Chữa Bệnh Bằng Những Lời Niệm Chú Từ Qur’an Và Sunnah


Giải bùa ngải và yêu thuật



tải về 1.55 Mb.
trang3/10
Chuyển đổi dữ liệu01.01.2018
Kích1.55 Mb.
#35216
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Giải bùa ngải và yêu thuật

Giải bùa ngải và yêu thuật được chia thành hai dạng.



  • Dạng thứ nhất: Phòng ngừa bùa ngải và yêu thuật:

  1. Thực hiện tất cả các bổn phận và nghĩa vụ hành đạo và thờ phượng, bỏ tất cả những điều Haram, ăn năn và sám hối về những việc làm xấu và tội lỗi.

  2. Thường xuyên đọc Qur’an, nên lập thành thời khóa biểu hàng ngày cho việc đọc xướng Qur’an.

  3. Dọc thường xuyên các lời tụng niệm, các lời Du-a được giáo lý hướng dẫn và chỉ dạy. Tiêu biểu như:

  • Đọc mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều ba lần:

« بِسْمِ اللهِ الَّذِي لا يَضُرُّ مَعَ اسْمِهِ شَيْءٌ في الأرْضِ وَلاَ في السَّمَاءِ وَهُوَ السَّمِيعُ العَلِيمُ »

“Bismillah allazdi la yadhurru ma’a ismihi shay-un fil-ardh wa la fis-samaa’ wa huwas-sami’ul’ali-m”.

Nhân danh Allah, Đấng mà với đại danh của Ngài không có bất cứ thứ gì trong trời đất có thể gây hại, và Ngài là Đấng Hằng Nghe và Hằng Biết”.(11)


  • Đọc sau mỗi lễ nguyện Salah bắt buộc, khi đi ngủ và sáng chiều A-yah Kursi:(12)

﴿ٱللَّهُ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ ٱلۡحَيُّ ٱلۡقَيُّومُۚ لَا تَأۡخُذُهُۥ سِنَةٞ وَلَا نَوۡمٞۚ لَّهُۥ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِۗ مَن ذَا ٱلَّذِي يَشۡفَعُ عِندَهُۥٓ إِلَّا بِإِذۡنِهِۦۚ يَعۡلَمُ مَا بَيۡنَ أَيۡدِيهِمۡ وَمَا خَلۡفَهُمۡۖ وَلَا يُحِيطُونَ بِشَيۡءٖ مِّنۡ عِلۡمِهِۦٓ إِلَّا بِمَا شَآءَۚ وَسِعَ كُرۡسِيُّهُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَۖ وَلَا يَ‍ُٔودُهُۥ حِفۡظُهُمَاۚ وَهُوَ ٱلۡعَلِيُّ ٱلۡعَظِيمُ ٢٥٥﴾ [سورة البقرة: 255]

{Ollo-hu la ila-ha illa huwal-hayyul-qoyyu-m, la ta’khuzduhu sinatu-wala nawm, lahu ma fis-sama-wa-ti wama fil-ardh. Man zdallazdi yashfa’u ‘indahu illa bi izdnih, ya’lamu ma bayna aydi-him wa ma kholfahum, wa la yuhi-tu-na bi shay-im min ‘ilmihi illa bima shaa’, wasi’a kursi-yuhus-sama-wa-ti wal-ardh, wa la ya-uduhu hifzhuhuma, wa huwal-ali-yul-azhi-m.}

{Allah! Không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Đấng Hằng Sống, Đấng Tự Hữu và Nuôi dưỡng vạn vật, Ngài không buồn ngủ và cũng không ngủ. Mọi vật trong các tầng trời và trái đất đều là của Ngài. Ai là người có thể can thiệp được với Ngài nếu không có phép của Ngài? Ngài biết điều xảy ra trước họ và điều xảy ra sau họ. Họ không thể bao quát được sử hiểu biết của Ngài về bất cứ điều gì ngoại trừ điều nào Ngài muốn cho họ biết. Ngai vàng của Ngài bao trùm các tầng trời và đất; và việc quản lý trời đất không làm cho Ngài mỏi mệt vì Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ Đại.} (Chương 2 – Al-Baqarah, câu 255).


  • Đọc ba lần lúc sáng chiều và lúc đi ngủ ba chương Kinh: 112 – Al-Ikhlaass, 113 – Al-Falaq, 114- Annaas.

﴿ قُلۡ هُوَ ٱللَّهُ أَحَدٌ ١ ٱللَّهُ ٱلصَّمَدُ ٢ لَمۡ يَلِدۡ وَلَمۡ يُولَدۡ ٣ وَلَمۡ يَكُن لَّهُۥ كُفُوًا أَحَدُۢ ٤ ﴾ [سورة الإخلاص: 1- 4]

{Qul huwollo-hu ahad. Ollo-hus-samad. Lam yalid walam yu-lad. Wa lam yakul-lahu kufuwan ahad.}

{Hãy nói đi (Muhammad!) rằng Ngài là Allah, là một Đấng duy nhất. Allah là Đấng tự hữu, độc lập và tất cả phải lệ thuộc. Ngài không sinh con cũng không do ai sinh ra. Và không bất cứ điều gì có thể so sánh với Ngài.} (Chương 112 – Al-Ikhlas, câu 1 - 4).

﴿قُلۡ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلۡفَلَقِ ١ مِن شَرِّ مَا خَلَقَ ٢ وَمِن شَرِّ غَاسِقٍ إِذَا وَقَبَ ٣ وَمِن شَرِّ ٱلنَّفَّٰثَٰتِ فِي ٱلۡعُقَدِ ٤ وَمِن شَرِّ حَاسِدٍ إِذَا حَسَدَ ٥﴾ [سورة الفلق: 1 - 5]

{Qul a’u-zdu birabbil-falaq. Min sharri ma kholaq. Wa min sharri gha-siqin izda waqab. Wa min sharrin-naffa-tha-ti fil’uqod. Wa min sharri ha-sindin izda hasad.}

{Hãy bảo họ: “Tôi cầu xin Thượng Đế của rạng đông phù hộ và che chở khỏi sự tác hại của những vật mà Ngài đã tạo, khỏi những tác hại của màn đêm khi nó bao phủ, khỏi sự tác hại của những kẻ phù phép vào những chiếc gút thắt, và khỏi sự hãm hại của những kẻ đố kỵ khi họ ganh tị.”} (Chương 113 – Al-Falaq, câu 1 – 5).

﴿قُلۡ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلنَّاسِ ١ مَلِكِ ٱلنَّاسِ ٢ إِلَٰهِ ٱلنَّاسِ ٣ مِن شَرِّ ٱلۡوَسۡوَاسِ ٱلۡخَنَّاسِ ٤ ٱلَّذِي يُوَسۡوِسُ فِي صُدُورِ لنَّاسِ ٥ مِنَ ٱلۡجِنَّةِ وَٱلنَّاسِ ٦﴾ [سورة الناس: 1 - 6]

{Qul a’u-zdu birabbin-na-s. Malikin-na-s. Ila-hin-na-s. Min sharril-waswa-sil-khonna-s. Allazdi yuwaswisu fi sudu-rin-na-s. Minal-jinnati wanna-s.}

{Hãy bảo họ: “Tôi cầu xin Thượng Đế của nhân loại, Đức Vua của nhân loại, Đấng Thờ phượng của nhân loại, phù hộ và che chở tránh khỏi sự hãm hại của kẻ thì tháo (lời xúi giục, phù phép) rồi lẫn mất, khỏi những kẻ đã thì thào (những điều tác hại) vào lòng người, từ loài Jinh và loài người”.} (Chương 114 – Annas, câu 1 – 6).


  • Đọc 100 lần mỗi ngày câu tụng niệm(13):

«لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ وَحْدَهُ لا شَرِيكَ لَهُ، لَهُ الْمُلْكُ، وَلَهُ الْحَمْدُ، وَهُوَ عَلَى كُلِّ شَيْءٍ قَدِيرٌ »

“La ila-ha ilollo-hu wahadahu la shari-kalah, lahul-mulku, wa lahul-hamdu, wa huwa ala kulli shay-in qodi-r”

Không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah, Đấng Duy Nhất không có đối tác ngang vai, mọi vương quyền, mọi sự ca ngợi và tán dương đều thuộc về Ngài, và Ngài là Đấng Toàn Năng trên mọi thứ”.


  • Ngoài ra, nên cố gắng duy trì các lời tụng niệm sáng chiều, các lời tụng niệm sau các lễ nguyện Salah, các lời tụng niệm khi đi ngủ và thức dậy, các lời tụng niệm khi vào nhà cũng như khi rời khỏi nhà, các lời tụng niệm khi bước lên phương tiện đi lại, các lời tụng niệm khi vào và ra khỏi Masjid, lời Du-a khi vào và ra khỏi nhà vệ sinh, lời Du-a cho người gặp phải tai ương và biến cố, ...

Quả thật, tôi đã biên soạn nhiều lời tụng niệm cũng như các lời Du-a trong cuốn sách “Hisnu Al-Muslim” và sắp xếp chúng theo các hoàn cảnh, tình huống, thời điểm và giờ giấc. Và không phải nghi ngờ gì nữa rằng việc giữ gìn và duy trì các lời tụng niệm đó là một trong những nguyên nhân ngăn chặn sự gây hại của bùa ngải và yêu thuật và tà ma dưới sự cho phép của Allah Tối Cao; và việc duy trì thường xuyên các lời tụng niệm và những Du-a đó cũng là một trong cách chữa lành bệnh(14).

  1. Ăn bảy quả chà là loại Ajwah mỗi ngày vào mỗi buổi sáng trước khi ăn bất cứ thứ gì nếu có thể; bởi Thiên sứ của Allah e đã nói:

«مَنْ اصْطَبَحَ بِسَبْعِ تَمَرَاتٍ عَجْوَةً لَمْ يَضُرَّهُ ذَلِكَ الْيَوْمِ سُمٌّ وَلَا سِحْرٌ» رواه البخاري مع ا لفتح 10/247 برقم 5445 ومسلم 3/1618 برقم 2047.

Ai sáng thức dậy ăn bảy quả chà là loại Ajwah thì không có bất kỳ chất độc nào hay bất cứ bùa ngải yêu thuật nào gây hại được y trong ngày hôm đó” (Albukhari 10/247 số 5445, Muslim 3/1618 số 2047).

Và tốt hơn nữa nếu chà là đó thuộc giống chà là Madinah được trồng ở những nơi có đá đen hay dung nham, giống như được nói trong lời dẫn của Muslim. Sheikh của chúng tôi, học giả uyên bác Abdul-Aziz bin Abdullah bin Baaz  thấy rằng tất cả các giống chà là Madinah đều có đặc điểm và tính chất này bởi lời của Thiên sứ e:

« مَنْ أَكَلَ سَبْعَ تَمَرَاتٍ مِمَّا بَيْنَ لاَبَتَيْهَا حِينَ يُصْبِحُ لَمْ يَضُرَّهُ سُمٌّ حَتَّى يُمْسِىَ » رواه مسلم 3/1618 رقم 2047.

Ai ăn bảy quả chà là từ nơi nằm giữa khu vực có đá đen15 vào lúc sáng thì không có một độc tố nào có thể gây hại cho y cho đến chiều” (Muslim 3/1618 số 2047).

Và Sheikh  cũng thấy rằng hy vọng người nào ăn bảy quả chà là khác chà là Madinah cũng được hồng phúc này.



  • Dạng thứ hai: Giải bùa ngải và yêu thuật sau khi bị ám, có nhiều hình thức giải bùa ngải và yêu thuật.

  • Hình thức thứ nhất: Tháo gỡ và hủy những miếng bùa thuật, những vật được ém bùa nếu như biết chỗ của chúng bằng những phương pháp được phép theo giáo lý Islam. Đây là cách giải bùa yêu thông dụng nhất.

  • Hình thức thứ hai: Giải bùa ngải và yêu thuật bằng các lời niệm chú.

  • Thứ nhất: Nghiền nát bảy lá táo còn tươi xanh bằng hai cục đá (có thể giã nhuyễn bằng cối chày hoặc bất cứ dụng cụ gì) rồi đổ nước vào với lượng đủ để tắm và đọc vào trong đó các lời sau đây:

أَعُوْذُ بِاللهِ مِنَ الشَّيْطَانِ الرَّجِيْمِ، ﴿ٱللَّهُ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ ٱلۡحَيُّ ٱلۡقَيُّومُۚ لَا تَأۡخُذُهُۥ سِنَةٞ وَلَا نَوۡمٞۚ لَّهُۥ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِۗ مَن ذَا ٱلَّذِي يَشۡفَعُ عِندَهُۥٓ إِلَّا بِإِذۡنِهِۦۚ يَعۡلَمُ مَا بَيۡنَ أَيۡدِيهِمۡ وَمَا خَلۡفَهُمۡۖ وَلَا يُحِيطُونَ بِشَيۡءٖ مِّنۡ عِلۡمِهِۦٓ إِلَّا بِمَا شَآءَۚ وَسِعَ كُرۡسِيُّهُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَۖ وَلَا يَ‍ُٔودُهُۥ حِفۡظُهُمَاۚ وَهُوَ ٱلۡعَلِيُّ ٱلۡعَظِيمُ ٢٥٥ ﴾ [سورة البقرة: 255]

A’u-zdu billa-hi minash-shayto-nir-roji-m, {Ollo-hu la ila-ha illa huwal-hayyul-qoyyu-m, la ta’khuzduhu sinatu-wala nawm, lahu ma fis-sama-wa-ti wama fil-ardh. Man zdallazdi yashfa’u ‘indahu illa bi izdnih, ya’lamu ma bayna aydi-him wa ma kholfahum, wa la yuhi-tu-na bi shay-im min ‘ilmihi illa bima shaa’, wasi’a kursi-yuhus-sama-wa-ti wal-ardh, wa la ya-uduhu hifzhuhuma, wa huwal-ali-yul-azhi-m.}

Cầu xin Allah che chở khỏi shaytan xấu xa, {Allah! Không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Đấng Hằng Sống, Đấng Tự Hữu và Nuôi dưỡng vạn vật, Ngài không buồn ngủ và cũng không ngủ. Mọi vật trong các tầng trời và trái đất đều là của Ngài. Ai là người có thể can thiệp được với Ngài nếu không có phép của Ngài? Ngài biết điều xảy ra trước họ và điều xảy ra sau họ. Họ không thể bao quát được sử hiểu biết của Ngài về bất cứ điều gì ngoại trừ điều nào Ngài muốn cho họ biết. Ngai vàng của Ngài bao trùm các tầng trời và đất; và việc quản lý trời đất không làm cho Ngài mỏi mệt vì Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ Đại.} (Chương 2 – Al-Baqarah, câu 255).

﴿وَأَوۡحَيۡنَآ إِلَىٰ مُوسَىٰٓ أَنۡ أَلۡقِ عَصَاكَۖ فَإِذَا هِيَ تَلۡقَفُ مَا يَأۡفِكُونَ ١١٧ فَوَقَعَ ٱلۡحَقُّ وَبَطَلَ مَا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ١١٨ فَغُلِبُواْ هُنَالِكَ وَٱنقَلَبُواْ صَٰغِرِينَ ١١٩ وَأُلۡقِيَ ٱلسَّحَرَةُ سَٰجِدِينَ ١٢٠ قَالُوٓاْ ءَامَنَّا بِرَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ١٢١ رَبِّ مُوسَىٰ وَهَٰرُونَ ١٢٢﴾ [سورة الأعراف: 117 - 122]

{Wa awhayna ila Mu-sa an alqi ‘aso-ka, fa-izda hiya talqofu ma ya’fiku-n. Fawaqo’al-hoqqu wa batola ma ka-nu ya’malu-n. Faghulibu huna-lika wanqolabu so-ghiri-n. Wa ulqiyas-saharotu sa-jidi-n. Qo-lu amanna birabbil’a-lami-n. Rabbi Musa wa Haru-n}.

{Và TA (Allah) mặc khải cho Musa rằng ngươi hãy ném cây gậy của ngươi xuống. Tức khắc nó nuốt trọn các vật mà họ (những nhà phủ thủy của Fir’au) là làm. Bởi thế, sự thật đã toàn thắng còn những vật hư ảo mà họ đã làm ra trở thành vô hiệu. Do đó, họ đã bị thua cuộc và bị xem thường. Và các tên phù thủy (của Fir’aun) sụp xuống quì lạy vì khuất phục. Họ nói: “Chúng tôi xin tin tưởng nơi Thượng Đế của vũ trụ và muôn loài, Thượng Đế của Musa và Harun”.} (Chương 7 – Al-Araf, câu 117 – 122).

﴿وَقَالَ فِرۡعَوۡنُ ٱئۡتُونِي بِكُلِّ سَٰحِرٍ عَلِيمٖ ٧٩ فَلَمَّا جَآءَ ٱلسَّحَرَةُ قَالَ لَهُم مُّوسَىٰٓ أَلۡقُواْ مَآ أَنتُم مُّلۡقُونَ ٨٠ فَلَمَّآ أَلۡقَوۡاْ قَالَ مُوسَىٰ مَا جِئۡتُم بِهِ ٱلسِّحۡرُۖ إِنَّ ٱللَّهَ سَيُبۡطِلُهُۥٓ إِنَّ ٱللَّهَ لَا يُصۡلِحُ عَمَلَ ٱلۡمُفۡسِدِينَ ٨١ وَيُحِقُّ ٱللَّهُ ٱلۡحَقَّ بِكَلِمَٰتِهِۦ وَلَوۡ كَرِهَ ٱلۡمُجۡرِمُونَ ٨٢﴾ [سورة يونس: 79 - 82]

{Wa qo-la fir’awnu’-tu-ni bikulli sa-hirin ‘ali-m. Falamma ja-assaharotu qo-la lahum mu-sa alqu- ma antum mulqu-n. Falamma alqu qo-la mu-sa ma ji’tum bihis-sahru innollo-ha sayubtiluhu innollo-ha la yuslihu ‘amalal-mufsidi-n. Wa yuhiqqul-lo-hul-hoqqo bikalima-tihi wa law karihal-mujrimu-n.}

{Và Fir’aun nói (với các chư thần của hắn): “Hãy triệu đến cho ta tất cả các nhà phủ thủy tài giỏi”. Bởi thế, khi các nhà phù thủy đền trình diện, Musa bảo họ: “Quí vị hãy ném xuống đất bất cứ bửu bối nào mà quí vị muốn ném”. Thế là, khi họ ném xuống, Musa bảo: “Cái mà quí vị mang đến là trò ảo thuật. Chắc chắn Allah sẽ làm nó thành vô dụng và chắc chắn Allah không để cho việc làm của những kẻ thối nát được thành công”. Và Allah chứng minh và thiết lập điều Chân lý bằng lời phán của Ngài dẫu những kẻ tội lỗi ghét điều đó.} (Chương 10 – Yunus, câu 79 – 82).

﴿قَالُواْ يَٰمُوسَىٰٓ إِمَّآ أَن تُلۡقِيَ وَإِمَّآ أَن نَّكُونَ أَوَّلَ مَنۡ أَلۡقَىٰ ٦٥ قَالَ بَلۡ أَلۡقُواْۖ فَإِذَا حِبَالُهُمۡ وَعِصِيُّهُمۡ يُخَيَّلُ إِلَيۡهِ مِن سِحۡرِهِمۡ أَنَّهَا تَسۡعَىٰ ٦٦ فَأَوۡجَسَ فِي نَفۡسِهِۦ خِيفَةٗ مُّوسَىٰ ٦٧ قُلۡنَا لَا تَخَفۡ إِنَّكَ أَنتَ ٱلۡأَعۡلَىٰ ٦٨ وَأَلۡقِ مَا فِي يَمِينِكَ تَلۡقَفۡ مَا صَنَعُوٓاْۖ إِنَّمَا صَنَعُواْ كَيۡدُ سَٰحِرٖۖ وَلَا يُفۡلِحُ ٱلسَّاحِرُ حَيۡثُ أَتَىٰ ٦٩ فَأُلۡقِيَ ٱلسَّحَرَةُ سُجَّدٗا قَالُوٓاْ ءَامَنَّا بِرَبِّ هَٰرُونَ وَمُوسَىٰ ٧٠﴾ [سورة طه: 65- 70]

{Qo-lu ya musa imma an tulqiya wa imma an naku-na auwala man alqo. Qo-la bal alqu fa-izda hiba-luhum wa ‘asi-yatuhum yukhoyyilu ilayhi min sihrihim annaha tas’a. Fa awjasa fi nafsihi khi-fatan mu-sa. Qulna la takhaf innaka antal-a’la. Wa alqi ma fi yami-nika talqaf ma sona’u innama sona’u kaydu sa-hiriw-wa la yuflihus-sa-hiru haythu ata. Fa alqiyas-saharotu sujjadan qo-lu a-manna birabbi Ha-run wa mu-sa}.

{Chúng bảo: “Hỡi Musa, hoặc ngươi ném bửu bối của ngươi xuống hoặc bọn ta là những người ném xuống trước tiên?”. Musa đáp: “Không, các vị ném xuống trước”. Do pháp thuật của chúng, những sợi dây và những chiếc gậy của chúng hiện hình trước mặt Y (Musa), giống như chúng đang cử động. Thấy thế, Musa đâm ra sợ hãi trong lòng. TA (Allah) đã phán trấn an Y: Ngươi chớ sợ, chắc chắn ngươi sẽ cao tay hơn. Nào ngươi hãy ném bảo vật nơi tay phải ngươi xuống, nó sẽ nuốt hết những vật mà chúng đã làm ra. Quả thật, những vật mà chúng đã làm chỉ là xảo thuật của một nhà ảo thuật mà thôi, và nhà ảo thuật cho dù thế nào cũng không thể thắng nổi (sự thật). Bởi thế, những tên phù thủy buông mình xuống phủ phục. Chúng thưa: “Chúng tôi tin tưởng nơi Đức Thượng Đế của Harun và Musa”} (Chương 20 – Taha, câu 65 - 70).

بِسۡمِ ٱللَّهِ ٱلرَّحۡمَٰنِ ٱلرَّحِيمِ ﴿قُلۡ يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡكَٰفِرُونَ ١ لَآ أَعۡبُدُ مَا تَعۡبُدُونَ ٢ وَلَآ أَنتُمۡ عَٰبِدُونَ مَآ أَعۡبُدُ ٣ وَلَآ أَنَا۠ عَابِدٞ مَّا عَبَدتُّمۡ ٤ وَلَآ أَنتُمۡ عَٰبِدُونَ مَآ أَعۡبُدُ ٥ لَكُمۡ دِينُكُمۡ وَلِيَ دِينِ ٦﴾ [سورة الكافرون: 1 - 6]

{Bismilla-hir-rohma-nirrohi-m. Qul yaa ayyuhal-ka-firu-n. La ‘a-budu ma ta’budu-n. Wa la antum ‘a-bidu-na ma ‘abud. Wa la ana ‘a-bidum-ma ‘abadtum. Wa la antum ‘a-bidu-na ma ‘abud. Lakum di-nukum wa ly-ya di-n.}

Nhân danh Allah, Đấng Rất mực Độ Lượng, Đấng Rất mực Khoan Dung. {Hãy bảo chúng: “Này hỡi những kẻ vô đức tin! Ta không tôn thờ những thần linh mà các ngươi tôn thờ, các ngươi cũng không sẽ không tôn thờ Đấng (Allah) mà Ta tôn thờ. Và Ta sẽ không là một tín đồ của những thứ mà các ngươi thờ phượng; và các ngươi cũng sẽ không tôn thờ Đấng mà Ta đang thờ phượng. Tôn giáo của các ngươi thuộc về các ngươi và tôn giáo của Ta thuộc về Ta.} (Chương 109 – Al-Kafirun, câu 1 – 6).

﴿قُلۡ هُوَ ٱللَّهُ أَحَدٌ ١ ٱللَّهُ ٱلصَّمَدُ ٢ لَمۡ يَلِدۡ وَلَمۡ يُولَدۡ ٣ وَلَمۡ يَكُن لَّهُۥ كُفُوًا أَحَدُۢ ٤ ﴾ [سورة الإخلاص: 1- 4]

{Qul huwollo-hu ahad. Ollo-hus-samad. Lam yalid walam yu-lad. Wa lam yakul-lahu kufuwan ahad.}

{Hãy nói đi (Muhammad!) rằng Ngài là Allah, là một Đấng duy nhất. Allah là Đấng tự hữu, độc lập và tất cả phải lệ thuộc. Ngài không sinh con cũng không do ai sinh ra. Và không bất cứ điều gì có thể so sánh với Ngài} (Chương 112 – Al-Ikhlas, câu 1 - 4).

﴿قُلۡ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلۡفَلَقِ ١ مِن شَرِّ مَا خَلَقَ ٢ وَمِن شَرِّ غَاسِقٍ إِذَا وَقَبَ ٣ وَمِن شَرِّ ٱلنَّفَّٰثَٰتِ فِي ٱلۡعُقَدِ ٤ وَمِن شَرِّ حَاسِدٍ إِذَا حَسَدَ ٥﴾ [سورة الفلق: 1 - 5]

{Qul a’u-zdu birabbil-falaq. Min sharri ma kholaq. Wa min sharri gha-siqin izda waqab. Wa min sharrin-naffa-tha-ti fil’uqod. Wa min sharri ha-sindin izda hasad.}

{Hãy bảo họ: “Tôi cầu xin Thượng Đế của rạng đông phù hộ và che chở khỏi sự tác hại của những vật mà Ngài đã tạo, khỏi những tác hại của màn đêm khi nó bao phủ, khỏi sự tác hại của những kẻ phù phép vào những chiếc gút thắt, và khỏi sự hãm hại của những kẻ đố kỵ khi họ ganh tị.”} (Chương 113 – Al-Falaq, câu 1 – 5).

﴿قُلۡ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلنَّاسِ ١ مَلِكِ ٱلنَّاسِ ٢ إِلَٰهِ ٱلنَّاسِ ٣ مِن شَرِّ ٱلۡوَسۡوَاسِ ٱلۡخَنَّاسِ ٤ ٱلَّذِي يُوَسۡوِسُ فِي صُدُورِ لنَّاسِ ٥ مِنَ ٱلۡجِنَّةِ وَٱلنَّاسِ ٦﴾ [سورة الناس: 1 - 6]

{Qul a’u-zdu birabbin-na-s. Malikin-na-s. Ila-hin-na-s. Min sharril-waswa-sil-khonna-s. Allazdi yuwaswisu fi sudu-rin-na-s. Minal-jinnati wanna-s.}

{Hãy bảo họ: “Tôi cầu xin Thượng Đế của nhân loại, Đức Vua của nhân loại, Đấng Thờ phượng của nhân loại, phù hộ và che chở tránh khỏi sự hãm hại của kẻ thì tháo (lời xúi giục, phù phép) rồi lẫn mất, khỏi những kẻ đã thì thào (những điều tác hại) vào lòng người, từ loài Jinh và loài người”.} (Chương 114 – Annas, câu 1 – 6).

Sau khi đọc xong những lời niệm chú trên đây vào trong nước thì hãy uống ba lần, và tắm với phần nước còn lại. Với cách này, căn bệnh sẽ khỏi Insha-Allah.

Nếu cần, có thể lặp lại hai hay nhiều lần cho đến khi nào căn bệnh khỏi hẳn.

Quả thật, đã có nhiều người đã thử cách chữa này và Allah I đã cho họ khỏi bệnh. Và cách này khá hiệu quả đối với ai bị bùa ám không thể đến gần vợ của mình(16).



  • Thứ hai: Đọc chương Fatihah, Ayah Kudsi (câu Kinh 255 của chương Al-Baqarah), hai câu Kinh cuối của chương Al-Baqarah, đọc ba lần (hoặc nhiều hơn với số lẻ) 3 chương cuối cùng của Qur’an: Ikhlaass (112), Al-Falaq (113) và Annaas (114), rồi phun nhẹ lên bàn tay phải và lau mặt(17).

  • Thứ ba: Toàn bộ các lời Du-a xin được khỏi bệnh và tai qua nạn khỏi.

  1. Đọc bảy lần:

« أَسْأَلُ اللهَ الْعَظِيمَ رَبَّ العَرْشِ العَظِيمِ أَنْ يَشْفِيَكَ »

“As-alul-lo-ha al-azhi-m rabbal’arshi al-azhi-m an yashfi-ka”.

Tôi xin Allah Vĩ Đại, Thượng Đế của chiếc Ngai vương Arsh vĩ đại cho anh khỏi bệnh”.(18)


  1. Người bệnh lấy tay đặt lên chỗ đau trên cơ thể của y và nói 3 lần “Bismillah – Nhân danh Allah” rồi nói bảy lần câu Du-a sau đây:

« أَعُوذُ بِاللهِ وَقُدْرَتِهِ مِنْ شَرِّ مَا أَجِدُ وَأُحَاذِرُ » رواه مسلم 4/1728 رقم 2202.

“A’u-zdu billa-hi wa qudrotihi min sharri ma ajidu wa uha-zdiru”

Với Quyền Năng của Allah bề tôi cầu xin Ngài che chở bề tôi tránh khỏi điều xấu mà bề tôi gặp phải cũng như điều xấu mà bề tôi phòng tránh” (Muslim: 4/1728 số 2202).


  1. Một số lời Du-a khác:

  • « اللَّهُمَّ رَبَّ النَّاسِ، أَذْهِبِ الْبَأْسَ، وَاشْفِ أَنْتَ الشَّافِي، لاَ شِفَاءَ إِلاَّ شِفَاؤُكَ، شِفَاءً لاَ يُغَادِرُ سَقَمًا »

“Ollo-humma rabban-na-s, azdhibil-ba’sa, washfi antash-sha-fi, la shifaa’ illa shifa-uka, shifa-an la yugha-diru saqoman”

Lạy Allah, Thượng Đế của nhân loại, xin Ngài hãy làm mất đi tai họa và xin Ngài hãy chữa lành bệnh, Ngài là Đấng làm cho lành bệnh, không có sự điều trị nào ngoài sự điều trị của Ngài, sự điều trị của Ngài không chừa một căn bệnh nào”.(19)



  • « أَعُوذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَّةِ مِنْ كُلِّ شَيْطَانٍ وَهَامَّةٍ، وَمِنْ كُلِّ عَيْنٍ لاَمَّةٍ »

“A’u-zdu bikalima-tilla-hit-ta-mmah min kulli shayto-nin wa ha-mmatin wa min kulli aynin la-mmah”

Bề tôi cầu xin với các lời phán hoàn hảo của Allah khỏi tất cả shaytan, tất cả những lo lắng và tất cả những loại bùa chú và yêu thuật”.(20)



  • « أَعُوذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَّاتِ مِنْ شَرِّ مَا خَلَقَ »

“A’u-zdu bikalima-tilla-hit-ta-mma-t min sharri ma kholaqo”

Bề tôi cầu xin với các lời phán hoàn hảo của Allah tránh khỏi những điều xấu mà Ngài đã tạo ra”.(21)



  • « أَعُوذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَّاتِ: مِنْ غَضَبِهِ، وَعِقَابِهِ، وَشَرِّ عِبَادِهِ، وَمِنْ هَمَزَاتِ الشَّيَاطِينِ، وَأَنْ يَحْضُرُونِ »

“A’u-zdu bikalima-tilla-hit-ta-mma-t min ghodhobihi, wa ‘iqo-bihi wa sharri ‘iba-dihi wa min hamaza-tish-shaya-ti-n wa an yahdhuru-n”

Bề tôi cầu xin với các lời phán hoàn hảo của Allah tránh khỏi sự giận dữ của Ngài, sự trừng phạt của Ngài, những điều xầu từ các bề tôi của Ngài, khỏi sự tấn công của những tên shaytan”.(22)



  • « أَعُوذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَّاتِ الَّتِي لَا يُجَاوِزُهُنَّ بَرٌّ وَلَا فَاجِرٌ، مِنْ شَرِّ مَا خَلَقَ، وَبَرَأَ، وَذَرَأَ، وَمِنْ شَرِّ مَا يَنْزِلُ مِنَ السَّمَاءِ، وَمِنْ شَرِّ مَا يَعْرُجُ فِيهَا، وَمِنْ شَرِّ مَا ذَرَأَ فِي الْأَرْضِ، وَمِنْ شَرِّ مَا يَخْرُجُ مِنْهَا، وَمِنْ شَرِّ فِتَنِ اللَّيْلِ وَالنَّهَارِ، وَمِنْ شَرِّ كُلِّ طَارِقٍ إِلَّا طَارِقًا يَطْرُقُ بِخَيْرٍ يَا رَحْمَنُ »

“A’u-zdu bikalima-tilla-hit-ta-mma-til-lati yuja-wizuhunna barrun wa la fa-jirun min sharri ma kholaqo, wa bara-a wa zdaro-a, wa min sharri ma yanzilu minas-samaa’, wa min sharri ma ya’ruju fi-ha, wa min sharri ma zdaro-a fil-ardh, wa min sharri ma yakhruju minha, wa min sharri fitanil-layli wan-naha-ri, wa min sharri kulli to-riqin illa to-riqon yat-ruqu bikhoirin, ya Rahmaan!”

Bề tôi cầu xin với các lời phán hoàn hảo của Allah, những lời phán mà không một người ngoan đạo hay một người tội lỗi nào có thể vượt qua Nó, tránh khỏi những điều xấu mà Ngài đã tạo ra, khỏi những điều xấu mà Ngài giáng từ trên trời xuống, khỏi những điều xấu đi lên trên đó, khỏi những điều xấu trên trái đất, khỏi những điều xấu đi ra từ trong lòng đất, khỏi những điều xấu của ban ngày và ban đêm, khỏi những điều xấu từ mỗi vị khách viếng đêm (sao mai) trừ những vị khách viếng đêm với những điều tốt lành; ôi Đấng Độ Lượng!”.(23)



  • « اللَّهُمَّ رَبَّ السَّمَوَاتِ السَّبْعِ، وَرَبَّ الأَرْضِ، وَرَبَّ الْعَرْشِ الْعَظِيمِ، رَبَّنَا وَرَبَّ كُلِّ شَيْءٍ، فَالِقَ الْحَبِّ وَالنَّوَى، وَمُنْزِلَ التَّوْرَاةِ وَالْإِنْجِيلِ وَالْقُرْآنِ، أَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ كُلِّ شَيْءٍ أَنْتَ آخِذٌ بِنَاصِيَتِهِ، أَنْتَ الْأَوَّلُ فَلَيْسَ قَبْلَكَ شَيْءٌ، وَأَنْتَ الْآخِرُ فَلَيْسَ بَعْدَكَ شَيْءٌ، وَأَنْتَ الظَّاهِرُ فَلَيْسَ فَوْقَكَ شَيْءٌ، وَأَنْتَ الْبَاطِنُ فَلَيْسَ دُونَكَ شَيْءٌ ... »

“Ollo-humma rabbas-sama-wa-tis-sab’i, wa rabbal-ardh, wa rabbal-arshi-‘azhi-m, rabbana wa rabba kulli shay-in, fa-liqil-habbi wannawa, wa munzilat-tawro-ti wal-inji-li wal-qur’an. A’u-zdu bika min sharri kulli shay-in anta a-khizdun bina-siyatihi, antal-auwalu falaysa qablaka shay-un, wa antal-a-khiru falaysa ba’daka shay-un, wa antazh-zho-hiru falaysa fawqoka shay-un, wa antal-ba-tinu falaysa du-naka shay-un ...”

Lạy Allah, Thượng Đế của bảy tầng trời, Thượng Đế của trái đất, Thượng Đế của chiếc Ngai vương Arsh vĩ đại, Thượng Đế của bầy tôi và Thượng Đế của tất cả mọi vạn vật, Đấng làm nảy mầm các hạt giống, Đấng ban xuống Kinh Tawrah (Cựu ước), Kinh Injil (Tân ước) và Kinh Qur’an, bề tôi cầu xin Ngài che chở khỏi những điều xấu từ tất cả những thứ mà Ngài nắm lấy chùm tóc trước trán, Ngài là Đấng đầu tiên không có bất cứ thứ gì tồn tại trước Ngài, Ngài là Đấng cuối cùng không có bất cứ thứ gì tồn tại sau Ngài, Ngài là Đấng Toàn Năng không có bất cứ thứ gì trên Ngài và Ngài là Đấng không có bất cứ thứ gì có thể sánh đặng với Ngài ...”.(24)



  • « بِسْمِ اللهِ أَرْقِيكَ، مِنْ كُلِّ شَيْءٍ يُؤْذِيكَ، وَمِنْ شَرِّ كُلِّ نَفْسٍ أَوْ عَيْنِ حَاسِدٍ، اللهُ يَشْفِيكَ، بِسمِ اللهِ أَرقِيكَ »

“Bismilla-hi arqi-ka, min kulli shay-in yu’zdi-ka wa min sharri kulli nafsin aw aynin ha-sidin, ollo-hu yashfi-ka, bismilla-hi arqi-ka”

Nhân danh Allah, Đấng làm cho anh (người bệnh) ngủ, cầu xin Ngài che chở khỏi tất cả những gì gây hại đến anh, khỏi tất cả điều xấu đến từ mọi linh hồn hoặc đến từ những đôi mắt ghen tị, cầu xin Allah ban cho anh khỏi bệnh, Nhân danh Allah, Đấng làm cho anh ngủ”.(25)



  • « بِسْمِ اللهِ يُبْرِيكَ، وَمِنْ كُلِّ دَاءٍ يَشْفِيكَ، وَمِنْ شَرِّ حَاسِدٍ إِذَا حَسَدَ، وَمِنْ شَرِّ كُلِّ ذِي عَيْنٍ »

“Bismilla-hi yubri-ka, wa min kulli da-in yashfi-ka, wa min sharri ha-sidin izda hasada, wa min sharri kulli zdi aynin”

Nhân Danh Allah, Đấng phù hộ cho anh (người bệnh), Ngài cho anh lành bệnh từ mọi căn bệnh, Ngài che chở anh khỏi những điều xấu từ những kẻ ghen tị, và khỏi tất cả những gì có mắt”.(26)



  • « بِسْمِ اللهِ أَرْقِيكَ مِنْ كُلِّ شَيْءٍ يُؤْذِيكَ، مِنْ حَسَدِ حَاسِدٍ، وَمِنْ كُلِّ ذِي عَيْنٍ اللهُ يَشْفِيكَ »

“Bismilla-hi arqi-ka, min kulli shay-in yu’zdi-ka, min hasadi ha-sidin, wa min kulli zdi aynin, ollo-hu yashfi-ka”

Nhân danh Allah, Đấng làm cho anh (người bệnh) ngủ, cầu xin Ngài che chở khỏi tất cả những gì gây hại đến anh, khỏi nhưng ghen tị của kẻ ganh ghét, và khỏi những điều xấu từ tất cả mọi tạo vật có mắt, cầu xin Allah cho anh khỏi bệnh!”.(27)

Tất cả những lời Du-a trên đây là những lời niệm chú để chữa bệnh và giải bùa ngải, yêu thuật, tà ma cũng như tất cả mọi đau bệnh. Tất cả đều mang lại hiệu quả dưới sự cho phép của Allah I.


  • Hình thức thứ ba: Tống những độc tố ra ngoài cơ thể bằng cách giác lể tại những nơi có dấu vết của bùa ngải và yêu thuật trên cơ thể nếu việc làm này có thể được thực hiện không có gì gây trở ngại; còn nếu không thể thực hiện hình thức này thì những hình thức chữa trị và giải bùa chú được nói ở trên cũng đã đầy đủ, Alhamdulillah!.(28)

  • Hình thức thứ tư: Chữa bệnh bằng các loại thuốc trong thiên nhiên. Trong thiên nhiên, có những loại thuốc rất công ích cho điều trị bệnh, một số loại đã được chỉ ra trong Qur’an cũng như trong Sunnah tinh khiết của Thiên sứ e. Nếu con người sử dụng những các loại thuốc đó để chữa bệnh bằng cả sự kiên định, trung thực và hướng về Allah I với đức tin Iman rằng công ích của các loại thuốc đó là từ nơi Allah I ban cho thì Insha-Allah chắc chắn Ngài sẽ cho khỏi bệnh qua các loại thuốc đó. Tương tự, có những loại thuốc được bào chế từ các loại thảo dược cũng như từ một số loài động vật hay từ những vật tồn tại trong thiên nhiên, những loại thuốc này được bào chế và được thử nghiệm và được phép dùng để điều trị bệnh miễn sao không phải thuộc các thành phần Haram trong giáo luật.(29)

Những dược liệu tự nhiên tiêu biểu rất công hiệu trong việc chữa, điều trị bệnh dưới sự cho phép của Allah I như: mật ong(30), Habbah Sawda’ (hạt đen)(31), nước Zamzam(32), nước mưa như Allah I đã phán:

﴿ وَنَزَّلۡنَا مِنَ ٱلسَّمَآءِ مَآءٗ مُّبَٰرَكٗا ﴾ [سورة ق: 9 - 11]

{Và TA (Allah) đã ban nước mưa đầy ân phúc từ trên trời xuống } (Chương 50 – Qaf, câu 9 -11).

Một trong những dược liệu tự nhiên tiêu biểu nữa là dầu Ô-liu, Thiên sứ của Allah e nói:

«كُلُوا الزَّيْتَ وَادَّهِنُوا بِهِ؛ فَإِنَّهُ مِنْ شَجَرَةٍ مُبَارَكَةٍ»

Các ngươi hãy ăn dầu Ô-liu và dùng nó để bôi thoa, bởi quả thật nó được lấy từ một loại cây ân phúc”.(33)

Quả thật, qua sử dụng, thử nghiệm, và nghiên cứu thì người sử dụng nói chung và giới khoa học nói riêng đều khẳng định dầu Ô-liu là một loại dầu tốt nhất trong các loại dầu.(34)

Và một trong cách điều trị bệnh tự nhiên là tắm rửa, vệ sinh thân thể, ăn ở sạch sẽ và lành mạnh.(35)





tải về 1.55 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương