CHỦ nghĩa mác lênin và TƯ TƯỞng hồ chí minh nền tảng tư TƯỞNG, kim chỉ nam cho hành đỘng cách mạng củA ĐẢng ta



tải về 0.69 Mb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.69 Mb.
#30005
1   2   3   4   5   6

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Phân tích bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

2. Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

3. Cần làm gì để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ?

Bài 2

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐI LÊN

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI-MỘT SỰ LỰA CHỌN HỢP QUY LUẬT, HỢP LÒNG DÂN

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, của nhân dân ta đi theo Đảng, Bác Hồ, làm nên những thắng lợi vĩ đại, đưa dân tộc lên tầm cao mới của thời đại.



1. Sự lựa chọn khách quan của lịch sử

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sỹ, trí thức, nông dân, binh lính yêu nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nông dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, các cuộc chiến quyết tử bảo vệ thành Gia Định, thành Hà Nội của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, phong trào Cần Vương, các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học... Dù tràn đầy lòng yêu nước, đức hy sinh, nhưng các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn đề độc lập dân tộc không được giải quyết, trước hết là do không có đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước.

Tháng 6 năm 1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các nước, rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.

Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người là khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin (1919), tác phẩm lý luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng thế giới... Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"1. Từ niềm tin đó, Người tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.

Căn cứ chủ yếu của sự lựa chọn đó thể hiện ở các điểm sau:

Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này giúp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đang bế tắc về hướng đi.

Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động khỏi bóc lột, ách áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc" như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ.

Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.

Chủ nghĩa xã hội thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ, xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác về chính trị, kinh tế và tinh thần.

Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.



2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn

Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại:



Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ba là, thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; củng cố vững chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội.

Bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, là bài học phải "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".



3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh năm 1991 xác định:

- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

- Từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất rất thấp.

- Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều chục năm, hậu quả xã hội do chiến tranh để lại rất nặng nề.

- Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại.

Đó là những khó khăn khách quan trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cho thấy thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, chưa có tiền lệ.

Bên cạnh đó, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều thuận lợi:

- Đất nước hoà bình và thống nhất.

- Dân tộc Việt Nam có truyền thống anh hùng, bất khuất, nhân dân có lòng yêu nước và cần cù lao động.

- Chúng ta đã có một số cơ sở vật chất ban đầu.

- Thời cơ phát triển do cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo ra.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:

- Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen (Cương lĩnh năm 1991 chỉ nêu yêu cầu về sự cần thiết phải có bước đi, hình thức, biện pháp thích hợp).

- Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản:

+ Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo (bổ sung so với Cương lĩnh năm 1991).

+ Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng (kế thừa, trình bày rõ hơn Cương lĩnh năm 1991).

+ Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng (kế thừa Cương lĩnh năm 1991).

+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.

II. VỀ MÔ HÌNH XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MÀ NHÂN DÂN TA XÂY DỰNG

Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Bắt đầu từ Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), Đảng đã khái quát các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X và XI của Đảng đã bổ sung, phát triển các đặc trưng trên.

1. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã khái quát 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu (quan hệ sản xuất dựa trên "chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu" chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa).

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới1.



2. Sự bổ sung, phát triển tại Đại hội X

Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới, trên nền Cương lĩnh 1991, Đại hội X đã bổ sung và phát triển, nêu lên 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:



Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh (đây là đặc trưng mới mà Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập; sự bổ sung phản ánh yêu cầu diễn đạt chủ nghĩa xã hội một cách khái quát, ngắn gọn, dễ hiểu nhất).

Hai là, do nhân dân làm chủ (so với Cương lĩnh 1991, bỏ cụm từ "lao động" cho đúng với thực tế khi đã xây dựng về cơ bản chủ nghĩa xã hội).

Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (so với Cương lĩnh năm 1991, bỏ cụm từ: "dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu" và thay bằng cụm từ mới "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" nhằm tránh sự hiểu lầm, xuyên tạc về đường lối kinh tế của Đảng ta. Cách diễn đạt này không trái với Cương lĩnh năm 1991 vì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất hiện đại trong điều kiện nền kinh tế phát triển cao chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa).

Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện (so với Cương lĩnh năm 1991, bỏ đoạn "bóc lột" xuất phát từ thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ và do khái niệm "bóc lột" còn có ý kiến khác nhau).

Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (so với Cương lĩnh năm 1991, bổ sung thêm cụm từ tương trợ).

Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (đặc trưng này chưa được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991; sự bổ sung thể hiện nhận thức rất mới của Đảng về Nhà nước xã hội chủ nghĩa).

Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, về số lượng, Đại hội X bổ sung thêm 2 đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa và sửa đổi một số ý trong 6 đặc trưng nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Đó là bước phát triển mới của Đảng trong nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.



3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm nội dung các đặc trựng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, gồm :

- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (so với Đại hội X, đưa "dân chủ" lên trước "công bằng" cho phù hợp về lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa dân chủ và công bằng);

- Do nhân dân làm chủ;

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp (thay đổi so với Đại hội X trong cách diễn đạt về quan hệ sản xuất nhằm khẳng định quả quyết hơn về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa khi kết thúc thời kỳ quá độ vì để tránh khả năng có quan hệ sản xuất phù hợp mà không phải xã hội chủ nghĩa);

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện (so với Đại hội X, bỏ cụm từ "con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công" cho phù hợp với thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ);

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển (so với Đại hội X, bổ sung thêm các cụm từ "tôn trọng" và "phát triển" vì đây là những vấn đề rất quan trọng trong quan hệ dân tộc hiện nay);

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo;

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới (so với Đại hội X có thay đổi cho phù hợp với xu thế trong thực tiễn quan hệ đối ngoại của nước ta với các nước trên thế giới, không bó hẹp trong quan hệ đối ngoại chỉ với nhân dân các nước).

Đại hội khẳng định, để xây dựng được xã hội với các đặc trưng trên phải tiến hành một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau.

III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là không qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Nhận thức của Đảng về các quá trình này ngày càng hoàn chỉnh hơn.

1. Đại hội VII về phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội

Đại hội VII nêu 7 phương hướng cơ bản:



Một là, “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”1.

Hai là, “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”1.

Ba là, “Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”1.

Bốn là, "Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội"1.

Năm là, “Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"2.

Sáu là, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”1.

Bảy là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”2.

2. Sự bổ sung, phát triển của Đại hội X

Trên cơ sở bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nêu trong Cương lĩnh 1991, Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta.



Một là, "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"3.

Hai là, “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"1.

Ba là, "Xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội"2.

Bốn là, “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc"3.

Năm là, "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"4.

Sáu là, "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh"1.

Bảy là, "Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia"2.

Tám là, "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"3.

3. Phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh ( bổ sung, phát triển năm 2011)

Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). So với Cương lĩnh năm 1991 và Đại hội X, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã hoàn chỉnh và sắp xếp lại thứ tự các phương hướng cơ bản như sau:



Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Trong thời đại cách mạng khoa học- công nghệ, công nghiệp hoá phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.



Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mô hình đó đòi hỏi phải:

- Phát triển các thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

- Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Văn hoá là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Cần tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.



Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong điều kiện mới, tình hình mới, cần nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới...



Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Chủ động về đường lối, chính sách, bước đi trong hội nhập. Tích cực chuẩn bị vươn lên tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại hội XI bổ sung cam kết nước ta là "thành viên có trách nhiệm" của các tổ chức quốc tế mà chúng ta tham gia.



Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu và bản chất của chế độ ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội X, Đại hội XI đều xác định đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.



Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nhà nước pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là đảm bảo quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp quyền ở nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XI xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.



Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “nhiệm vụ then chốt", có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn phải được coi là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.



CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Những căn cứ lý luận và thực tiễn nào để chúng ta khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một sự lựa chọn hợp quy luật, hợp lòng dân ?

2. Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng theo Văn kiện Đại hội XI của Đảng?

3. Phân tích những phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng?



Bài 3

PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỨC MẠNH

ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
I. VỀ DÂN CHỦ VÀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ là từ xuất hiện từ lâu ở Hy Lạp, theo chữ Hy Lạp “demos” và “kratos”, có nghĩa là “nhân dân” và “chính quyền” tạo thành. Đến thế kỷ thứ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật ngữ “democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”, một trong những hình thức chính quyền với đặc trưng là chính quyền nhà nước thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân.

Khi xã hội phát triển đến trình độ nhất định thì xuất hiện "nhà nước" và song song với điều đó là sự xuất hiện của phạm trù "nhân dân".

Nhà nước là người cai quản nhân dân, quyết định nhân dân được làm gì và không được làm gì. Nếu nhà nước quyết định mọi vấn đề thì đó là nhà nước không có dân chủ. Nếu nhân dân có quyền quyết định hoặc tham gia với nhà nước quyết định những vấn đề nhất định thì đó là xã hội có dân chủ.

Như vậy, dân chủ là quyền của nhân dân tự mình quyết định hoặc tham gia với nhà nước quyết định những vấn đề nhất định.

Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Không có chủ nghĩa xã hội phi dân chủ. Do đó, dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân làm chủ, do đó, "mọi quyền lực đều nằm ở nơi dân", thuộc về nhân dân.

Dân chủ vừa liên quan đến việc tận dụng tiềm năng và trí tuệ của số đông, vừa liên quan đến sự tự do, giải phóng sức sáng tạo của quần chúng, do đó, dân chủ còn là động lực của sự phát triển của xã hội.

Kế thừa và phát triển quan điểm phát huy dân chủ của các đại hội trước, Đại hội XI tiếp tục khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Dân chủ là mục tiêu bời vì sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đảm bảo để con người thực sự làm chủ xã hội. Dân chủ là động lực cho sự nghiệp đổi mới vì dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi con người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo được tự do phát triển; mọi người dân được tham gia vào các quá trình chính trị, xã hội trên tất cả các khâu, từ hoạch định đường lối đến triển khai, tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra và tổng kết... Nhờ đó, những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.

Phát huy dân chủ nhằm thực hiện mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, tạo ra động lực cho quá trình đi lên đó.

Có hai hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, tức là dân chủ đại diện. Người đại diện lớn nhất cho quyền làm chủ của nhân dân. Đó chính là Nhà nước. Đại hội X khẳng định: "Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân".

2. Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa

a. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta về dân chủ

Qua 25 năm đổi mới, Đảng ta đó có bước phát triển quan trọng trong nhận thức về dân chủ, đó là:

+ Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Dân chủ được xem xét theo nhiều khía cạnh: dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung trong cả xã hội và dân chủ đối với mỗi cá nhân; coi trọng cả dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội.

+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp thu và phát triển các giá trị của nhân loại về dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Sự khác biệt về bản chất giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản là rõ ràng, nhưng điều đó không ngăn cản việc tham khảo các thành quả của các nước tiên tiến về quản lý nhà nước, thiết kế bộ máy quản lý nhà nước, hành chính công, trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân…

+ Nhận thức về tính tiệm tiến lâu dài trong quá trình phát triển dân chủ: dân chủ là kết quả của cả một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như nâng cao năng lực thực hành dân chủ, không thể nóng vội, thoát ly thực tiễn, trong đó dân chủ được thực hiện.

+ Phải dân chủ trong tất cả các cấp độ, từ các cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước (Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ) đến cấp cơ sở, trong đó đặc biệt quan trọng là dân chủ ở cơ sở.

+ Phải tìm tòi, tổng kết thực tiễn để tìm ra và hoàn thiện các hình thức thực hiện dân chủ thực chất, đúng hướng, có hiệu quả. Hoàn thiện cả dân chủ trực tiếp và dân chủ thông qua đại diện.

+ Trong quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ cần chống các biểu hiện lệch lạc: dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để làm tổn hại lợi ích nhà nước và lợi ích của công dân, để gây rối; kiên quyết bác bỏ luận điệu giả trá về dân chủ, nhân quyền của các thế lực phản động, thù địch.



b. Nội dung phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay

Đại hội X nêu ba nội dung:

- Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân.

- Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

- Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.

Đại hội XI bổ sung 5 nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa:

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.

- Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp.

- Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội;

- Phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.

- Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta do một Đảng lãnh đạo. Trong điều kiện đó, dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong xã hội có vai trò rất quan trọng. Chỉ có thực hiện tốt dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến xây dựng và phát triển tốt dân chủ trong xã hội.

II. PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TỘC VÌ MỤC TIÊU DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH



1. Khái niệm về đại đoàn kết toàn dân tộc

Đoàn kết trong một cộng đồng là các thành viên trong cộng đồng đó bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển; các thành viên hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung hoặc chấp nhận, tôn trong lợi ích riêng của các thành viên khác không để ảnh hưởng đến lợi ích chung.

Đoàn kết toàn dân tộc là sự bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển... của mọi giai tầng trong cộng đồng dân tộc, trong đó, các giai tầng hy sinh lợi ích riêng hay chấp nhận lợi ích của các giai tầng khác để bảo vệ lợi ích chung, lâu dài.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chỉ rõ về sự đại đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam khi kết thúc thời kỳ quá độ là: "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển"1.

Đại hội X khẳng định và Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, nhận định về vai trò to lớn của đại đoàn kết toàn dân tộc: Là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc2.

Cơ sở, điều kiện của đại đoàn kết toàn dân tộc là:

- Sự thống nhất về lợi ích và chấp nhận sự khác biệt không trái với lợi ích chung, lâu dài. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.

- Công bằng là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo sự đoàn kết. Chỉ có thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội mới đảm bảo có đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân; Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình1.

- Có sự quản lý, điều hành, sự quan tâm của Nhà nước; pháp luật của nhà nước luôn hướng sự thống nhất lợi ích toàn dân tộc...

- Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách hài hòa đối với các giai tầng trong xã hội, đảm bảo mọi tầng lớp dân cư đều có điều kiện phát triển và được hưởng lợi ích từ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước mang lại; thực hiện đường lối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức.

2. Quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh toàn dân tộc

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI của Đảng xác định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”2. Đại hội VIII khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay"3. Đại hội IX của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”1. Đại hội X đã nhấn rất mạnh nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề của Đại hội; coi đó là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tiếp tục đường lối được xác định trong các đại hội trước, Đại hội XI khẳng định "Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình"2.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân...”.

Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đảng ta được thể hiện qua các nội dung sau:



Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Bà là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của yếu tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI là: “Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân”.

Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.

3. Nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân trong giai đoạn hiện nay

Tinh thần và nội dung Nghị quyết Đại hội X và Đại XI của Đảng, các chính sách của Nhà nước hiện hành đã xác định nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân tộc hiện nay là:

- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

- Xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp.

- Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.

- Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.

- Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó vai trò hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng. Để Đảng ta thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Xây dựng những cơ chế cụ thể để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng; Đảng phải chăm lo lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò đại diện cho lợi ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng thời là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải thông qua Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và bằng các hình thức đa dạng khác.

- Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư ở cơ sở, như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị... thực hiện tốt các cuộc vận động trong từng lĩnh vực cụ thể và cuộc vận động chung: “Toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.

- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn trước mắt cần:

+ Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội.

+ Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế với văn hóa - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước.

+ Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.

+ Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo…

Câu hỏi thảo luận

1. Trình bày nội dung phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay?

2. Trình bày và phân tích một số nội dung chính của quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân trong giai đoạn hiện nay ?

3. Phân tích mối quan hệ giữa phát huy dân chủ và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc?



Bài 4

XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN



1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền có từ rất sớm ở Hy Lạp. Đến thế kỷ XVIII, các nhà dân chủ tư sản tiếp tục hoàn thiện, nâng lên thành một học thuyết về Nhà nước pháp quyền. Đây là học thuyết tiến bộ, nhân đạo đã trở thành giá trị của nền văn minh nhân loại.

Trong lịch sử đã tồn tại và trải qua nhiều hình thức Nhà nước pháp quyền, dựa trên nguyên tắc chung, nhưng không hoàn toàn giống nhau, xuất pháp từ những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội nhất định. Vì vậy, có thể khẳng định không có một kiểu mẫu Nhà nước pháp quyền nào là kiểu mẫu tối ưu hoặc duy nhất trờn thế giới, bất cứ dân tộc khác phải đi theo. Tuy nhiên, dựa trên các hình thái Nhà nước pháp quyền tồn tại trong lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới, có thể nêu hai đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền:

(1) Nhà nước pháp quyền là Nhà nước dựa trên chế độ pháp trị, tức là sự thượng tôn pháp luật; pháp luật được đề cao; mọi tổ chức, cá nhân, mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.

(2) Nhà nước pháp quyền là Nhà nước dựa trên chế độ tam quyền phân lập; có sự độc lập tương đối trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác Nhà nước pháp quyền tư sản ở hai điểm cơ bản:

- Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước ra đời và hoạt động để phục vụ nhân dân, do nhân dân lập ra, vì lợi ích của nhân dân, trong đó, Nhân dân được hiểu theo nghĩa là tất cả mọi người sống trong Nhà nước và không bị tước quyền công dân.

Nhà nước pháp quyền tư sản cũng tuyên bố là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhưng thực chất quyền lực Nhà nước nằm trong tay giai cấp tư sản.

- Tam quyền phân lập là lập pháp, hành pháp và tư pháp trong thực hiện không đối lập nhau mà là sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau.

2. Quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền

Trước đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, mặc dù trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng pháp luật và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần Nhà nước pháp quyền ở mức độ nhất định. Bắt đầu từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994), Đảng ta đã dùng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội IX khẳng định "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật"1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân”.

Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta như sau:

Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

II. BẢN CHẤT VÀ CÁC NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM



1. Về bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Điều 2 Hiến pháp năm 1992 xác định "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"1.

Bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những đặc trưng sau:

Một là, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng, trải qua bao hy sinh gian khổ, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do nhân dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo để thực hiện quyền lực của nhân dân. Đó chính là tính chất giai cấp của Nhà nước ta.

Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân"2. Đồng thời, nhân dân có quyền giám sát, yêu cầu các đại biểu và cơ quan do nhân dân lập ra trả lời những vấn đề của nhân dân đặt ra trong việc thực thi chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo quyền lợi của nhân dân.

Hai là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam vừa là bản chất, vừa là truyền thống, vừa là nguồn gốc sức mạnh của Nhà nước ta. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình..."1.

Các dân tộc có quyền lựa chọn những đại biểu ưu tú của dân tộc mình tham gia vào cơ quan Nhà nước các cấp.



Ba là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.

Khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thì quan hệ giữa Nhà nước và công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do, dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ trước Nhà nước. Pháp luật bảo đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân: quyền của công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, nghĩa vụ của công dân là quyền của Nhà nước.



Bốn là, tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Dân chủ hoá đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước là đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu hút những người lao động tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng Nhà nước phải là quá trình dân chủ hoá tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời, phải cụ thể hoá tư tưởng dân chủ thành các quyền của công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Phát huy được quyền dân chủ của nhân dân ngày càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của Nhà nước.

Những đặc điểm mang tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và được pháp luật chế định một cách chặt chẽ.



2. Tiếp tục Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay

Đại hội X chỉ rõ: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI yêu cầu: “Không ngừng hoàn thiện tổ chức nhà nước”.

Để thực hiện yêu cầu trên, trong những năm tới cần làm tốt các nhiệm vụ sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.

Hai là, đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội:

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội.

- Tổ chức lại một số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.

- Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh.

- Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.

Ba là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ:

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.

- Luật hóa cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm hiệu lực, tinh gọn và hợp lý.

Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm mạnh cấp phó, bỏ cấp trung gian; chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng dịch vụ; phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với thực hiện có hiệu quả thanh tra, kiểm tra của cấp trên. Tăng cường quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tổ chức, nhân sự và tài chính của các đơn vị dịch vụ công cộng. Nghiên cứu để áp dụng cơ chế Thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm chức danh người đứng đầu cơ quan chính quyền cấp dưới. Tách hoạt động hành chính với các hoạt động sự nghiệp, các hoạt động công quyền với các hoạt động dịch vụ. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai dân chủ và phục vụ dân đối với các cơ quan và công chức nhà nước. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ công vụ trong các cơ quan nhà nước.

- Nghiên cứu việc thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện hành chính.

- Thực hiện phân cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, giao quyền chủ động hơn nữa cho địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.



Bốn là, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp:

- Xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.

- Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra.

- Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.



Năm là, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp:

- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.

- Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân.

- Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo.



Sáu là, đổi mới tổ chức, bộ máy hành chính và hoạt động của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức:

- Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức.

Ban hành và thực hiện Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.

- Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức.

- Có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những người không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước, hành vi của các công chức. Trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật những hành vi phạm pháp, phạm tội, bất cứ ở cương vị, chức vụ nào.

- Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

- Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng lãng phí. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng bộ máy lãnh đạo, quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta./.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Trình bày những quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền?

2. Làm rõ bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?

3. Trình bày các nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?


Bài 5

ĐƯỜNG LỐI VÀ CHIẾN LƯỢC

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI


tải về 0.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương