Chương XIII: cuộc kháng chiến chống mỹ, CỨu nưỚC


Phát động phong trào "thi đua Hai giỏi"(chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi)



tải về 413.47 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích413.47 Kb.
#13263
1   2   3   4   5

2.3. Phát động phong trào "thi đua Hai giỏi"(chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi)

Nhân dịp Quảng Bình bắn rơi 100 máy bay Mỹ, Hồ Chủ tịch đã gửi thư khen đồng bào và chiến sỹ Quảng Bình:



" Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình đã bắn rơi 100 máy bay Mỹ, vừa qua lại thu hoạch vụ chiêm rất tốt.

Như vậy là tỉnh nhà chiến đấu giỏi, sản xuất cũng giỏi.

Các chú bộ đội, cán bộ, đồng bào tỉnh nhà hãy phát huy thắng lợi, nâng cao truyền thống anh hùng của quân và dân ta, đoàn kết chặt chẽ, luôn luôn cảnh giác, quyết giành nhiều thành tích to lớn hơn nữa cùng đồng bào cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho đến thắng lợi hoàn toàn"(A183;209-210).

Thư Bác Hồ là niềm vinh dự to lớn đối với Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình. Thư Bác Hồ đã động viên khí thế chiến đấu, tăng thêm lòng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch trong cuộc chiến đấu ác liệt với đế quốc Mỹ.

Nhân dịp này, Tỉnh uỷ tổ chức cán bộ, đảng viên, quần chúng học tập thư khen của Bác. Phát động mọi người, mọi gia đình, đơn vị, cơ quan thi đua làm theo lời Bác. Đây là đợt liên hệ khẳng định thành tích và những mặt còn yếu trong chiến đấu, sản xuất của mỗi đơn vị, cá nhân.

Ngày 29 tháng 8 năm 1965, Hồ Chủ tịch đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương độc lập hạng nhất cho quân và dân Quảng Bình.



Để động viên kịp thời quân và dân trong tỉnh, cuối năm 1965, Tỉnh uỷ đã tổ chức Đại hội thi đua tại thôn Xuân Hoà (Hoa Thuỷ, Lệ Thuỷ), đồng chí Tố Hữu, Bí thư Trung ương Đảng đã vào dự. Tại Đại hội này, tỉnh đã phát động phong trào thi đua " Hai giỏi": Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi.

Tháng 6 năm 1966, đồng chí Nguyễn Tư Thoan, Bí thư Tỉnh uỷ dẫn đầu đoàn cán bộ tỉnh ra báo cáo tình hình với Trung ương và Bác Hồ. Sau đó, đoàn đã đi thăm các tỉnh bạn để học tập kinh nghiệm sản xuất. Từ tấm ảnh chân dung có chữ ký của Hồ Chủ tịch tặng, tỉnh cho in 1 vạn tấm để làm phần thưởng cho cá nhân, gia đình, tập thể danh hiệu " 2 giỏi".

Phong trào thi đua " 2 giỏi" trở thành một phong trào thi đua cách mạng quần chúng sâu rộng trong quân dân toàn tỉnh; là nguồn động lực quan trọng thúc đẩy các mặt chiến đấu, sản xuất, xây dựng con người mới trong điều kiện chiến tranh.

Cùng với phong trào của các ngành, các giới, phong trào thi đua "2 giỏi" đã trở thành mục tiêu phấn đấu, trở thành cao trào thi đua sâu rộng trong quần chúng. Mỗi đơn vị trong lực lượng vũ trang, hợp tác xã, gia đình, cá nhân đều có chỉ tiêu phấn đấu " Đơn vị 2 giỏi", " Chiến sỹ 2giỏi". Trong phong trào thi đua xuất hiện nhiều tập thể , cá nhân điển hình. Phong trào thi đua " 2 giỏi" như một luồng gió mới đưa chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Quảng Bình phát triển lên một bước vượt bậc.

Công tác phòng tránh được đặt ra cấp thiết. Ở các nơi địch thường xuyên đánh phá, nhân dân xây dựng thành những làng hầm, đưa mọi sinh hoạt của gia đình xuống lòng đất, thực hiện bám đất, bám làng để chiến đấu, sản xuất. Nhiều xã có sơ đồ hầm hào các gia đình trong xóm, thôn, khu vực. Các hợp tác xã tổ chức các tổ, đội đào hầm chuyên trách giúp các gia đình neo đơn, thương binh, liệt sỹ. Bộ đội hành quân qua làng, con em miền Nam ra Bắc học tập được nhân dân nhường hầm, giúp đỡ ăn nghỉ chu đáo. Mọi hoạt động của nhân dân từng bước chuyển sang quân sự hoá.

Tính đến cuối năm 1965, Quảng Bình đã bắn rơi 141 máy bay Mỹ, bắt sống 4 giặc lái; dân quân - tự vệ độc lập bắn rơi 11 chiếc. Thắng lợi đó đã khẳng định Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình có quyết tâm chiến đấu cao, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh, quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

Tháng 10 năm 1965, Hội đồng chính phủ quyết định thành lập Ban điều hoà vận tải Trung ương do Phó thủ tướng Đỗ Mười làm Trưởng ban, chỉ đạo công tác chi viện tiền tuyến.

Ban bảo đảm giao thông tỉnh Quảng Bình do đồng chí Nguyễn Hữu Duật, Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh làm trưởng ban. Được Ban đảm bảo giao thông vận tải trực tiếp chỉ đạo, các ngành có liên quan chuyển phương thức hoạt động phù hợp, đáp ứng yêu cầu của chiến trường.

Nhân dịp lễ Nô en, tết dương lịch, tết nguyên đán, trước hành động nhân đạo của Chính phủ ta, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng bắn từ ngày 25 tháng 12 năm 1965 đến ngày 31 tháng 01 năm 1966. Tranh thủ thời gian này, ta mở chiến dịch vận tải "Quang Trung 1" chuyển hàng từ bắc sông Gianh sang nam sông Gianh vào chiến trường. Tỉnh huy động cán bộ, bộ đội, nhân dân cùng lực lượng chuyên trách làm đường, lấp hố bom, nâng cao mặt đường. Trong một thời gian ngắn, hàng chục trọng điểm lầy lội được khắc phục, hàng vạn tấn hàng hoá được vận chuyển vào chiến trường.

Để phá thế " độc tuyến", Bộ Giao thông vận tải thành lập trạm vận tải thống nhất. Quảng Bình thành lập Tổng đội vượt sông bên cạnh Ty Giao thông để chỉ huy các bến phà . Các bến phà tổ chức theo hình thức quân sự hoá. Hàng từ miền Bắc vào bắc Gianh tập kết ở 4 bến: Quảng Thuận, Quảng Phúc (chủ yếu là gạo); Ba Đồn (chủ yếu là vật tư), Quảng Trường (hàng quân sự). Từ đây, các lực lượng vận tải thường dùng thuyền chuyển tải qua sông cho ô tô chuyển vào đường 20, đường 10, nhập vào kho Đoàn 559. Vùng bắc , nam sông Gianh, nam Long Đại, Quán Hàu, trở thành trung tâm nhận hàng, chuyển hàng lên bị địch đánh phá rất ác liệt.

Nhân dịp tết nguyên đán năm 1966, lực lượng vũ trang Quảng Bình phấn khởi đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam vào thăm. Gặp mặt cán bộ, chiến sỹ Ban chỉ huy Tỉnh đội và Tiểu đoàn 9 pháo cao xạ, Đại tướng căn dặn: "Đánh địch phải kiên quyết, dũng cảm, mưu trí và sáng tạo". Ghi sâu lời căn dặn của Đại tướng, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang Quảng Bình quyết tâm bắn rơi, bắn cháy nhiều máy bay, tàu chiến Mỹ bảo vệ quê hương

Đáp ứng yêu cầu của cách mạng Lào, tháng 10 năm 1965, Trung ương phân công Quảng Bình kết nghĩa với Sa - vẵn -na - khẹt để giúp đỡ tỉnh bạn. Tỉnh thành lập Ban C và cử đồng chí Ngô Đình Văn, Tỉnh uỷ viên , Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính làm trưởng ban. Sau đó, tỉnh cử chuyên gia các ngành sang giúp Bạn xây dựng cơ sở huyện Na -nhôm và vùng mới giải phóng trên hành lang đường mòn Hồ Chí Minh. Tỉnh còn cử cán bộ, giáo viên, công nhân giúp Bạn xây dựng bệnh viện, công trường thuỷ lợi Na - tơ; dạy học, mở lớp đào tạo cán bộ quân sự, công an cho tỉnh Bạn. Ngành giao thông và vận tải mở công trường 050, huy động công nhân cầu đường và 100 quân dự bị của hai huyện Tuyên Hoá, Quảng Trạch mở rộng đường 12B từ biên giới Việt - Lào đến ngã ba Lằng Khằng. Nhờ những hoạt động đảm bảo giao thông nên lực lượng của ta đa tranh thủ những ngày tạm ngừng bắn vận chuyển một khối lượng lớn hàng hoá chi viện chiến trường


* *

*

Sau 37 ngày ngừng bắn ( ngày 25/12/1965- 30/01/1966), ngày 31 tháng 01 năm 1966, đế quốc Mỹ cho không quân đánh phá trở lại Quảng Bình.

Tại trận địa bảo vệ phà Quán Hàu, Tiểu đoàn 9 cao xạ bắn rơi tại chỗ 2 chiếc; các tổ trực chiến của dân quân - tự vệ bắn rơi 1 chiếc. Khi tên giặc lái nhảy dù ra biển, 1 thuỷ phi cơ đến ứng cứu , bị đại đội pháo chống tăng bố trí ven bờ biển Phú Hội bắn chìm trên cửa biển Nhật Lệ . Đây là trận đánh hay, phối hợp nhịp nhàng giữa pháo cao cạ, pháo bờ biển, nâng số máy bay Mỹ bị bắn rơi, bắn chìm trong 1 trận lên 4 chiếc.

Đánh phá trở lại, địch bất ngờ trước lưới lửa phòng không của ta. Máy bay Mỹ đến nơi nào cũng bị đánh trả. Địch thay đổi chiến thuật, chúng sử dụng từng tốp từ 1 đến 3 chiếc bay bằng, bay cao trên tầm cao xạ, đồng loạt cắt bom theo lối rải thảm. Tiếp đó, dùng nhiều tốp, chia nhiều hướng, nhiều tầng, công kích trận địa pháo.

Tháng 01 năm 1966, Đoàn 559 và Bộ Giao thông vận tải tập trung lực lượng mở đường từ Phong Nha vào Tà Lê, nối qua đường 12B ở Lùm Bùm để tránh túi nước Xiêng - phan . Thi công trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, nhưng với quyết tâm cao , sau gần 6 tháng , tuyến đường mới, đường 20 Quyết Thắng dài 125 ki lô mét đã thông xe đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 76 năm ngày sinh của Bác Hồ. Sau cửa khẩu đường 12, đây là cửa khẩu thứ hai vượt Trường Sơn, một hướng tiến công mới trên tuyến hậu cần chiến lược từ miền Bắc vào các chiến trường.

Bị thất bại ở chiến trường, Đế quốc Mỹ huy động không quân, hải quân phong toả các tuyến đường bộ, đường biển hòng chặn tuyến chi viện chiến trường của ta. Cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải đi vào thử thách mới.

Tháng 6 năm 1966, nhân dịp quân và dân Quảng Bình bắn rơi 200 máy bay Mỹ, Hồ Chủ tịch gửi thư khen:

" Đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình đã nêu gương tốt cho các tỉnh bạn thi đua làm theo".

Tiếp đó, Bác dặn: " Chúng ta cần nhớ rằng: địch càng thất bại thì càng điên cuồng hung dữ. Vì vậy quân và dân tỉnh ta chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, cần phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, ra sức thi đua với quân và dân miền Nam anh hùng, cố gắng chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi hơn nữa, cùng đồng bào cả nước kiên quyết chống Mỹ cứu nước cho đến thắng lợi hoàn toàn"(A182:223().

Giữa những ngày chống Mỹ, cứu nước ác liệt, thư Bác Hồ về trên đất lửa như một làn gió mát lòng mọi người. Để động viên khí thế chiến đấu của quân và dân trong tỉnh, Tỉnh uỷ phát động thi đua " Làm theo lời Bác, 40 vạn nhân dân Quảng Bình sẵn sàng đánh bại bộ binh Mỹ nếu chúng liều lĩnh tiến công ra nam Quân khu 4".

Từ trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ đã xuất hiện nhiều khẩu hiệu hành động sắc bén được đúc rút thành phương châm chỉ đạo: "Tay cày, tay súng - tay búa , tay súng - tay chèo, tay súng" ; " Bám làng mà chiến đấu, bám đồng ruộng mà sản xuất, bám hố bom mà thâm canh"; " Hợp tác xã là pháo đài, chi bộ là cốt thép , xã viên là chiến sỹ"; " Đâu khó có chỉ huy, đâu gian nguy có lãnh đạo"; " Đảng viên đi trước, làng nước theo sau"; " Đứt dây như đứt ruột, gãy cột như gãy xương" ; " Trận địa là nơi đường xấu, lý tưởng chiến đấu là lúc gian nguy"... Nhờ vậy, trong phong trào thi đua " Làm theo lời Bác" đã xuất hiện ngày càng nhiều cá nhân, tập thể tiêu biểu.

Ngư Thuỷ ( Lệ Thuỷ ) là một xã ven biển ở cực Nam tỉnh Quảng Bình. Địch dội xuống đây hàng trăm tấn bom trên vùng đất cát hòng san bằng xã Ngư Thuỷ. Có trận địch đánh liên tục suốt 10 ngày đêm. Xóm Liêm Lấp bị máy bay Mỹ đánh suốt 3 ngày đêm liền, đốt cháy 107/133 ngôi nhà. Trên đồi cát, địch thả bom dày đặc. Rừng phi lao dọc bờ biển bị bom cháy thiêu trụi. Bình quân 1 đầu người chịu đựng trên 100 quả bom, đạn các loại. Nhân dân cắt cỏ rười đánh tranh, che lán trại trên đồi cát, "Một tấc không đi, một ly không rời" , chiến đấu ngoan cường, đánh địch bảo vệ quê hương. Đảng bộ, quân và dân Ngư Thuỷ khẳng định: " Địch đánh đá trôi, nhưng làng mạc không thể trôi ".

Tỉnh uỷ Quảng Bình đã phát động phong trào toàn tỉnh noi gương học tập " Sống và chiến đấu như Ngư Thuỷ".

Trước tình hình địch đánh phá căng thẳng, Tỉnh uỷ chủ trương động viên toàn dân, huy động mọi lực lượng, bằng các biện pháp, kiên quyết đảm bảo giao thông vận tải thông suốt trong mọi tình huống" (1). Khẩu hiệu lúc này là : " Đường, ngầm, sông, bến phà là trận địa".

Tháng 7 năm 1966 , một đoàn xe vận tải trên 100 chiếc trên đường qua Võ Ninh (Quảng Ninh) vào chiến trường thì gặp máy bay Mỹ đánh vào khu vực ngầm Dinh Thuỷ. Đoạn đường 300 mét biến thành bãi lầy. Đoàn xe sơ tán vào thôn Trung, thôn Tây, thôn Tiền. Nhân dân địa phương đã nêu cao tinh thần quyết tâm thông đườn, thồn xe bằng mọi giá để đưa hàng ra chiến trường với khẩu hiệu : " Xe chưa qua, nhà không tiếc". 37 gia đình được chấp nhận dỡ nhà lấy vật liệu chống lầy cho xe qua. 2 ngàn người từ thôn Hạ đến thôn Thượng ra mặt đường chống lầy, san lấp hố bom. Nhân dân thôn Thượng hiến nhà cửa, gạch, ngói, cột kèo, đòn tay... lát đường và gánh hàng chục khối đất nền nhà lấp hố bom thông đường. Khẩu hiệu " Xe chưa qua, nhà không tiếc" từ Võ Ninh lan nhanh ra khắp Quảng Bình và cả nước.

Đầu tháng 7 năm 1966, Hội đồng quốc phòng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã công bố lệnh động viên cục bộ để huy động nhân tài, vật lực cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nước, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Người khẳng định: " Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do!"(A35:161).

Lệnh động viên cục bộ của Nhà nước và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch thiêng liêng của Tổ quốc, cổ vũ toàn quân, toàn dân xốc tới quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quảng Bình đã tiễn đưa 2.321 thanh niên tòng quân ra mặt trận. 1.700 thanh niên xung phong và 621 nam nữ thanh niên đi dân công hoả tuyến phục vụ các chiến trường.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, trước mùa mưa năm 1966, Quảng Bình lập kế hoạch sơ tán 3 vạn em từ 7 đến 15 tuổi ra các tỉnh Thái Bình, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Thanh Hoá để nuôi dưỡng, học hành với mật danh kế hoạch "K8".

Trong kế hoạch " K8", các cháu con em cán bộ quân sự của tỉnh được Đảng uỷ, Bộ tư lệnh Quân khu 4 bảo lãnh, đã vượt qua bom đạn Mỹ ra tập kết ở Yên Thành ( Nghệ An), được sắp xếp nơi ở và đưa vào trường lớp học tập.

Kết thúc kế hoạch " K8", Quảng Bình, Vĩnh Linh tiếp tục thực hiện kế hoạch " K10" đưa những người đau yếu, tàn tật, các chị có con nhỏ dưới 5 tuổi ở khu vực Vĩnh Linh ra định cư tại huyện Tân Kỳ (Nghệ An).

Kế hoạch " K8", " K10" là cuộc hành trình đầy gian nan thử thách để sơ tán 3 vạn em nhỏ và hơn 1 vạn đồng bào ra các tỉnh phía Bắc. Đây là quyết tâm rất lớn của Đảng bộ, nhân dân và các ngành ở Quảng Bình, Vĩnh Linh để bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng người già, yếu; chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài; đồng thời tạo nguồn cán bộ về về xây dựng lại quê hương sau chiến tranh.

Quảng Bình là tỉnh nằm trong vùng " cán soong" mà đế quốc Mỹ đã tập trung khối lượng lớn sắt thép hòng bẻ gãy. Vào những ngày trời nắng, máy bay địch xuất kích gấp 6 lần so với các ngày đầu năm 1966. Thủ đoạn đánh thay đổi, vừa công kích vào mục tiêu, vừa ném bom toạ độ. Từng tốp máy bay bay cao trên tầm cao xạ đồng loạt thả nhiều loại bom hỗn hợp (bom phá, bom sát thương, bom bi) diệt mục tiêu, gây thương vong. Chúng đánh liên tục ngày đêm vào các tuyến đường chiến lược 12, 15, 20, phong toả tuyến đường quốc lộ 1A; cảnh đường tắc, xe ùn diễn ra liên tiếp. Các xe chuyển hàng từ phía Bắc vào phân tán chạy trên 3 tuyến: Quốc lộ 1A, đường 22A, 22B và giao hàng ở Bắc Gianh. Tất cả các hàng hoá từ các nguồn đến đều ký thác vào dân. Nhân dân các xã Kim Hoá (Tuyên Hoá), Quảng Trường, Quảng Thuận (Quảng Trạch), nhường nhà cho Nhà nước làm kho chứa hàng. Huyện uỷ Quảng Trạch đề ra nguyên tắc quản lý cho cơ sở: " Đảng uỷ là chủ hàng, dân quân là công nhân bốc vác, nhà dân là kho hàng, chủ nhà là thủ kho". Khẩu hiệu của nhân dân là: " Cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại". Mặc pháo sáng, mặc bom rơi, trên các bãi hàng vẫn tấp nập các đoàn xe vận tải, các đơn vị dân quân, thanh niên khuân vác; đâu đâu cũng náo nức giọng hò, câu hát át tiếng bom: " Hàng ta ta quý, ta yêu - Hàng ra tiền tuyến, hàng tiêu diệt thù". Nhân dân ai cũng hiểu cho xe vào làng, nhận hàng vào nhà, lộ ra địch sẽ đánh phá, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận.

Y Leng là một điểm cao trên đường chiến lược 12 thuộc xã Dân Hoá (Minh Hoá). Ở đó có Đại đội thanh niên xung phong 759 chốt giữ. Ngày 03 tháng 7 năm 1966, địch cho nhiều tốp máy bay thay phiên nhau trút bom xuống khu vực đồi Y Leng từ 1 giờ sáng đến 12 giờ trưa, làm cả một quả núi đổ sập, đất đá ào xuống đường vùi lấp đội hình c759, đẩy cả đoạn đường tụt xuống suối sâu. Trận đánh phá của giặc Mỹ đã gây cho ta nhiều tổn thất , nhưng cán bộ, chiến sỹ đai đội 759 không ai nao núng. Sau những đợt bom, cả đại đội lao lên bới đất cứu đồng đội. Sau một thời gian, đơn vị về trấn giữ đường Ba Trại ( nam Phà Gianh). Ở trận tuyến này cũng rất gay go, quyết liệt. Ngày máy bay ném bom , đêm pháo sáng địch treo lơ lửng trên trời; pháo từ các khu trục hạm từ ngoài khơi khi bắn cầm canh, lúc bắn dồn dập. Nguyễn Thị Minh Thú, chiến sỹ của Tiểu đội 6 trước khi ra mặt đường, đã viết thư cho bố mẹ với những lời lẽ thắm thiết: " Tuyến đường các con phụ trách rất gay go, quyết liệt. Hố bom chi chít. Bom toạ độ ngày nào cũng xối xuống, cái sống và cái chết rất gần... Dù có đổ máu, các con cũng không tiếc tuổi xuân, hy sinh đến giọt máu cuối cùng vì Tổ quốc, vì nhân dân..." . Nguyễn Thị Minh Thú đã sống, chiến đấu và hy sinh anh dũng như một anh hùng.

Giặc Mỹ hòng huỷ diệt mọi sinh vật trên mặt đất, nhưng cuộc sống của Đại đội đại đôi thanh niên xung phong 759 vẫn sôi nổi; niềm vui mở đường và ý chí sắt đá đã tạo nên quyết tâm của chiến sỹ làm nhiệm vụ giao thông vận tải:

"... Địch đánh rừng già, ta ra rừng non,

Địch đánh rừng non, ta ra đồi trọc,

Địch đánh đồi trọc , ta ra bám đường..."

Trong khi bè lũ Giôn - Xơn dùng bom đạn để khuất phục, thì các chiến sỹ thanh niên xung c759 " Một tấc không đi, một ly không dời", "Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm"( Ngày 22 /12/ 1969, Đơn vị c759 và Nguyễn Thị Kim Huế được Đảng và Nhà nước tuyên dương anh hùng).

Phối hợp với không quân, từ tháng 10 năm 1966, hải quân Mỹ tăng cường không chế mặt biển, bắn pháo vào bờ. Vùng biển Quảng Bình thường xuyên có từ 2 - 3 tàu khu trục túc trực ngày đêm. Lúc đầu, chúng bắn pháo vào dọc bờ biển, đường quốc lộ, cửa lạch... Về sau , chúng bắn sâu vào nội địa: Hạ Môn, Phú Kinh ( Liên Trạch, Bố Trạch), Rào Đá (Quảng Ninh); bắn chặn dọc đường quốc lộ 1A, bắn lên đường 15, bắn sâu vào các bến phà Quán Hàu, Long Đại, các bến đò Trung Quán, Trần Xá, Trúc Ly, Phú Bình...

Kiên quyết trừng trị bọn cướp biển, ngày 25 tháng 10 năm 1966, Đại đội 7 và Đại đội 9 pháo binh bộ đội địa phương , từ loạt đạn đầu, đã bắn cháy chiếc khu trục hạm Men - phít mang số hiệu 728. Chiến công của Đại đội 7 và Đại đội 9 đã mở màn trận đầu đánh giỏi, bắn trúng của lực lượng pháo binh địa phương.

Tiếp theo chiến công của Đại đội 7 và Đại đội 9, ngày 19 tháng 12 năm 1966, Đại đội 8 pháo 85 ly bộ đội địa phương bắn bị thương nặng tàu khu trục Ô - B rin - an ở cự ly 8.000 mét, buộc hai tàu khác phải tháo chạy.

Vừa đánh trả tàu chiến, các đơn vị còn phối hợp với hải quân tiến hành nhiều đợt thả thuỷ lôi ở ngoài khơi, trên các luồng khu trục hạm và tuần dương hạm thường đi. Chiếc tuần dương hạm OKLAHO Macity bị trúng thuỷ lôi , thủng một mảng ở thành tàu dài 5 mét phải đưa về cảng Su bích ( Phi - líp - pin) sửa chữa.

Để ngăn chặn việc tiếp tế, chi viện của miền Bắc cho miền Nam trên tuyến đường vận tải chiến lược 559, đế quốc Mỹ đã cho máy bay B52 ném bom rải thảm dọc đường 12 . Xã Dân Hoá (Minh Hoá) trở thành điểm đánh phá ác liệt nhất toàn tuyến. Đời sống của đồng bào các dân tộc ở đây đứng trước nhiều khó khăn lớn. Một số đồng bào lo sợ bỏ sản xuất, một số đi tìm bản mới. Đồng chí Hồ Phòm ( dân tộc Khùa), đồn phó Đồn công an nhân dân vũ trang Cha Lo và tổ vận động quần chúng về tận các bản Cà Rèng, Cà Ai, Bãi Dinh cùng ở, cùng ăn, cùng làm với bà con dân bản (Đồng chí Hồ Phòm được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng LLVT).

Theo yêu cầu chiến trường, tỉnh tuyển chọn 1.700 nam nữ thanh niên vào các đội thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước; tiễn đưa 2.456 thanh niên lên đường tòng quân giết giặc. Để đảm bảo nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ được tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng. Năm 1966, toàn tỉnh có 41.797 dân quân tự vệ ( chưa tính thị xã Đồng Hới), chiếm tỷ lệ 10,44% so với dân số.

Thực hiện phương châm " Tiêu diệt địch để bảo vệ mình", trong năm 1966, các đơn vị pháo cao xạ, dân quân - tự vệ trên địa bàn Quảng Bình bắn rơi 108 máy bay Mỹ, trong đó lực lượng vũ trang địa phương bắn rơi 57 chiếc. Số giặc lái của Mỹ bị bắt năm 1966 tăng gấp 3 lần nắm 1965. Pháo binh bộ đội địa phương bắn chìm, bắn cháy 9 tàu chiến Mỹ - Nguỵ ( 3 tàu khu trục, 5 tàu biệt kích, 1 thuỷ phi cơ) .

Sau tết Đinh Mùi 1967, đế quốc Mỹ mở chiến dịch " Rồng biển" (từ ngày 26 tháng 02 đến ngày 30 tháng 7 năm 1967) , huy động hơn 50 tàu chiến hoạt động từ Vĩnh Linh trở ra hòng chặn tuyến vận tải biển của ta. Trước hành động leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, các đơn vị pháo binh tích cực đánh trả tàu chiến địch. Ngày 01 tháng 3 năm 1967, Đại đội 8 pháo binh Quảng Bình đã lập chiến công bắn bị thương tuần dương hạm Can - be - ra . Nói về thiệt hại này, hãng thông tấn UPI của Mỹ đưa tin: " Tuần dương hạm số 2 Can - be - ra sau 30 phút chiến đấu với pháo binh Bắc Việt ở vĩ tuyến 17o30' đã bị một phát đại bác nổ trúng ngay giữa tàu, một phát nổ trên boong, phá thủng 1 lỗ rộng 0,5inch ở vỏ tàu và những mảnh khác đã làm tan chiếc thuyền cấp cứu trên sườn tàu"(A192:212).

Đây là lần thứ hai, khu trục hạm của Mỹ bị pháo binh bộ đội địa phương Quảng Bình trừng trị. Thắng lợi lần này chứng tỏ trình độ chiến thuật của pháo binh được nâng lên một bước, phát huy được hiệu lực tối đa của pháo, mở rộng tầm bắn, đẩy địch ra xa, bảo đảm khu vực sản xuất trên biển, tạo điều kiện cho giao thông vận chuyển trên biển và quốc lộ 1 thuận lợi.

Để đưa nhanh hàng ra phía trước, Trung ương quyết định mở thêm đường 10 - cửa khẩu thứ ba vượt Trường Sơn ( sau khi đường 20 hình thành). Đường 10 (còn gọi là đường 20-7) bắt đầu từ Áng Sơn đi về phía tây dài 69 ki lô mét, tiếp giáp đường 18 rẽ xuống đường số 9. Ban 67 của Bộ giao thông vận tải và Tổng cục hậu cần tiền phương chỉ huy 6000 thanh niên xung phong và công nhân quốc phòng ngày đêm mở đường. Mở được cửa khẩu thứ 3 vượt Trường Sơn là một thắng lợi to lớn của công tác bảo đảm giao thông vận tải, đồng thời khẳng định sức mạnh " Dời non lấp biển" của quân dân miền Bắc. Báo chí phương tây đã gọi các con đường chiến lược 12, 20, 10 là " Chuyện thần thoại Đông Dương, con rồng nghìn vây, chặt xong mọc lại", là " Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm".

Khí thế thi đua " 2 giỏi" đã trở thành phong trào quần chúng, lôi cuốn mọi người hăng hái chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi.

Từ phong trào thi đua " 2 giỏi" , trải qua chiến đấu, phục vụ chiến đấu, sản xuất, tại Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua chống Mỹ , cứu nước ngày 01 tháng 01 năm 1967, Quảng Bình có 7 đơn vị và 11 cá nhân được Quốc hội, Chính phủ tuyên dương Anh hùng LLVT, Anh hùng lao động.

Để đối phó với âm mưu mới của địch, năm 1967, Quảng Bình được Bộ Quốc phòng tăng cường các đơn vị phòng không tầm trung và tầm cao vào chiến đấu trên địa bàn tỉnh Quảng Bình(1).

Quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân, nhằm động viên mọi thành phần tham gia chiến đấu chống Mỹ, cứu nước và tăng cường lực lượng nam giới ra chiến trường, Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết định thành lập Đại đội dân quân gái pháo binh Ngư Thuỷ Đại đội dân quân gái pháo binh Ngư Thuỷ gồm 37 chiến sỹ, đều là xã viên hợp tác xã, tuổi đời từ 16-22, được trang bị 4 khẩu pháo 85ly.

Sau hai tháng huấn luyện, Đại đội bố trí trận địa ở phía bắc thôn Hoà Luật Bắc ( xã Thanh Thuỷ).

Ngày 07 tháng 02 năm 1968, máy bay và tàu chiến Mỹ cùng một lúc bắn phá xối xả vào trận địa. Đạn pháo địch nổ ngay trên thành công sự của khẩu đội 1. Củng cố lại trận địa xong, các khẩu đội đồng loạt nhã đạn. Chiếc tàu mang số hiệu 013 bị trúng 8 viên đạn pháo bốc cháy dữ dội trên vùng biển quê hương. Hơn 1 tháng sau, ngày 27 tháng 3, Đại đội lại bắn cháy một tàu chiến Mỹ.

Phát huy chiến thắng, ngày 16 tháng 5 năm 1968, lập thành tích mừng thọ Bác Hồ 78 tuổi, Đại đội lại bắn cháy chiếc tàu khu trục thứ 3 của giặc Mỹ.

Chỉ trong vòng 100 ngày, đơn vị đã nổi lửa căm thù, bắn cháy 3 tàu khu trục của Mỹ, góp phần bảo vệ vùng biển thân yêu của Tổ quốc.

Ngày 25 tháng 8 năm 1970, Đại đội dân quân gái pháo binh Ngư Thuỷ vinh dự được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang.

Bác Hồ đã gửi thư khen các chiến sỹ gái pháo binh, 37 chị em đều được Bác tặng huy hiệu. Đại đội được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3, Huân chương chiến công hạng nhất, " Huy hiệu 3 đảm đang"; " Nguyễn Văn Trổi"; " Hai giỏi"; " Vì an ninh Tổ quốc". Đoàn đại biểu phụ nữ Ba Lan tặng Đại đội 10 huy chương vàng.

Thành công của việc xây dựng Đại đội gái pháo binh dân quân xã Ngư Thuỷ đánh dấu bước phát triển mới về lực lượng, về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, về phát huy tính ưu việt của quan hệ sản xuất mới trên địa bàn tỉnh. Đồng thời khẳng định: Phụ nữ có đủ năng lực làm chủ khoa học kỹ thuật, sử dụng binh khí hiện đại để chiến đấu và giành thắng lợi.

Hướng về tiền tuyến, chia lửa với đồng bào miền Nam, với Trị Thiên ruột thịt, tháng 7 năm 1967, Ban chỉ huy công an nhân dân vũ trang Quảng Bình tổ chức 3 phân đội an ninh vũ trang: D1, D2, D3 ( gọi tắt là D67) chi viện cho Do Cam, Quảng Trị. Tại buổi lễ xuất quân, đồng chí Cổ Kim Thành , Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh, thay mặt Đảng bộ và quân dân Quảng Bình trao tặng Đoàn D67 lá cờ thêu dòng chữ: " Vì Trị - Thiên ruột thịt không tiếc máu, tiếc xương".

Cuối năm 1967, 3 đại đội súng cối 82ly, 4 đại đội bộ binh của Tiểu đoàn 45, 46, 49 và Đại đội trinh sát đặc công của tỉnh vào chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, diệt 5.000 tên, bắt sống 2 tên Mỹ, phá huỷ 47 xe cơ giới ( có 41 xe tăng), bắn rơi 3 máy bay Mỹ. Đại đội trinh sát đặc công phối thuộc chiến đấu với Đoàn 15/ B5 . Trong trận Đồi Tròn ( cách tây Cam Lộ 2 ki lô mét) , Đại đội đã diệt 12 xe tăng và nhiều sinh lực địch. Đơn vị đã được tặng thưởng 177 huân chương các loại. Hàng trăm cán bộ, chiến sỹ đạt danh hiệu " Dũng sỹ diệt Mỹ"," Dũng sỹ diệt xe cơ giới" cấp ưu tú..

Nguyễn Thị Triễn, xã đội phó Hưng Thuỷ (Lệ Thuỷ), sau quá trình nghiên cứu đường bay và quy luật hoạt động của địch, đêm 27 tháng 7 năm 1967 đã chỉ huy đơn vị bắn rơi 1 chiếc máy bay RF4C - đây là loại máy bay trinh sát điện tử chụp ảnh ban đêm của không quân Mỹ đầu tiên bị bắn rơi trên miền Bắc. Nguyễn Thị Triễn được Bác Hồ tặng chiếc đồng hồ đeo tay.

Ngày 30 tháng 7 năm 1967, dân quân hai xã Dương Thuỷ, Thái Thuỷ (Lệ Thuỷ) bắn rơi tại chỗ hai chiếc máy bay, trong đó dân quân Dương Thuỷ bắn rơi chiếc thứ 300 của tỉnh. Ngày 10 tháng 3 năm 1967, dân quân gái Võ Ninh ( Quảng Ninh) và Đại Phong (Phong Thuỷ - Lệ Thuỷ) sử dụng súng 12,7ly bắn rơi tại chỗ 2 chiếc F4H bắt sống hai giặc lái. Ngày 06 tháng 12 năm 1967, Nguyễn Thị Xuân, xã Quảng Phúc (Quảng Trạch), một mình, một đại liên bắn rơi 1 F4H bằng 23 viên đạn. Ngày 17 tháng 02 năm 1967, Phân đội trực chiến lão dân quân Đức Ninh bắn rơi 1 chiếc F4H ban đêm. Phân đội gái Xuân Ninh (Quảng Ninh) 17 ngày bắn rơi 2 chiếc F4H. Những chiến công đó chứng minh: lực lượng vũ trang địa phương, nòng cốt của cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình ngày càng phát triển lên đỉnh cao mới.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, địch dồn sức phản kích quyết liệt. Trên chiến trường Trị - Thiên, bộ đội ta vừa thiếu ăn, thiếu vũ khí . Bộ Tư lệnh mặt trận B5 yêu cầu Quảng Bình chi viện vũ khí cho chiến trường. Nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường được tỉnh giao cho Đảng bộ và nhân dân xã Cảnh Dương (Quảng Trạch) đảm nhiệm. Với tinh thần " Tất cả vì miền Nam thân yêu, vì trị Thiên ruột thịt", Đảng bộ và quân dân xã Cảnh Dương sẵn sàng nhận nhiệm vụ, hơn 100 người đủ các lứa tuổi từ 16 đến 60 xung phong sẵn sàng lên đường làm nhệm vụ. 72 người được chọn đưa vào đội vận tải đặc biệt này. Đoàn vận tải tổ chức 12 thuyền, mỗi thuyền 6 người, thuyền có trọng tải từ 2-3 tấn. Hội phụ nữ huy động chị em gom góp vải may buồm, động viên chồng con yên tâm lên đường. Các thợ đóng thuyền được triệu tập đến đẽo cột buồm, làm dây chằng, chèo, bánh lái, hạ be thuyền to xuống theo dáng thuyền đánh của của Quảng Trị. Mỗi thuyền đều có trang bị súng B40, B41, AK... Đoàn chuẩn bị tinh thần tư tưởng, dự kiến các tình huống xẩy ra trên biển và thống nhất cách khai báo khi lọt vào tay địch.

Ngày 26 tháng 02 năm 1968, Đoàn xuất phát từ Cảnh Dương vào Quang Phú (Lộc Ninh, Đồng Hới) nhận vũ khí. Sau 5 ngày học tập, vào một đêm đầu tháng 3 năm 1968, khi Đài tiếng nói Việt Nam báo gió mùa đông - bắc cấp 5 thì đoàn thuyền xuất phát. Một số cụ già sức yếu bị ốm phải ở lại Quang Phú, sau đó đưa 2 thuyền trở về quê, 10 thuyền còn lại lên đường.

Đêm gió mùa sóng to, trời tối, đoàn thuyền lặng lẽ cắt sóng hướng về chiến trường mà tiến. Suốt một đêm vượt sóng gió, mưa rét, đoàn thuyền cập bến Mũi Si (Vĩnh Linh). Ban chỉ huy tổ chức đưa thuyền ẩn nấp và nguỵ trang trước khi trời chưa sáng. Nhưng địch vẫn phát hiện được thuyền. Chúng huy động tàu chiến, máy bay bắn phá vào nơi đoàn trú đậu; 1 chiếc chìm, 1 chiếc bị hỏng. Ban chỉ huy quyết định: Thuỷ thủ của các thuyền bị máy bay , tàu chiến bắn chìm, bắn hỏng ở lại cùng dân quân và đồn công an nhân dân vũ trang trục vớt vũ khí. Đoàn thuyền vẫn quyết tâm căng buồm rẽ sóng tiến về hướng Nam. Do đã phát hiện được đoàn thuyền, nên địch tăng cường phương tiện vây bắt, ngăn chặn, đón lõng trên đường vào. Chúng dùng đèn pha, pháo sáng kiểm soát dọc bờ biển. Máy bay Mỹ thay nhau liên tục bắn pháo sáng, tìm mục tiêu. Đến Cát Sơn (nam Cửa Tùng), các thuyền phải hạ buồm. Phát hiện được đoàn thuyền, chúng dùng loa gọi hàng, vây ép ta...;4 thuyền ( 22 thuyền viên) do đoàn trưởng Đậu Thanh Long chỉ huy luồn lách vượt ra ngoài vòng vây địch đi vào phía nam Cửa Việt. Tranh thủ trời tối, sóng to, các thuyền trưởng cho thuyền đâm thẳng vào bờ đánh lạc hướng và tìm địa điểm chôn dấu vũ khí . Sau khi đoàn liên lạc được với mặt trận, đơn vị K8 đã đến tiếp nhận vũ khí chuyển về phía sau. Đoàn được đề nghị lên Quốc hội và Chính phủ tặng Huân chương Quân công và Huân chương chiến công. Chuyến đi mạo hiểm, cực kỳ gian khổ đó đã ghi thêm chiến công mới của Đảng bộ và quân dân Cảnh Dương trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước oanh liệt trên quê hương "Hai giỏi".

Sau tết Mậu thân, đáp ứng yêu cầu chiến trường, Quảng Bình thành lập Ban B để thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ 2 tỉnh Trị - Thiên kết nghĩa. Hoạt động của Ban B là đón tiếp cán bộ, nhân dân Trị - Thiên ra nghỉ ngơi, học tập; mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở cho 2 tỉnh, đưa đón cán bộ Trung ương và khu uỷ Trị - Thiên vào công tác. Ban còn thành lập bệnh viện B giành riêng để chữa bệnh cho cán bộ, bộ đội, du kích của 2 tỉnh bạn; góp phần xây dựng đoàn văn công giải phóng đưa vào phục vụ mặt trận Trị - Thiên.

Việc thành lập Ban B (Ban công tác miền Nam), một lần nữa biểu hiện tình cảm ruột thịt của quân và dân Quảng Bình đối với Trị - Thiên kết nghĩa trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 25 tháng 6 năm 1968, vào lúc 19 giờ 45 phút, đại đội 367, bộ đội địa phương và dân quân huyện Minh Hoá cùng với Trung đoàn 280 đã bắn rơi tại chỗ một máy bay F4H tại Rú Tó Tò, 2 tên giặc lái đền tội. Đây là chiếc máy bay thứ 3.000 bị bắn rơi trên miền Bắc. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã tặng cờ đơn vị bộ đội địa phương huyện Minh Hoá.

Ngày 27 tháng 6 năm 1968, Hồ Chủ tịch gửi thư khen ngợi đồng bào, chiến sỹ và nhân dân Quảng Bình bắn rơi chiếc thứ 3.000 máy bay Mỹ trên miền Bắc Thư Bác viết:



" Tôi đặc biệt khen ngợi quân và dân Quảng Bình đã đánh giỏi, hạ chiếc máy bay thứ 3.000 và gửi tặng đơn vị X một lá cờ danh dự. Đó là thành tích chung của quân và dân miền Bắc ta.

Giặc Mỹ đã thua to. Nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tội ác chiến tranh xâm lược miền Nam, phá hoại miền Bắc.

Toàn thể đồng bào, chiến sỹ và cán bộ cả nước chớ vì thắng lợi mà chủ quan. Phải luôn luôn cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ, ra sức chiến đấu mạnh, sản xuất tốt, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, quyết đánh cho giặc Mỹ thất bại đến cùng.

Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta"

Chào thân ái và quyết thắng.(A183:260).

Thư Bác vừa biểu dương, vừa kêu gọi quân dân Quảng Bình cùng với cả nước vượt qua gian khổ, khó khăn, xông lên phía trước giành thắng lợi hoàn toàn.

Sau đợt tấn công Hè 1968 của quân và dân miền Nam, đế quốc Mỹ càng lồng lộn đánh phá dã man hơn. Chúng tập trung 50% trong tổng số máy bay của không quân đánh phá Quân khu 4, nhất là địa bàn Quảng Bình. Giặc Mỹ sử dụng các loại bom, đạn, kể cả đạn đại bác cực nhanh 406ly bắn vào vùng Cộn, đường chiến lược 15; pháo 175ly ở bờ nam giới tuyến cũng dồn dập bắn ra vùng đông dân và các trục đường giao thông ở Lệ Thuỷ. Trong 6 tháng, đế quốc Mỹ đã cho máy bay bắn phá 29.685 lần (có 16.291 lần ban đêm), ném 532.916 quả bom phá, 596 quả bom cháy, 6.752 quả bom từ trường. Tàu chiến pháo kích 536 lần ( có 216 lần ban đêm) với 22.295 viên đạn(1). Số lần đánh phá và số lượng bom đạn dội xuống Quảng Bình bằng các năm 1965, 1966, 1967 cộng lại.

Máy bay Mỹ còn đánh sâu và mở rộng diện bắn phá vào các vùng đông dân cư. Xã Phong Thuỷ ( Lệ Thuỷ) ở xa biển nhưng toàn xã đã bị 182 quả đạn pháo từ các khu trục hạm bắn vào. Đội 1 ( chòm Vĩnh Thái) có đêm chúng đánh 23 trận liên tiếp. Ở Bố Trạch, máy bay Mỹ thả bom cháy, bom bi, bắn rốc - két liên tiếp nhiều ngày, chà đi xát lại san bằng 15 thôn trong huyện(3). Xã Đức Ninh chỉ một đêm địch ném xuống 44 quả bom từ trường để ngăn chặn giao thông không cho ta bốc dỡ hàng hoá...

Suốt 6 tháng đầu năm 1968, ta đã huy động mọi phương tiện, kể cả biện pháp dùng bè mảng để chở hàng hoá, kéo xăng ngược dòng sông Gianh, nhưng chỉ tạo được 20 % chân hàng cho đoàn 559. Hàng địa phương chủ yếu dựa vào các đơn vị vận tải thuỷ trên sông Gianh, Lý Hoà, Long Đại, Kiến Giang.

Để góp phần giải phóng hàng, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 điều Trung đoàn 249, Tiểu đoàn 27 công binh sử dụng xe lội nước K62 chuyển tải 1.000 tấn hàng và đưa 60 xe vận tải vượt sông Gianh. Ca nô " Bất khuất" của Trung đoàn 249 công binh dùng tốc độ cao gây nổ được hàng chục quả thuỷ lôi ở khu vực bến phà Long Đại.

Miền tây Trị - Thiên cũng chịu đựng những thử thách gay gắt. Do chất độc của Mỹ - Nguỵ gây ra, hàng ngàn đồng bào, cán bộ, bộ đội thiếu ăn. Ở Quảng Bình đang kỳ giáp hạt, lương thực bảo đảm đời sống cho nhân dân và lực lượng vũ trang cũng đang đứng trước những thử thách to lớn. Quân khu Trị - Thiên điện ra yêu cầu Quảng Bình chi viện lương thực. "Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời"; " Vì Trị - Thiên không tiếc máu xương", Tỉnh uỷ Quảng Bình bàn biện pháp vay gạo của nhân dân gửi gấp ra chiến trường. Các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh thực hiện ăn bữa cơm , bữa cháo, góp gạo cho chiến trường. Qua hai tháng thực hiện chủ trương " Trút gạo trong nồi cho Trị- Thiên đánh Mỹ", mùa giáp hạt năm 1968, Quảng Bình đã huy động được 2.600 tấn gạo kịp thời gửi vào cho Trị- Thiên. Các binh trạm 12, 14, 16 đã chuyển số gạo của Quảng Bình vào chiến trường.

Trước âm mưu thủ đoạn đánh phá của địch, để giải toả đường và hàng, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho các lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng trên địa bàn Quân khu 4 , kiên quyết đánh bại " chiến dịch ném bom hạn chế" của đế quốc Mỹ, đảm bảo giao thông vận tải thông suốt, đáp ứng mọi nhu cầu của tiền tuyến. Ngày 21 tháng 7 năm 1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ tư lệnh Quân khu 4 và các lực lượng giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu : "Đảm bảo giao thông vận tải là công tác trung tâm đột xuất lúc này. Trên địa bàn Quân khu 4, công tác ấy càng trở nên cực kỳ quan trọng. Bằng mọi cách cần phải cố gắng vượt bậc, tranh thủ từng ngày, từng giờ, bảo đảm cho kỳ được giao thông thông suốt để khỏi ảnh hưởng đến nhiệm vụ của tiền phương".

Vừa chiến đấu, vừa sản xuất, ngày 03 tháng 8 , quân và dân Quảng Bình phối hợp với Trung đoàn 214 pháo cao xạ bắn rơi chiếc máy bay thứ 500 trên địa bàn của tỉnh. Ngày 08 tháng 8 năm 1968, Hồ Chủ tịch gửi thư khen đồng bào, bộ đội và cán bộ tỉnh Quảng Bình. Thư Bác viết:

" Tính đến ngày 03 tháng 8 năm 1968, Quảng Bình đã lập chiến công vẻ vang, bắn rơi 500 máy bay giặc Mỹ, bắn chìm và bắn cháy 42 tàu chiến các loại. Từ cuối tháng 3 năm 1968, giặc Mỹ đánh phá Quảng Bình dã man hơn trước, song vỏ quít dày có móng tay nhọn. Từ đầu tháng 4 năm 1968 đến nay, Quảng Bình đã bắn rơi thêm 100 máy bay Mỹ.

Quảng Bình rất hăng hái trên mặt trận sản xuất và giao thông vận tải, luôn luôn cố gắng làm tròn nghĩa vụ với tiến tuyến.

Bác vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình. Bác vui mừng báo tin là Quốc hội vừa quyết định tặng thưởng Quảng Bình thêm một Huân chương độc lập hạng nhì nữa.

Nhân dịp này, Bác nhắc nhủ đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng

Bình chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, phải luôn luôn cảnh giác, ra sức thi đua chiến đấu giỏi, làm tốt công tác giao thông vận tải và phòng không nhân dân cho thật tốt để giành nhiều thắng lơị to lớn hơn nữa, cùng với đồng bào cả nước kiên quyết tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược"(A183:262).

Bốn năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đây là lần thứ 7 Bác gửi thư khen đồng bào, bộ đội, cán bộ Quảng Bình. Phấn khởi trước sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, Tỉnh uỷ Quảng Bình phát động đợt sinh hoạt chính trị " Vinh dự to lớn, trách nhiệm nặng nề" và đề ra khẩu hiệu hành động " Sẵn sàng hy sinh trước giờ thắng lợi, sẵn sàng trút gạo trong nồi vì tiến tuyến".

Phong trào bắn máy bay trong các lực lượng vũ trang ngày càng phát triển, xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhất là lực lượng dân quân, tự vệ. Bên cạnh các loại vũ khí bộ binh thông thường, dân quân , tự vệ đã tích cực học tập để sử dụng vũ khí kỹ thuật hịện đại, nâng cao hiệu suất chiến đấu. Về quy mô chiến đấu, các huyện đã hình thành cụm 12,7 ly , có hai đến ba xã phối hợp, chiến đấu tập trung, chỉ huy thống nhất, cơ động trong địa bàn từng huyện. Có nơi tổ chức thành từng cụm hỗn hợp lâm thời gồm pháo cao xạ, hoả lực súng máy phòng không của bộ đội, dân quân, tự vệ vào thời điểm nhất định để bảo vệ các mục tiêu. Các hình thức nghi binh lừa địch, dụ địch đánh vào chổ trống được chú trọng phát triển và nâng cao

Năm 1968 là năm địch tập trung lực lượng cao nhất để đánh phá vào địa bàn Quảng Bình. Đây cũng là năm cuộc chiến tranh nhân dân trong tỉnh phát triển đến đỉnh cao, giành được thắng lợi to lớn. Chỉ trong 10 tháng ( từ tháng 01 đến tháng 10 năm 1968), quân và dân Quảng Bình đã bắn rơi 191 máy bay Mỹ ( riêng dân quân, tự vệ bắn rơi 50 chiếc), bắt sống 22 giặc lái, gần gấp đôi năm 1967. Lực lượng vũ trang địa phương càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn, càng trưởng thành. Năm 1968, lực lượng dân quân, tự vệ có 54.700 người, gấp 2 lần năm đầu chiến tranh, đạt tỷ lệ 13,1% so với dân số ( tỷ lệ nữ đạt 32,6%, tự vệ đạt 65,1% so với tổng số công nhân viên chức). Năm 1968 đã xây dựng được 161đại đội, tăng gấp 2 lần năm 1967; có 95 phân đội 12,7ly thường trực chiến đấu thường xuyên. Có 79 đơn vị dân quân đã tham gia chiến đấu từ tháng 6 năm 1968 đến hết cuộc chiến tranh. Toàn tỉnh có 13 phân đội dân quân gái , 2 phân đội lão dân quân đánh máy bay và 1 đại đội pháo binh dân quân gái đánh tàu chiến địch.

Cùng với nhiệm vụ chiến đấu, các đơn vị bộ đội địa phương vẫn tranh thủ thời gian sản xuất được 40 tấn lương thực, 72 tấn rau xanh, 22 tấn thịt, gửi tiền tiết kiệm chống Mỹ 130.000 đồng.

Những thắng lợi trên mặt trận kinh tế - văn hoá - xã hội không chỉ đáp ứng công tác hậu cần tại chỗ, phục vụ đắc lực nhu cầu chiến đấu, sản xuất, đời sống của nhân dân, mà tạo nên cơ sở vật chất, kỹ thuật, dần dần làm cho nền kinh tế của tỉnh giữ được cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài. Những thắng lợi nói trên là thực tiễn sinh động của cuộc chiến tranh nhân dân trên địa bàn tỉnh, là biểu hiện sức mạnh của 40 vạn nhân dân Quảng Bình gắn bó chặt chẽ với Đảng tiền phong, biết đánh, biết thắng địch trong những điều kiện hết sức gay go, gian khổ.



Từ khi Hồ Chủ tịch gửi thư khen đồng bào, bộ đội, cán bộ Quảng Bình bắn rơi 100 máy bay Mỹ ( ngày 17 tháng 7 năm 1965), Tỉnh uỷ đã phát động thi đua và phong trào " 2 giỏi" ra đời trở thành động lực chính của cuộc chiến tranh nhân dân địa phương. Phong trào thi đua " 2 giỏi" là chiến lược xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Qua thử thách của cuộc chiến tranh, phong trào thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi đã trở thành cao trào cách mạng của quần chúng chống Mỹ, cứu nước. Phong trào thi đua " 2 giỏi" đã mang lại kết quả lớn về nhiều mặt: Chiến đấu, sản xuất , khoa học kỹ thuật, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, xây dựng tổ chức. Cũng từ điểm xuất phát quan trọng đó, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam được thể hiện rõ trong mỗi con người trong cuộc chiến đấu sống còn với kẻ thù xâm lược.


tải về 413.47 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương