữa nhập khẩu và xuất khẩu

- Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững chắc và lâu dài

4.3- Chính sách nhập khẩu của Việt Nam trong những năm tới:

Cũng dựa vào nội dung chỉ thị số 22 của Thủ tướng chính phủ (đã nêu ở phần chính sách xuất khẩu), chính sách nhập khẩu giai đoạn 2001- 2010 được đề ra cụ thể như sau:

- Nhập khẩu phải được định hướng chặt chẽ; tăng trưởng bình quân của nhập khẩu cả thời kỳ 2001-2010 được duy trì ở mức 14% năm.

- Chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của các ngành chế biến nông, lâm, thủy hải sản và sản xuất hàng công nghiệp nhẹ; đồng thời phải gắn với việc phát triển, sử dụng các công nghệ, giống cây con và vật liệu mới được sản xuất trong nước.



Каталог: tailieucuaan -> QLNN%20ve%20Kinh%20te -> Kinh%20Te%20Hoc -> KINH%20TE
tailieucuaan -> THỦ TƯỚng chính phủ Số: 1001
tailieucuaan -> Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002 và Nghị định số 60/2003/NĐ-cp ngày 06/6/2003 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước
tailieucuaan -> Nghị định số 148/2007/NĐ-cp ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
tailieucuaan -> Câu: Quá trình nhận thức của Đảng về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân 1930-1954
tailieucuaan -> Vấn đề 1 : Nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
tailieucuaan -> Third United Nations Conference on the Law of the Sea
tailieucuaan -> Đề Ở một ngành có 3 hãng a b c, chúng cạnh tranh tự do với nhau. Lượng sản phẩm sx ra của các hãng lần lượt là 100,150,200 sản phẩm, với giá trị các biệt tương ứng là : 3, 2
tailieucuaan -> Câu 5: Quá trình nhận thức của Đảng để đi đến đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1975 2000
KINH%20TE -> Các nhà lãnh đạo các nền kinh tế apec họp phiên đầu tiên

tải về 0.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương