CHÚa nhậT 4 MÙa chay c lời Chúa: Gs 5,9a. 10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1 11-32 MỤc lụC



tải về 292.79 Kb.
trang12/12
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2016
Kích292.79 Kb.
#32045
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

20. Chú giải của Noel Quesson.


Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này

Những câu này dẫn nhập cho "ba dụ ngôn về lòng thương xót". Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ - ôi! Chiếc "bàn" kỳ diệu biết bao.

Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai

Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha mới là nhân vật chính: "Một người kia có hai đứa con trai". Đó là dụ ngôn "người cha hoang phí” mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!


1. Hồi thứ nhất: Thái độ của người cha với người “con út”.

Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con

Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực - khiếu nại.

Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình dung ra.



  1. Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải" của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “'Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào". Thái độ này không phải ngày nay mới có.

  2. Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.

  3. Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần tuý con người, thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.

Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: "Nhét cho đầy bụng". Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tinh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.


Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để

Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa", “ông chạnh lòng thương", "ông chay đến, ông ôm hôn". Có lẽ việc "chạy đến" là cử chỉ mạnh nhất trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.


Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương "hoán cải". Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ "ăn năn" của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong ngôn sứ Hôsê: "Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung". Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: "Dù các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!" Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức Giêsu!

Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!

Người cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ông ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.


Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng

Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta" thành "em con". Chết - sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?


Ôi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng" của Thiên Chúa! "Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó là điều mà người anh cả sắp từ chối.
2. Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người “con cả”.

Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ

Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: "Ông bước ra năn nỉ". Kinh Thánh thường trở lại đề tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ người con cả (St 2,36,2; Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4). Như vậy, người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, "những người thợ giờ chót" sẽ thay chỗ những người đầu tiên "làm vườn nho" (Mt 20,18). Cũng như thế, "người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr 15,18). Y như vậy "dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi người. "Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?" (Mt 20,15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.


Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!

Như vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng.


Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.

Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây, khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo Conêliô: "Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu - Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). "Không dành đặc ân, cho ai cả". Mọi người đều được thương yêu.


21. Chú giải của Fiches Dominicales


DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI PHARISÊU VÀ CÁC KINH SƯ


VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị xúc phạm.

Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận: "Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày Sabát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù" gom nhặt "ngoài công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ" (14,l5-24). Và rồi, họ cảm thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người: "Tiếp đón những người tội lỗi". Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong tục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt -Người "ăn uống với họ!" Bởi vậy, những người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người" như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.


Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.
Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mất rồi lai tìm thấy".
Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan trọng có tính quyết định.
2. Trong dụ ngôn ấy, người con thứ đã “mất rồi lại tìm thấy”.

Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo" cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn" mà không được.


Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi".
Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọii thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
3. Còn người anh trong tâm trạng giận dữ

Người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".



4. Lòng quảng đại phi thường của người cha

Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra đến hai lần.


Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy”.
Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người? Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
5. Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh.

Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác hoạ cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.


Huguses Cousin kết luận: "Thính giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được".
BÀI ĐỌC THÊM:

1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta

Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ?

Như dân Israel vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.
Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.

Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?


Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hoà giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.
2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo.

(H. Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 17- 18).

Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.


Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình. Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa".

Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?



Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá huỷ ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hoá"
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.
Như vậy thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi.
Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.


.



Каталог: sites -> default -> files -> Documents -> 201303
Documents -> GIÁo xứ jeanne d’arc (NGÃ SÁU) : 116a hùng Vương, Phường 9, Quận : 38557616.  Giờ Thánh Lễ
201303 -> Ban biên tập báo mẹ hiềN
Documents -> TỔng giáo phận thành phố HỐ chí minh bản tin họ ĐẠo jeanne d’arc (NGÃ SÁu chợ LỚN) : 116a hùng Vương, Phường 9, Quận 5
Documents -> TỔng giáo phận thành phố HỐ chí minh bản tin họ ĐẠo jeanne d’arc
Documents -> TỔng giáo phận thành phố HỐ chí minh bản tin họ ĐẠo jeanne d’arc
Documents -> TẬp san hiệp sống tin mừng tháng 12. 2015 TƯ liệu học tập của hiệp hội thánh mẫu lưu hành nội bộ NỘi dung
Documents -> KÕt cÊu bª t ng Vµ bª t ng cèt thÐp L¾p ghÐp
Documents -> TỔng giáo phận thành phố HỐ chí minh bản tin họ ĐẠo jeanne d’arc
Documents -> Ban biên tập báo mẹ hiềN

tải về 292.79 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương