CHỦ nghĩa mác lênin và TƯ TƯỞng hồ chí minh nền tảng tư TƯỞNG, kim chỉ nam cho hành đỘng cách mạng củA ĐẢng ta


Quan điểm chỉ đạo xây dựng văn hóa



tải về 0.69 Mb.
trang5/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.69 Mb.
#30005
1   2   3   4   5   6

2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng văn hóa

Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã thông qua Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó xác định 5 tư tưởng chỉ đạo cơ bản quá trình xây dựng và phát triển văn hóa. Những tư tưởng chỉ đạo đó vẫn còn nguyên giá trị định hướng nhiệm vụ xây dựng văn hóa hiện nay.



Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

3. Phương hướng và giải pháp phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020 thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã xác định mục tiêu “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”1. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI xác định nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa trong 5 năm tới với các nội dung sau:



Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng.

- Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc...

- Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.

- Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

- Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp, đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước.

- Xã hội hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.

Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng.

- Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.

- Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ.

- Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ thuật, từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam.

- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc.

- Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài.

- Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.

Ba là, phát triển hệ thống thông tin đại chúng.

- Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản.

- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới.

- Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại.

- Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.

Bốn là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá.

- Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới.

- Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản.

- Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.

- Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam.

- Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.



CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Phân tích tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Giải pháp phát triển khoa học và công nghệ trong thời gian tới là gì ?

3. Phân tích mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội ?



Bài 7

TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ

I. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ, TRONG NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, lĩnh vực quốc phòng, an ninh có mối quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực đối ngoại. Bài này đề cập đến quan điểm, đường lối, chủ trương giải pháp của Đảng ta trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI đã dự báo tình hình quốc tế và trong nước với những khó khăn, thuận lợi đan xen, như sau:



1. Tình hình quốc tế

- Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những mâu thuẫn, xung đột với diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường:

+ Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt.

+ Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.

- Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển, nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế.

- Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.

- Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn:

+ Chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi.

+ Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt.

- Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.

- Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.

- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định:

+ Tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt.

+ Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới.

+ ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.



2. Tình hình trong nước

- Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước:

+ Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm.

+ Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI trên các lĩnh vực, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng, đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, sẽ giúp khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, và xây dựng Đảng.

- Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào, cụ thể là:

+ Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.

+ Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.

+ Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

+ Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp.



Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong 5 năm tới.

II. TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC



1. Những thành tựu và hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh những năm qua

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI đã nhận định “Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường”, thể hiện cụ thể như sau:



a. Những thành tựu

- Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.

- Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp.

- Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn.

- Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch;

- Đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ;

- Quân đội và Công an tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai1.

b. Những hạn chế, khuyết điểm

- Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội X về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời.

- Nhận thức về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

- Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp.

- Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt chẽ.

- Công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang2.



3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh những năm tới

a. Mục tiêu, nhiệm vụ:

Mục tiêu, nhiệm vụ của lĩnh vực quốc phòng, an ninh là: “…bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”3.



b. Giải pháp chủ yếu:

Một là, Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

- Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

- Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Hai là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh.

Làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hoà bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...



Ba là, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận.

- Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh;

- Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.



Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

- Duy trì Quân đội và Công an có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch.



Năm là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh.

- Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới;

- Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân đội, công an và các tổ chức chính trị - xã hội.

III. TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ



1. Những thành tựu và hạn chế trong thực hiện đường lối đối ngoại những năm qua

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI đã khẳng định trong những năm qua “Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước”1, cụ thể như sau:

- Phát triển quan hệ với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng:

+ Hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền với Campuchia.

+ Bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước liên quan.

- Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế:

+ Đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

+ Đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA.

- Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả tích cực.

- Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự do, dân chủ, nhân quyền.

- Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ ODA và các nguồn tài trợ quốc tế khác.

- Tuy nhiên, trong hoạt động đối ngoại những năm qua, còn có những hạn chế, đó là: “Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa thật đồng bộ”1.



2. Mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp triển khai hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế

a. Mục tiêu, nhiệm vụ

- Đại hội XI xác định chủ trương định hướng chung là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.



- Nhiệm vụ được xác định là: “ Giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”2.

c. Các giải pháp chủ yếu

Một là, nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế:

- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.

- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc.

- Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.

- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.

Hai là, thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ:

- Việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực;

- Làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển.

- Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới.



Ba là, chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Bốn là, phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền; mở rộng ngoại giao nhân dân:

- Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

- Mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới.

- Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân.



Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường xuyên bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.

Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.

Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.



CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Nêu những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

2. Trình bày mục tiêu và những giải pháp chủ yếu tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

3. Nêu các giải pháp triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại trong những năm tới.



Bài 8

TỔ CHỨC CƠ SỞ CỦA ĐẢNG VÀ

CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở CƠ SỞ

I. TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG



Tổ chức cơ sở đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm các chi bộ, đảng bộ cơ sở, là tổ chức đảng nhỏ nhất và có số lượng đông nhất. Đảng xác định đó là nền tảng của Đảng và là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Nghị quyết Đại hội X khẳng định “Với vị trí là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trò của tổ chức cơ sở đảng rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh...”1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI xác định nhiêm vụ “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”2.

1. Quy định của Điều lệ Đảng về thành lập các tổ chức cơ sở đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để thực hiện mục đích đó, Đảng phải được tổ chức theo một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng bao gồm chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.

Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; ở đâu có quần chúng, ở đó cần có sự lãnh đạo của Đảng. Mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng đều sinh sống, lao động sản xuất, công tác, học tập ở một đơn vị cơ sở nhất định trong hệ thống tổ chức xã hội. Vì vậy, tổ chức đảng phải được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông thôn, đại đội - có 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ"3. Theo tinh thần đó, tổ chức cơ sở đảng được thành lập tương ứng với cấp hành chính nhà nước ở cơ sở (xã, phường, thị trấn); cơ quan, đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị cơ sở trong công an nhân dân và quân đội nhân dân; tổ chức kinh tế (các loại hình hợp tác xã, các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Ở các cơ sở trên, nếu có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.

Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI của Đảng quy định:

- Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc.

- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.

Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở. Việc lựa chọn mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào số lượng đảng viên chính thức và phải được cấp uỷ cấp trên (quận, huyện uỷ hoặc tương đương) trực tiếp quyết định.

- Về tổ chức cơ sở Đảng, Điều lệ quy định những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:

+ Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.

+ Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.

+ Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.

Những năm gần đây, thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, ở nước ta có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ chức tại đơn vị cơ sở hành chính (xã, phường, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị cơ sở trong công an, quân đội... còn xuất hiện tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các tổ chức cơ sở đảng trong các thành phần kinh tế đều phải thực hiện đúng nguyên tắc đã được quy định trong Điều lệ Đảng.


  1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.

a. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng

- Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở đảng là tổ chức đảng nhỏ nhất, số lượng nhiều nhất và gắn liền với các tổ chức hành chính, kinh tế ở cơ sở. Vì vậy, tổ chức cơ sở đảng là "nền tảng", là "gốc rễ" của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chi bộ là gốc rễ của Đảng"1 và "... chi bộ là nền tảng của Đảng, của cách mạng ở xã..."2. "Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh"3 và "Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh"4.

- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân. Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là những "sợi dây chuyền" trực tiếp nối liền Đảng với dân. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng"5.



b. Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cở sở

- Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên giữ vị trí, vai trò lãnh đạo hệ thống đó, bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà"1. Rằng "Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở..."2.

- Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm đoàn kết quy tụ, tập hợp được mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống nhất ý chí và hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở.

3. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng

Điều 23 Điều lệ Đảng đã quy định năm nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng như sau:

- Một là, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.

- Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.

- Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

- Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

- Năm là, kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.

Đảng uỷ cơ sở, nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định kết nạp đảng và khai trừ đảng viên.

Năm nhiệm vụ trên đây là năm nội dung cơ bản, chung nhất để thực hiện chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Mỗi nhiệm vụ có vị trí và yêu cầu riêng, không thể coi nhẹ nhiệm vụ nào. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ nói trên trong tình hình hiện nay cần kiểm tra để phát hiện, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế hoạt động cụ thể cho phù hợp các loại hình tổ chức cơ sở đảng, đúng Điều lệ Đảng, đúng pháp luật Nhà nước.

Các chi bộ phải bảo đảm sinh hoạt thường lệ hàng tháng, nâng cao chất lượng sinh hoạt, thực hiện tốt việc phân công và kiểm tra công tác của đảng viên. Đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp phải thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở nơi cư trú theo quy định. Điều đó quy định rõ hơn trách nhiệm của cấp uỷ Đảng cơ sở đối với đảng viên ở nơi cư trú, phải gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Ngoài ra, còn có quy định tổ chức cơ sở đảng phải tổ chức tất cả đảng viên phải được học tập nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ theo chương trình hàng năm.



4. Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở

- Chi bộ là tổ chức cơ sở đảng nhỏ nhất của Đảng. Mọi đảng viên thực hiện các nhiệm vụ của mình cũng chủ yếu thể hiện ở chi bộ và được đánh giá từ chi bộ. Do vậy, chất lượng, hiệu quả hoạt động của chi bộ quyết định vai trò và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.

- Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi cư trú của đảng viên. Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có rất nhiều các loại hình khác nhau tùy theo tính chất, điều kiện làm việc và nơi sinh sống của đảng viên. Mỗi chi bộ ít nhất có ba đảng viên chính thức. Chi bộ có đông đảng viên được chia thành nhiều tổ đảng. Tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi ủy. Mỗi loại hình chi bộ phải được thực hiện chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng tuỳ thuộc vào nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

- Theo quy định tại Điều 24, Điều lệ Đảng, tổ chức và hoạt động của chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở như sau:

+ Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có 3 đảng viên chính thức. Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ đảng bầu tổ trưởng, nếu cần thì bầu tổ phó; tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi uỷ.

+ Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần chúng và công tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi uỷ họp thường lệ mỗi tháng một lần.

+ Đại hội chi bộ do chi uỷ triệu tập năm năm hai lần; nơi chưa có chi uỷ thì do bí thư chi bộ triệu tập. Khi được đảng uỷ cơ sở đồng ý có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá sáu tháng.

+ Chi bộ có dưới chín đảng viên chính thức, bầu bí thư chi bộ; nếu cần, bầu phó bí thư. Chi bộ có chín đảng viên chính thức trở lên, bầu chi uỷ, bầu bí thư và phó bí thư chi bộ trong số chi uỷ viên.

Việc đánh giá một chi bộ có hoàn thành các nhiệm vụ, có đạt chất lượng trong sạch, vững mạnh hay không được căn cứ vào kết quả toàn diện trong thực tiễn lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, không chỉ căn cứ vào một mặt riêng biệt nào.

II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở CƠ SỞ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG VIÊN



1. Nội dung công tác xây dựng Đảng ở cơ sở

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội XI đã xác định 8 nhiệm vụ chủ yếu của công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn mới. Đó là:

- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị.

- Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tư tưởng, lý luận.

- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.

- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.

- Kiện toàn tổ chưc cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.

- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng1.

Vận dụng vào công tác xây dựng Đảng ở cơ sở, nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên có những nội dung chính sau:



a. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng

- Từ chỗ khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, cần phải thường xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Những năm qua, toàn Đảng đã tập trung chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đã chú ý hơn tới việc xây dựng, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, bước đầu đã quan tâm xây dựng tổ chức đảng ở các công ty tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đã có những bước tiến quan trọng trong việc xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng ngày càng phù hợp hơn trong điều kịên mới. Hệ thống tổ chức cơ sở đảng không ngừng được củng cố, phát triển, phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị tại cơ sở, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng.

Tuy nhiên, việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh còn những hạn chế, yếu kém. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: "Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội”1.

Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện các yêu cầu sau đây:

+ Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong Đảng.

+ Tất cả các đảng bộ, chi bộ cơ sở đều phải nâng cao nhận thức và thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp để đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.

+ Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở. Có cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết, quyết định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân; bố trí cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở, để nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên.

+ Đổi mới phương thức lãnh đạo, từ việc ra nghị quyết, xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, xây dựng đội ngũ cán bộ... đến việc lãnh đạo các cuộc bầu cử, đảm bảo phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn.

+ Nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng vai trò lãnh đạo. Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, các đảng bộ, chi bộ yếu kém; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; kiện toàn đội ngũ cấp uỷ, bí thư chi bộ; bồi dưỡng, tạo nguồn, thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ, công chức cơ sở; đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra giám sát đảng viên của chi bộ. Đảng viên có cương vị càng cao, càng phải gương mẫu chấp hành sự quản lý của chi bộ.

- Để xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện tốt các chủ trương và biện pháp sau:

+ Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chi bộ.

+ Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu; giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.

+ Chú trọng và tăng cường công tác phát triển Đảng, sớm khắc phục tình trạng một số cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Việc kết nạp đảng viên phải coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Đảng, đạo đức, lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ; trọng tâm hướng vào thế hệ trẻ, công nhân, nông dân, trí thức, quân nhân, cán bộ, con em các gia đình có công với cách mạng. Coi trọng giáo dục, rèn luyện đảng viên dự bị, đảng viên trẻ.

+ Đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Có những tiêu chí cụ thể để đánh giá đúng thực chất; khắc phục tình trạng nể nang, dễ dãi, chạy theo thành tích. Thường xuyên sàng lọc đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng bằng các hình thức thích hợp. Khai trừ những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vận động ra Đảng hoặc xoá tên khỏi danh sách đảng viên đối với những đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, không làm tròn nhiệm vụ đảng viên, đã được tổ chức đảng giúp đỡ mà không tiến bộ.



b. Nâng cao chất lượng đảng viên

Cần nắm vững các yêu cầu sau đây để các tổ chức cơ sở đảng có những biện pháp chấn chỉnh, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng.

- Về tư tưởng chính trị: tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thách thức. Có ý thức giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng.

- Về trình độ năng lực: có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có năng lực vận động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Về phẩm chất, đạo đức, lối sống: có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, đi đầu trong công tác; xử lý hài hoà các lợi ích, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật. Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.

2. Trách nhiệm của đảng viên đối với tổ chức cơ sở đảng và chi bộ

Mỗi đảng viên phải hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng nhất định. Chất lượng của từng đảng viên góp phần tạo nên chất lượng của chi bộ, đảng bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, của chi bộ không thể tách rời việc nâng cao chất lượng đảng viên. Ngược lại, đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh tạo điều kiện để mỗi đảng viên thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ của mình, giữ vững tư cách người đảng viên. Vì vậy, đảng viên cần nêu cao trách nhiệm xây dựng đảng bộ, chi bộ.



a) Đảng viên phải đóng góp tích cực với đảng bộ, chi bộ trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở, đơn vị.

Để thực hiện yêu cầu này, đảng viên cần:

- Thường xuyên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao trình độ lý luận chính trị, phương pháp công tác khoa học. Thường xuyên học tập những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa văn hóa của nhân loại, những kiến thức mới của thời đại để không ngừng làm giàu trí tuệ của mình, từ đó góp phần cùng tổ chức Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

- Nắm vững và thực hiện nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những chủ trương, nhiệm vụ của cấp uỷ và chính quyền địa phương (tỉnh, thành; huyện, quận...).

- Hiểu rõ tình hình thực tế ở cơ sở, đơn vị, những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết.

- Thường xuyên suy nghĩ, góp phần đề ra chủ trương và các giải pháp đúng đắn, sát hợp, có tính khả thi của đảng bộ, chi bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

- Gương mẫu thực hiện nghị quyết và chấp hành sự phân công của đảng bộ, chi bộ; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân và gia đình thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra.

b) Đảng viên phải góp phần tích cực vào việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng có sự thống nhất cao về chính trị và tư tưởng, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống.

Để thực hiện yêu cầu trên, đảng viên cần:

- Thực hiện chế độ học tập bắt buộc theo quy định của Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm túc "chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng". Trên cơ sở nâng cao nhận thức, kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng.

- Gương mẫu, tự giác rèn luyện, phấn đấu nâng cao bản lĩnh chính trị; phẩm chất, đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư"; khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Không làm những việc trái với quy định của Đảng, xa lạ với bản chất người đảng viên cộng sản. Không tham nhũng, làm ăn phi pháp; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong Đảng và trong nhân dân.

- Kiên quyết đấu tranh với những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những biểu hiện thiếu kiên định về tư tưởng chính trị, giúp đồng chí nhận rõ và khắc phục những nhận thức, tư tưởng không đúng. Phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch.

- Phát huy tự do tư tưởng, tham gia thảo luận, tranh luận tìm ra chân lý, lẽ phải. Thực hiện đúng quyền được phát biểu ý kiến trong tổ chức, được bảo lưu ý kiến và chấp hành nghị quyết của Đảng. Không được truyền bá những quan điểm trái với quan điểm, đường lối của Đảng.



c) Đảng viên phải đóng góp tích cực xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Để thực hiện yêu cầu này, đảng viên cần:

- Phát huy dân chủ, tích cực thảo luận và tham gia quyết định các chủ trương, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, đồng thời thực hiện đúng nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng quyết định của tập thể.

- Thường xuyên rèn luyện, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, đảng bộ; tham gia đầy đủ các kỳ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng.

- Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình. Khắc phục tình trạng tự phê bình một cách hình thức, chiếu lệ, không dũng cảm nêu ra và sửa chữa khuyết điểm. Không nể nang, xuê xoa trong phê bình, nhưng cũng không được lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, gây rối nội bộ.

- Ra sức chăm lo, giữ gìn đoàn kết nội bộ trên cơ sở đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và các quy định của Điều lệ Đảng; kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện chia rẽ, bè cánh, cục bộ do kèn cựa, tranh giành chức quyền, lợi lộc.

- Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; kiên quyết chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, làm suy yếu, hạ thấp đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tham gia đấu tranh với những phần tử bất mãn, cơ hội chống đảng và những biểu hiện lệch lạc, trái quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Phân tích vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng.

2. Nêu những nội dung công tác xây dựng đảng ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.

3. Phân tích nhiệm vụ của đảng viên trong công tác xây dựng đảng ở cơ sở.



Bài 9

KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN

ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI DANH HIỆU NGƯỜI ĐẢNG VIÊN

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM



1. Vị trí, vai trò của người đảng viên

a. Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.



Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nên từng đảng viên của Đảng phải là chiến sĩ cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, phấn đấu vì lợi ích của giai cấp. Toàn bộ sức mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ từng người đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”1.

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đảng viên là người tiên tiến nhất trong nhân dân lao động và của dân tộc. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc Đảng giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp và dân tộc, mỗi người đảng viên của Đảng luôn luôn phấn đấu vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.

Thứ ba, Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, nhờ đó mà Đảng được cả dân tộc gọi là Đảng ta. Mỗi đảng viên đều đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên trên hết, trước hết.

Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo nhân dân, nên mỗi đảng viên là người tiên phong, gương mẫu trước quần chúng nhân dân.

b. Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó.

- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam bằng việc định ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn; công tác cán bộ và vai trò gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

- Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đường lối của Đảng là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng. Mỗi đảng viên của Đảng đều có trách nhiệm trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng qua tham gia xây dựng các nghị quyết của Đảng từ cơ sở trở lên.

- Sau khi có đường lối đúng đắn, việc bảo đảm cho đường lối được thực hiện thắng lợi trong thực tế có vai trò quan trọng. Đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm tấm gương tốt cho quần chúng noi theo. Nhân dân ta có câu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Điều đó vừa nói lên lòng tin yêu của quần chúng đối với đảng viên, vừa nói lên yêu cầu gương mẫu trước quần chúng của đảng viên.



c. Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng.

- Đảng viên là người lãnh đạo, bởi vì đảng viên có giác ngộ lý tưởng của Đảng, đem tư tưởng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tuyên truyền cho quần chúng trong cơ quan, đơn vị, trong cộng đồng, cho gia đình mình và bằng hành động của mình tập hợp lôi cuốn họ thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành”1.

- Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân, bởi vì mục tiêu lý tưởng của Đảng ta là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, vì vậy đảng viên của Đảng suốt đời phấn đấu để phục vụ cho lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân”. Người nhấn mạnh: “làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải là quan nhân dân”2.

- Là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân, đảng viên không tự hạ thấp trình độ nhận thức, phẩm chất chính trị của mình, không theo đuôi quần chúng, mà luôn luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng để lãnh đạo, giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ của quần chúng, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng.

Là đảng viên mỗi người đều phải phấn đáu theo lời dạy của V.I. Lênin phải bảo vệ tính vững chắc, tính kiên định, tính trong sạch của Đảng và phải cố gắng làm cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng viên ngày càng cao hơn lên mãi.

d. Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.

- Trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thù định, đặc biệt chống chiến lược “diễn biến hoà bình” hiện nay, việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố có tính quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

- Đảng viên, người chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân có trách nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, đấu tranh có hiệu quả với các biểu hiện của tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, xét lại hoặc giáo điều, bảo thủ, làm cho Đảng ta luôn luôn vững vàng, kiên định, có sức chiến đấu cao.

2. Nhiệm vụ của người đảng viên

Điều 2, Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI xác định nhiệm vụ của người đảng viên gồm:

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

II. KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI DANH HIỆU ĐẢNG VIÊN

1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng

- Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của người đảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giá chất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọi đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.

- Điểm 1, điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định tiêu chuẩn đảng viên như sau: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.

Những tiêu chuẩn đảng viên trên đây thể hiện qua các điểm sau:



Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.

+ Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.

+ Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Việt Nam hiện nay là phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói, thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.



Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.

- Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản Nga rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế, phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu…

- Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức phát triển, toàn cầu hoá mạnh mẽ đang tạo ra thời cơ và thách thức với tất cả quốc gia, dân tộc. Rõ ràng, trong tình hình đó, đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những kiến thức văn hoá, khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế - xã hội, pháp luật... để có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân... Những lời dạy đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi mới.

- Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng và hết lòng phục nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, thống nhất giữa lời nói và việc làm.

- Đạo đức, lối sống mới yêu cầu dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân mình.

- Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.

Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.

- Đoàn kết trong Đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong Đảng Cộng sản không thể tồn tại nhiều phái, nhiều phe cánh với lập trường và lợi ích khác nhau. Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta mà tất cả các tổ chức đảng và đảng viên phải ra sức giữ gìn, vun đắp như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Nền tảng của sự đoàn kết trong Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ chức Đảng.

- Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải tôn trọng và chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội nghị Đảng.



Năm là, gắn bó mật thiết với quần chúng.

- Sức mạnh vô địch của Đảng là ở sự gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Vì vậy, mỗi đảng viên, trước hết là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, có chức, có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hàng ngày của dân, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến dân, giúp đỡ dân khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập, ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền dân chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.

- Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động chính trị - thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên.

Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.

- Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong sáng trong hoàn cảnh mới.

2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản

Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.

- Về mặt cá nhân

Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt Nam, đó là:

+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

- Về tư cách đảng viên thành viên của tổ chức đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức..., làm mực thước cho người ta bắt chước”1. Đối với Đảng, “Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”2.

- Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng sản của mình và không ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “tất cả các đảng viên, cán bộ và chi bộ cần phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên...”3, coi đó là cách tốt nhất để xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.

- Trong nhiệm vụ kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội XI chỉ rõ:Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, trước hết là bí thư cấp uỷ. Thực hiện trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ cơ sở”1.

Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.

- Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân

+ Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã thảo luận, biểu quyết và thông qua chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”2. Như vậy, Đại hội đã đồng ý để đảng viên làm kinh tế tư nhân với một số quy định nhất định.

+ Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển kinh tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát triển trong xã hội, trong đó có trên 3 triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin, phải qua “những bước trung gian”, “ bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.

+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế; kinh tế tư nhân không đối lập với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân cũng là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Tuy nhiên, kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có thể có những những tác động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn chế những tác động tiêu cực đó, Nghị quyết Đại hội X yêu cầu đảng viên phải khác với những công dân khác là ngoài việc chấp hành đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng và những quy định trong Đảng, để làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ đúng tư cách đảng viên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông qua những quy định đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên khi làm kinh tế tư nhân là phải thực hiện tốt những quy định này.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội XI yêu cầu:Tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân. Thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng”.

III. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG VIÊN

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, gắn bó chặt chẽ với nhân dân và được nhân dân tin cậy. Sức mạnh của Đảng nằm trong sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân và toàn dân tộc. Để phát huy được sức mạnh, Đảng phải luôn luôn quan tâm đến công tác vận động nhân dân, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Mỗi đảng viên đều phải quan tâm và làm tốt công tác vận động nhân dân.

1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới

Nghị quyết Trung ương 8 (B) khoá VI "Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân" xác định bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác vận động nhân dân trong thời kỳ mới.



Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì nhân dân.

- Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, nâng lên tầm cao mới, với những nội dung mới. Ngay từ năm 1949, Người đã chỉ rõ:




tải về 0.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương