Chỗ Trọ Qua Đêm (Tự truyện của một Tăng sĩ Hoa-kỳ)1 Tác giả: Yogagivacara Rahula Dịch giả: Chơn Quán Trần Ngọc Lợi o0o Nguồn



tải về 1.85 Mb.
trang24/25
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích1.85 Mb.
#38246
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25

PHỤ BẢN II


Anatta: Vô Ngã tức là không có cái tôi, không vì mình. Một trong ba140 đặc điểm của cuộc sống duyên khởi.

Anicca: Vô thường. Một đặc điểm khác của cuộc sống duyên khởi. Tất cả các hiện tượng, năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ở trong tình trạng luôn luôn thay đổi, liên tục sanh và diệt ngoài sự kiểm soát của con người.

Arahat: A La Hán. Là vị Bồ Tát ở bậc cao nhứt141. A La Hán đã diệt (bằng thiền quán) hết mười kiết sử (ràng buộc)142 buộc chúng sanh vào vòng luân hồi sanh tử. Ngài đã chứng ngộ Niết Bàn hay Bất Sanh Bất Tử, không còn trở lại cõi Ta Bà vô thường và đau khổ nữa.

Avijja: Vô Minh tức là không biết, không thấy, tâm chưa được khai ngộ. Vô minh được ví như bức màn che không cho thấy tánh thật hay thực tính của vạn vật (tâm, thân và thế giới danh sắc). Màn vô minh dày nên che khuất sự thật khiến con người tin vô thường là thường còn, những gì không toại nguyện hay đau khổ là toại nguyện hay khoái lạc, những gì không có thực chất hay không có tự thể là có thực chất hay có tự thể, những gì sai (không lành mạnh, không kỷ năng) là đúng (lành mạnh, có kỹ năng), và những gì đúng là sai. Vì vô minh nên hành giả không thấu triệt được Tứ Diệu Đế của Đấng Chí Tôn.

Bhavana: Thiền; sự phát triển tâm linh. Thiền Phật giáo có hai phương pháp: thiền chỉ (chú tâm và yên lặng) và thiền minh sát (thiền quán chiếu nội tâm).

Bikkhu: Tỳ Kheo; Tỳ Khưu. Nguyên nghĩa là 'thu lượm mảnh vụn'. Người sống nhờ vào sự bố thí của đàn na thí chủ; tiếng Pali Bikkhu chỉ tăng sĩ Phật giáo.

Bodhi: Bồ Đề; Tuệ Giác Tối Thắng; Khai Ngộ; Giác Ngộ. Tu Sĩ Siddhartha Gotama ngồi tham thiền và chứng đắc đạo quả dưới gốc cội Bồ Đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Boghgaya).

Bodhicita: Bồ Đề Tâm; Giác Tâm. Là tâm của các Bồ Tát đã chứng đắc nhưng chưa rời cõi Ta Bà vì hạnh nguyện cứu vớt mọi chúng sanh khỏi vòng luân hồi. Bồ Tát hành trì Tâm Bồ Đề không chọn con đường chỉ tu hành cho riêng mình mà cho mọi chúng sanh. Nhiều người (vì hiểu lầm, nd.) đã vội trách tông phái Theravada hành trì Phật pháp cho cá nhân mình mà thôi.

Bodhisattva: Bồ Tát; 'Chúng Sanh Chứng Ngộ'. Bậc thánh hy sinh đời mình để cứu rỗi chúng sanh. Bồ Tát giới là lý tưởng của Đại Thừa (đối với lý tưởng A La Hán của Theravada). Bậc Bồ Tát nguyện chỉ nhập Niết Bàn sau khi mọi chúng sanh kể cả cọng cỏ, (sic) nhập Niết Bàn143.

Buddha: Phật; Bụt. Bậc giác ngộ.

Buddhi: Phật Tâm. Khả năng tối thắng của tâm giúp người khai mở Tâm Bồ Đề và đạt quả A La Hán hay Phật. Thông thường khả năng này bị vô minh che lấp và chỉ phát huy được nhờ vào sự hành thiền và trì Phật pháp.

Chakra: Luân Xa. Thuật ngữ Yoga có nghĩa là 'bánh xe' và được xem như trung tâm chứa năng lượng prana bên trong. Nguồn năng lượng prana lan tỏa khắp cơ thể theo một mạng kinh mạch (nadi) và chi phối các hoạt động đặc biệt của thân và tâm. Có sáu luân xa chánh nằm dọc trên đường sống lưng, bắt đầu từ đốt xương khu. Các luân xa này liên hệ với hệ thần kinh chính và các tuyến nội tiết trong vùng. Hệ thống gồm luân xa, tuyến và mạng kinh mạch chịu trách nhiệm về các tình cảm, trạng thái tâm linh và nhân cách từ thô đến vi tế. Ba luân xa dưới điều hợp những nhu cầu thế tục, còn ba luân xa trên ngang tầm tim, cổ và chân mày trách nhiệm các xúc cảm tinh thần như từ, bi, hỷ, xả, thiền, và tỉnh thức. Luân xa thứ bảy, hoa sen ngàn cánh, nằm trên đỉnh đầu là trung tâm toàn giác. Hầu hết những người thế tục (không thiên về tâm linh) sống theo cảm giác và đam mê của thân xác bị chi phối bởi các luân xa thấp; luân xa cao của họ bị đóng kín nên không chứng nghiệm được những đặc tính cao quý như từ, bi, hỷ, xả, vân vân. Mục đích của yoga là khởi động các luân xa cao để phát triển sự tỉnh thức tâm linh và các đặc trưng liên hệ.

Deva: Đề Bà; Thiên. Thuật ngữ Phật học chỉ người trở thành thiên nhơn của cõi thiên, nhờ đã sống đời người đức hạnh và từ bi.

Dharma: Pháp. Pháp có rất nhiều nghĩa. Nghĩa thông thuờng dùng trong sách này là Phật pháp, tức những lời chỉ dạy dẫn đến Sự Thật Tuyệt Đối, Giác Ngộ hay Niết Bàn. Trong Yoga và Ấn giáo, Dharma chỉ con đường phát triển tâm linh (riêng biệt của mỗi người) được xác định từ lúc sanh ra đời. Trong A Tỳ Đạt Ma, A Tỳ Đàm, hay Vi Diệu Pháp, Dharma là một Pháp trong vũ trụ. Có hai loại Pháp: duyên sanh và vô duyên sanh. Pháp duyên sanh gồm năm uẩn, yếu tố danh sắc144 cấu tạo thế gian và có tánh vô thường, khổ và vô ngã. Pháp vô duyên sanh là Niết Bàn. Phật pháp là lời dạy của Đức Phât giúp hành giả thấu hiểu các pháp duyên sanh để đi đến pháp vô duyên sanh, Niết Bàn, chấm dứt đau khổ.

Dukkha: Đau Khổ; Bức Bách; Khó Chịu. Chính xác hơn, đó là những gì thuộc hai lãnh vực thân và tâm có sanh có diệt, không thường còn và vô ngã. Vì vô minh con người chấp lấy thân, tâm và thế gian nên sanh ra chấp thủ, ái dục, phiền não, ưu sầu và khổ đau. Đó là một Sự Thật và là đế thứ nhứt của Tứ Diệu Đế145.

Hatha Yoga: Phương pháp yoga mà căn bản là tịnh hóa thân, hệ thần kinh, làm cân bằng sinh lực, vân vân, hầu giúp đạt các cấp cao của thiền quán. Cân bằng dòng chảy của sinh khí prana bằng các thế và phép điều tức146 là Hatha Yoga (Ha=khí dương của mặt trời; Tha=khí âm của mặt trăng).

Hinayana: Tiểu Thừa hay Cổ Xe Nhỏ, một tên không mấy đẹp do Phật giáo Đại Thừa đặt ra để chỉ tông Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) mà mục tiêu được xem như tu tập để tự giác tức chỉ giải thoát cho riêng mình trong lúc mục tiêu tu tập của Đại Thừa là giải thoát chúng sanh. Vì không chính xác nên Phật tử Việt Nam đã thay thế từ Hinayana bằng Theravada (nd).

Karma: Nghiệp. Nghiệp được tạo tác bởi thân, khẩu, ý và bắt đầu từ ý. Ý hành giữ dấu vết trong hệ thần kinh và tiềm thức; hai nơi này có khả năng tạo nên tác dụng có hậu quả giống y như nguyên nhân. Hành động tạo nghiệp có thể tốt hay xấu và đem lại kết quả tốt hay xấu tương ưng. Nghiệp dữ do tam độc tham sân si dẫn dắt. Nghiệp lành là kết quả của tuệ, vô trước và từ bi. Nghiệp được xem như năng lực định hướng số phần tái sanh.

Kundalini: Thuật ngữ Yoga chỉ tinh khí tiềm ẩn dưới chót đuôi (xương cụt) của đường sống lưng có thể khơi động nhờ luyện tập yoga. Nó được ví như 'Xà lực', con rắn nằm khoanh nơi luân xa muladhara chi phối tình dục. Khơi động kundalini là đưa sanh khí tiềm ẩn ấy theo kinh mạch sushuma tức theo ống tủy trong đường sống lưng, ngang qua sáu luân xa, đến luân xa 'sen ngàn cánh' . Lúc tỉnh thức trụ trong luân xa ấy, hành giả yoga sẽ đạt Moksha hay Giác Ngộ.

Mantra: Thần Chú. Câu thần bí thường bằng Phạn ngữ Sanskrit mà hành giả của các đạo Ấn, Phật, và Yoga trì để trau dồi sự chú tâm và những tâm linh khác. Một số tông phái chỉ dùng độc nhứt chú như phương pháp tham thiền, mà Mantrayana (Chú Thừa) của Kim Cương Thừa Tây Tạng (Tibetan Vajrayana) là một.

Moksha: Tiếng Sanskrit chỉ Niết Bàn tức được giải thoát khòi vòng luân hồi sanh tử. Trong Ấn giáo và Yoga, Moksha tương đương với Vô Dư Niết Bàn của Phật giáo. Moksha đồng nghĩa với Niết Bàn Phạm Thiên (Brahma Nirvana).

Mahayana: Đại Thừa; Cổ Xe Lớn. Tông phái Phật giáo chánh ở Trung Hoa, Nhựt, Đại Hàn, Taiwan, và Tây Tạng. Mahayana cũng là tông Phật giáo chánh ở Việt Nam (nd).

Manaskar Mudra: Xá. Hình thức thi lễ bằng cách chấp tay trước ngực với hai bàn tay và mười ngón tay sát vào nhau và cúi đầu. Xá là để thi lễ Phật tính có sẵn trong mỗi chúng sanh. Tôi xá ông có nghĩa là tôi vái chào Phật tính trong ông. Xá rất thông dụng trong giới đệ tử theo Ấn Giáo và Phật giáo.

Nirvana (Sanskrit) hay Nibbana (Pali): Niết Bàn. Nguyên nghĩa là thoát vòng đam mê, tận diệt Vô minh, Chấp Trước/Tham Ái và Si Mê. Một số từ tương đương là: Vô Sanh, Vô Duyên Khởi, Vô Nhị Nguyên, sự Chấm Dứt Khổ Đau, Giải Thoát, và Hạnh Phúc Tối Thắng. Có hai bậc Niết Bàn: Hữu Dư Niết Bàn của Bồ Tát đã giải thoát tâm nhưng thân còn trong sắc giới và Vô Dư Niết Bàn của Phật đã hoàn toàn giải thoát, tức thân tâm đều trong cõi vô sắc giới.

Paticca-samuppada: Duyên Sanh; Duyên Khởi; Nhân Duyên. Giáo lý Phật gồm mười hai chi phần147 vừa làm nhân vừa làm duyên chi phối sự sanh diệt của tất cả hiện tượng vật lý và tâm lý, năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Thuyết dùng để giải thích sự tái sanh nối tiếp kiếp này sang kiếp khác trong luân hồi. Sự sanh diệt liên tục của ý thức trong đời sống cũng được giải thích bằng thuyết này.

Pranayama: Điều Tức. Thuật ngữ yoga Prana có nghĩa là sinh lực hay năng lượng sống lan tỏa trong khắp vũ trụ, chi phối mọi khía cạnh danh sắc của đời sống. Prana được thấm nhập vô thân thể qua hơi thở và một ít qua ăn uống, và chảy trong các kinh siêu trần nadi. Điều tức là sự kiểm soát sinh lực qua hơi thở mà các yogi của Hatha Yoga sử dụng nhằm mục đích gia tăng sự thu nhập sinh khí và điều phối sinh khí theo những mô hình đặc biệt, thường là dọc sống lưng để tịnh hóa và tăng cường hệ thần kinh chuẩn bị đánh thức kundalini và đạt bậc thiền cao nhứt.

Sadhu: Thiện Tai! hay Lành Thay! Từ thông dụng để chỉ đạo sư Hindu hay tăng sĩ Phật giáo. Được dùng để diễn đạt niềm hân hoan thù thắng lúc đi hành hương, hay lúc viếng tăng hoặc Phật tích (như Tượng Phật, tháp, gốc Bồ Đề, vân vân.) Sadhu đôi khi cũng được xướng lên sau khi tụng kinh hay xả thiền (để công nhận lực thù thắng của thiền và huệ trí thành đạt).

Samadhi: Định; Thiền Chỉ; Tam Muội. Định tâm vào một điểm hay một chủ thể như lời chú hay hơi thở để tâm an ổn, không bị bấn loạn.

Samsara: Luân Hồi. Sanh, tử tiếp nối liên tục hết kiếp này sang kiếp khác trong sáu cõi148. Cũng chỉ sự sanh diệt liên tục của các niệm trong tâm với sự vướng mắc và tham ái.

Satipatthana: Bốn nền móng của tỉnh thức là những lời dạy căn bản của Đức Phật về thiền quán để đưa đến sự phát triển tuệ giác, nhìn thấy mọi sự vật như-là. Pháp của Phật được chi tiết hóa trong Kinh Satipatthana bằng tiếng Pali. Phương pháp quán minh phổ cập được đặt trên nền móng này.

Sotàpanna: Nhập Lưu. Người tu đã vào dòng tức chứng ngộ Niết Bàn. Bồ Tát Nhập Lưu không còn tác nghiệp nhưng còn phải qua bảy kiếp người nữa mới thật sự chứng ngộ bậc A La Hán.149

Tantra: Mật Tông. Một trường phái tâm linh bí truyền của hai đạo Ấn và Phật. Thay vì dùng phương pháp thiền thụ động và phương cách chế ngự cảm giác như trong thiền định và thiền minh sát, Mật Tông dùng giác quan một cách rộng rãi trong nhiều phép tập luyện khác nhau hầu khai ngộ. Mật Tông Tây Tạng dùng năng lực của tưởng tượng và trì mật chú. Yoga dùng phương pháp Mật tông để đánh thức kundalini. Phương pháp Mật tông gây nhiều chú ý nhứt có lẽ là phép giao cấu giữa nam nữ mà mục đích là dùng tính chất duy nhứt của cảm giác khoái cảm tột độ để xả bỏ hoàn toàn cảm nhận có hai nhân vật giao cấu cũng như để triệt tiêu ý thức tự ngã hầu chứng ngộ tính bất nhị nguyên. Guru Bhagwan Shree Rajneesh thường dùng phương pháp này để dạy đồ đệ của ông.

Theravada: Nam Tông; Tông Nguyên Thủy. Nguyên nghĩa là 'Lời của bậc trưởng lảo'. Lời Phật dạy theo truyền thống Pali và được xem như nguyên gốc so với những kinh sách khác. Phật Giáo Theravada chiếm đa số ở Sri Lanka, Thái Lan và Miến Điện150.

Vajrayana: Kim Cương Thừa. Pháp của Kim Cương Thừa Tây Tạng gồm có cách hành trì theo Mật Tông với năng lực tưởng tượng sáng tạo và tu hạnh Bồ Tát.

Vipassana: Thiền Minh Sát; Quán Minh;, Thiền Minh. Nguyên nghĩa là 'nhìn thấy riêng rẻ", nhìn sự vật như-là. Thiền Minh Sát dựa trên kinh Satipatthana với bốn căn bản tỉnh thức của Theravada, theo đó tâm được luyện để nhìn thấy mọi sự vật đều vô thường và xả bỏ chấp trước, tiêu diệt mười kiết sử, và chứng ngộ.

Yoga: Du Già. Nguyên nghĩa là 'kết nối'. Phương pháp rèn luyện tinh thần đặc biệt thuộc Ấn giáo mà mục đích là đạt Moksha. Kết nối được thực hiện qua nhiều giai đoạn. Thoạt tiên là sự kết nối thể xác với tinh thần để đạt sự hòa hợp. Sau là sự kết nối tự ngã cá biệt với vũ trụ ngã bất nhị nguyên để đạt Moksha.

Zen: Tiếng Nhựt có nghĩa là Thiền một cách trọn vẹn. Thiền Zen nỗ lực đi thẳng xuyên qua tự ngã nhị nguyên không cần kinh sách, trí tuệ hay lễ nghi. Phật Giáo Zen phát sanh từ Trung Hoa và truyền sang Nhựt từ thế kỷ thứ 12; tại đây Zen phát triển thành một tông Phật Giáo độc đáo. Trong các tu viện Zen, tu sĩ dược dạy xóa bỏ hẳn tự ngã để chứng đạt vô ngã. Bản ngã giữ con người trong thế nhị nguyên. Thiền sư Zen dùng nhiều phương pháp thô bạo kể cả la hét và đánh đập môn sinh. Zen là tông phái Phật Giáo Đại Thừa được truyền đến Tây Âu trước tiên và được thích nghi với môi trường mới để thành Zen Âu Mỹ như hiện nay.

---o0o---




tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương