CÁc tội phạm chiến tranh và TỘI Ác chống nhân loạI, bao gồm tội diệt chủNG



tải về 2.09 Mb.
trang11/19
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích2.09 Mb.
#28495
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   19

PHẦN 4: HẾT HẠN CẦM GIỮ

Tiết I: Tù binh được hồi hương trực tiếp


và nằm bệnh viện ở một Nước trung lập

Điều 109. Những điều khoản chung

Ngoại trừ đoạn 3 của Điều này, các Bên trong cuộc xung đột phải gửi trả những tù binh bị thương hoặc bị bệnh rất nặng về Nước họ, theo đúng đoạn 1 của Điều tiếp sau đây, không phân biệt cấp bậc hay số lượng nhiều ít, sau khi đã săn sóc cho họ đủ sức khỏe để đi đường.

Trong suốt thời gian có chiến sự, các Bên trong cuộc xung đột phải cố gắng, với sự cộng tác của các Nước trung lập hữu quan, thu xếp để đưa các tù binh bị thương hay bị ốm nói ở đoạn 2 của Điều tiếp sau đây đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập. Ngoài ra các Bên còn có thể thỏa thuận với nhau để cho hồi hương trực tiếp hay quản thúc ở một Nước trung lập những tù binh khỏe mạnh đã bị cầm giữ từ lâu.

Trong thời gian có chiến sự không được quyền bắt hồi hương những tù binh bị thương hay bị bệnh mà đủ điều kiện hồi hương theo đoạn 1 của Điều này, nếu họ không muốn.



Điều 110. Hồi hương và nơi ở

Những tù binh sau đây sẽ được hồi hương trực tiếp:

1. Những người bị thương hay mắc những bệnh không thể chữa khỏi được mà thể lực, trí lực của họ dường như đã bị giảm sút rất nhiều;

2. Những người bị thương và bị bệnh mà theo dự đoán của cơ quan y tế không có khả năng khỏi được trong vòng một năm và tình trạng của họ đòi hỏi phải được điều trị, đồng thời sức khỏe và tinh thần của họ hình như đã bị giảm sút rất nhiều.

3. Những người bị thương và bị bệnh đã khỏi, nhưng thể lực và trí lực dường như đã giảm sút rất nhiều và thường xuyên.

Có thể đưa đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập:

1. Những người bị thương và bị bệnh có khả năng khỏi trong vòng một năm, kể từ ngày bị thương hay bắt đầu mắc bệnh, nếu được điều trị ở một Nước trung lập thì có nhiều khả năng khỏi hẳn và mau hơn.

2. Những tù binh theo dự đoán của cơ quan y tế nếu tiếp tục bị cấm giữ thì thể lực và trí lực sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng nếu được đưa đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập thì có thể tránh được.

Các Nước hữu quan phải quy định những điều kiện để cho những tù binh nằm bệnh viện ở một Nước trung lập có thể được hồi hương cũng như quy chế của họ. Nói chung thì những tù binh nằm bệnh viện ở một Nước trung lập thuộc những loại dưới đây phải được hồi hương:

1. Những người mà tình trạng sức khỏe ngày càng nguy ngập đến mức hội tụ đủ điều kiện được hồi hương trực tiếp.

2. Những người mà thể lực hay trí lực vẫn bị giảm sút rất nhiều sau khi được điều trị

Nếu giữa các Bên trong cuộc xung đột không có những thỏa thuận riêng ấn định những trường hợp khuyết tật hay ốm đau cần phải cho hồi hương trực tiếp hay đưa đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập thì có thể giải quyết những trường hợp đó theo các nguyên tắc đã đề ra ở Thỏa thuận mẫu về vấn đề hồi hương trực tiếp hay đưa đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập những tù binh bị thương và bị ốm và bản Điều lệ về các Hội đồng Y tế Liên hợp, được kèm theo Công ước này.



Điều 111. Quản thúc tại một Nước trung lập

Nước giam giữ và Nước mà tù binh thuộc quyền, cùng với Nước trung lập đã được hai Nước này chọn, phải cố gắng thỏa thuận với nhau để cho các tù binh được quản thúc ở trên lãnh thổ Nước trung lập này cho đến khi chiến sự kết thúc.



Điều 112. Hội đồng Y tế Liên hợp

Ngay từ đầu cuộc xung đột, các Hội đồng Y tế Liên hợp phải được chỉ định để thăm khám các tù binh bị thương và bị bệnh và để có những quyết định có ích đối với họ. Việc chỉ định, nhiệm vụ và sự vận hành của các Hội đồng này phải theo đúng những điều khoản quy định ở bản Điều lệ kèm theo Công ước này. Tuy nhiên, những tù binh mà theo ý kiến của các nhà đương cục y tế của Nước giam giữ, rõ ràng là bị thương rất nặng hay bị ốm rất nặng, cũng có thể được hồi hương mà không cần phải khám ở Hội đồng Y tế Liên hợp.



Điều 113. Tù binh được Hội đồng Y tế Liên hợp kiểm tra

Ngoài những tù binh được các nhà đương cục y tế của Nước giam giữ chỉ định, những tù binh bị thương hay bị bệnh, thuộc những loại dưới đây, cũng được quyền đi khám ở các Hội đồng Y tế Liên hợp nói ở Điều trên:

1. Những người bị thương và bị bệnh được đề nghị bởi một bác sĩ đồng hương hay là công dân một Nước trong cuộc xung đột đồng minh với Nước mà tù binh thuộc quyền, đang công tác ở trong trại.

2. Những người bị thương và những người bị bệnh được đại diện của tù binh đề nghị.

3. Những người bị thương và những người bị bệnh được đề nghị bởi Nước mà họ thuộc quyền hoặc bởi một tổ chức đã được Nước này công nhận để cứu trợ cho tù binh.

Những tù binh không thuộc vào ba loại trên đây cũng có thể tự trình diện để xin khám ở các Hội đồng Y tế Liên hợp nhưng phải khám sau những người thuộc các loại nói trên.

Bác sĩ đồng hương với những tù binh tự trình diện xin khám ở Hội đồng Y tế Liên hợp và người đại biểu của những tù binh đó được quyền tham dự buổi khám.

Điều 114. Tù binh gặp tai nạn

Những tù binh bị tai nạn, trừ trường hợp những người cố ý tự làm họ bị thương, được hưởng những điều khoản trong Công ước này về việc hồi hương hoặc về việc nằm bệnh viện ở một Nước trung lập.



Điều 115. Tù binh đang thụ án kỷ luật

Không được giữ lại một tù binh nào bị hình phạt kỷ luật mà đủ điều kiện đã định để được hồi hương hay đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập, vì lý do họ chưa chấp hành xong hình phạt kỷ luật.

Những tù binh bị tòa án truy tố hay đã bị kết án mà được chỉ định cho hồi hương hay cho đi nằm bệnh viện ở một Nước trung lập có thể được hưởng những biện pháp ấy trước khi thủ tục truy tố kết thúc hay trước khi hình phạt đã thi hành xong, nếu Nước giam giữ đồng ý.

Các Bên trong cuộc xung đột thông báo cho nhau biết những người sẽ bị giữ lại đến khi thủ tục truy tố kết thúc hay hình phạt đã thi hành xong.



Điều 116. Những chi phí về hồi hương

Các chi phí hồi hương tù binh hay tiền chuyên chở họ đến một Nước trung lập sẽ do Nước mà tù binh thuộc quyền chịu trách nhiệm, kể từ biên giới Nước giam giữ trở đi.



Điều 117. Hoạt động sau hồi hương

Không được tuyển quân dịch bất cứ một tù binh nào đã hồi hương.

Tiết II: Phóng thích và hồi hương tù binh
khi chiến sự chấm dứt

Điều 118. Ra tù và hồi hương

Những tù binh phải được phóng thích và cho hồi hương ngay sau khi chiến sự chấm dứt mà không được trì hoãn.

Trong trường hợp không có những quy định về việc này ghi trong thỏa thuận giữa các Bên trong cuộc xung đột để chấm dứt chiến sự, hay trong trường hợp không có một thỏa thuận nào như thế, mỗi một Nước giam giữ phải tự lập ra và thi hành ngay một kế hoạch hồi hương tù binh, theo nguyên tắc nêu lên trong đoạn trên.

Trong cả hai trường hợp kể trên đều phải báo cho tù binh biết những biện pháp sẽ được thi hành.

Trong mọi trường hợp, các chi phí về việc hồi hương tù binh sẽ phân chia một cách công bằng cho Nước giam giữ và cho Nước mà họ thuộc quyền. Để đạt mục đích ấy, những nguyên tắc sau này phải được tôn trọng trong khi thực hiện sự phân chia:

1. Nếu hai Nước ở giáp nhau, Nước mà tù binh thuộc quyền phải chịu các chi phí về hồi hương kể từ biên giới Nước giam giữ trở đi.

2. Nếu hai Nước không ở giáp nhau, Nước giam giữ phải chịu các chi phí chuyên chở tù binh trên lãnh thổ Nước mình ra đến tận biên giới hay tận hải cảng nơi họ xuống tàu, gần Nước mà họ thuộc quyền nhất. Về phần chi phí hồi hương còn lại, các Bên hữu quan phải thỏa thuận phân chia với nhau một cách công bằng. Trong bất cứ trường hợp nào cũng không vì sự thỏa thuận này mà làm chậm trễ việc hồi hương của tù binh.

Điều 119. Những thủ tục chi tiết

Việc hồi hương phải được tiến hành trong những điều kiện tương tự những điều kiện di chuyển tù binh quy định ở các Điều 46 đến 48 trong Công ước này; đồng thời phải chú ý đến những quy định ở Điều 118 và các điều sau điều này. Khi hồi hương, phải trao trả tù binh những vật có giá trị của họ mà đã bị lấy đi theo Điều 18 và những khoản ngoại tệ của họ mà chưa chuyển đổi sang tiền của Nước giam giữ. Phải gửi đến Phòng thông tin đã được thành lập theo Điều 122 những vật có giá trị hay ngoại tệ mà, vì bất kỳ lý do gì, không trao trả tù binh lúc họ được hồi hương.

Tù binh được phép đem theo quần áo của họ, thư từ và các gói đồ đã gửi đến địa chỉ của họ. Nếu điều kiện hồi hương đòi hỏi, thì có thể hạn chế trọng lượng hành lý của tù binh xuống mức mà họ đủ sức mang theo. Bất cứ trường hợp nào, tù binh cũng được phép đem theo ít nhất 25 kilôgam hành lý.

Những đồ đạc cá nhân khác của tù binh được hồi hương phải để lại cho Nước giam giữ giữ; Nước này phải gửi đến cho họ, ngay sau khi đã thỏa thuận với Nước mà tù binh thuộc quyền về những thể thức chuyển vận và về việc trả các chi phí phát sinh từ việc vận chuyển này.

Những tù binh bị truy tố về hình sự vì một trọng tội hoặc khinh tội có thể bị giam giữ cho đến khi trình tự tố tụng kết thúc, và nếu cần thiết, cho đến khi kết thúc việc thụ hình. Quy định như thế cũng áp dụng với những tù binh đã bị kết án vì một trọng tội hoặc khinh tội.

Các Bên trong cuộc xung đột phải thông báo cho nhau biết tên những tù binh bị giữ lại cho đến khi kết thúc thủ tục tư pháp hoặc cho đến khi thụ hình xong.

Các Bên trong cuộc xung đột có thể thỏa thuận với nhau để thành lập những ủy ban để tìm kiếm những tù binh bị giam giữ phân tán và đảm bảo cho họ hồi hương trong thời gian ngắn nhất.

Tiết III: Tù binh bị chết



Điều 120. Chúc thư, chứng tử, chôn cất, hoả táng

Chúc thư của tù binh phải được lập làm sao để có hiệu lực đối với luật pháp của Nước gốc của họ. Nước này phải thi hành những biện pháp cần thiết để báo cho Nước giam giữ biết những điều kiện mà luật pháp Nước mình đòi hỏi phải có. Theo yêu cầu của tù binh và trong mọi trường hợp thì sau khi tù binh chết, chúc thư phải gửi ngay không chậm trễ đến Nước bảo hộ và một bản sao được chứng thực phải giao cho Cơ quan thông tin trung ương.

Giấy khai tử, làm theo mẫu kèm theo Công ước này, hay các danh sách của toàn bộ số tù binh chết trong khi bị cầm giữ, có chứng thực của sĩ quan phụ trách, phải được gửi trong một thời gian ngắn nhất đến Phòng Thông tin về Tù binh được thành lập theo Điều 122. Các giấy khai tử hay danh sách này phải ghi rõ chi tiết lý lịch như đã kể ở đoạn 3 Điều 17, cùng với ngày tháng và nơi chết, lý do chết, ngày tháng chôn, nơi chôn và những chi tiết cần thiết để nhận ra các mồ mả.

Trước khi chôn cất hay hoả táng phải có khám nghiệm tử thi về phương diện y học nhằm xác nhận nguyên nhân chết để làm báo cáo, và nếu cần, để xác định lý lịch người chết.

Các nhà đương cục giam giữ phải chú ý làm thế nào để tù binh chết trong khi bị cầm giữ được chôn cất tử tế và nếu có thể được, theo nghi lễ của tôn giáo họ và đảm bảo cho mồ mả họ được tôn trọng, giữ gìn tử tế và đánh dấu làm sao để muốn tìm lại lúc nào cũng được. Mỗi khi có điều kiện, những thi hài của tù binh cùng một nước phải được chôn cùng một chỗ.

Phải chôn cất tù binh chết ở từng mộ cá nhân, trừ trường hợp không thể tránh được mới phải chôn chung một mộ. Chỉ được hoả táng trong trường hợp điều kiện vệ sinh đòi hỏi khẩn thiết hoặc tôn giáo của người chết đòi hỏi hay do ý nguyện của đương sự. Trong trường hợp hoả táng giấy khai tử phải ghi rõ việc hoả táng cùng với lý do.

Để lúc nào cũng có thể tìm lại được mộ, tất cả những chi tiết về việc chôn cất mồ mả phải được ghi nhận bởi một cơ quan quản lý mồ mả do Nước giam giữ lập ra. Danh sách các mồ mả và các chi tiết về các tù binh chôn ở nghĩa địa hay ở các nơi khác phải được gửi cho Nước mà tù binh thuộc quyền. Nước kiểm soát lãnh thổ, nếu tham gia Công ước này, có nhiệm vụ trông nom những mồ mả đó và ghi chú mọi việc di chuyển mồ mả về sau này. Các Điều khoản này cũng được áp dụng đối với tro của xác chết được hoả táng; những tro này phải giao cho cơ quan mồ mả giữ cho đến khi Nước của những người đã chết cho biết cách xử trí dứt khoát.

Điều 121. Tù binh bị chết hoặc bị thương trong những trường hợp nhất định

Nước giam giữ phải mở ngay cuộc điều tra chính thức đối với những cái chết hay vết thương nặng của tù binh do, hoặc nghi là do, lính canh, một tù binh khác, hay một người nào khác đã gây ra, cũng như đối với mọi cái chết không biết lý do.

Một thông báo về việc này phải được gửi ngay đến Nước bảo hộ. Lời khai của các nhân chứng phải được thu nhận, nhất là lời khai của các tù binh. Một báo cáo ghi những lời khai ấy phải được gửi cho Nước bảo hộ.

Nếu cuộc điều tra xác định được một hay nhiều người phạm tội, Nước giam giữ phải thi hành mọi biện pháp để truy tố trước tòa án kẻ hoặc những kẻ có tội.



PHẦN 5: PHÒNG THÔNG TIN
VÀ CÁC TỔ CHỨC CỨU TRỢ TÙ BINH


Điều 122. Phòng thông tin quốc gia

Ngay từ khi cuộc xung đột nổ ra và trong tất cả các trường hợp chiếm đóng, mỗi Bên trong cuộc xung đột phải lập ra một Phòng thông tin chính thức về các tù binh ở trong tay mình. Các Nước trung lập hay nước không tham chiến mà nhận vào lãnh thổ của mình những người thuộc vào các loại quy định ở Điều 4 cũng phải lập một phòng thông tin tương tự đối với những tù binh này. Nước hữu quan phải đảm bảo cho Phòng thông tin có cơ sở vật chất, trang bị và nhân viên cần thiết để hoạt động có hiệu quả. Nước đó được tự do dùng tù binh để làm công tác ở Phòng, nhưng phải tôn trọng các điều kiện đã quy định ở Tiết nói về lao động của tù binh trong Công ước này.

Mỗi Bên trong cuộc xung đột phải cung cấp cho Phòng thông tin của mình, càng nhanh càng tốt, những tin tức nói ở các khoản 4, 5 và 6 của Điều này, về mọi đối tượng bên đối phương thuộc một trong các loại quy định tại Điều 4 đã sa vào tay mình. Các Nước trung lập hay các Nước không tham chiến cũng phải làm như thế đối với những người thuộc các thành phần đó đã được tiếp nhận vào lãnh thổ của mình.

Phòng thông tin phải gửi cấp tốc những tin tức này, bằng những phương tiện nhanh nhất cho các Nước hữu quan, một mặt qua trung gian các Nước bảo hộ, một mặt qua trung gian Cơ quan thông tin Trung ương nêu ở Điều 123.

Những tin tức này phải giúp vào việc báo tin nhanh chóng cho gia đình các đương sự. Ngoại trừ các quy định tại Điều 17, những tin tức này phải gồm có tất cả những chi tiết về mỗi tù binh mà Phòng thông tin có thể có được như. tên, họ, cấp bậc, số hiệu, sinh quán và ngày sinh đầy đủ, Nước mà họ thuộc quyền, tên bố mẹ, tên họ và địa chỉ người cần phải báo tin, cùng với địa chỉ nhận thư từ của tù binh. Phòng thông tin phải nhận được thông báo từ các cơ quan có thẩm quyền về việc di chuyển, phóng thích, hồi hương tù binh, việc tù binh đào thoát, đi nằm bệnh viện, hoặc tử vong và chuyển tiếp những tin này theo cách đã nói ở đoạn 3 trên đây.

Tương tự như vậy, thông tin về tình trạng sức khỏe của số tù binh bị bệnh hoặc bị thương nặng phải được cung cấp đều đặn, hàng tuần nếu có thể được. Phòng thông tin còn có trách nhiệm trả lời tất cả những câu hỏi đã gửi đến liên quan đến tù binh, kể cả những tù binh đã chết trong khi bị cầm giữ. Và nếu Phòng không có tin tức về các tù binh mà có người hỏi thì Phòng thông tin phải mở những cuộc điều tra cần thiết để thu thập những tin tức đó.

Tất cả các văn bản thông báo của Phòng thông tin phải có ký tên hay đóng dấu để chứng thực.

Phòng thông tin còn có trách nhiệm thu thập và gửi đến các Nước hữu quan tất cả những đồ đạc cá nhân có giá trị, kể cả những món tiền bằng thứ tiền khác với tiền của Nước giam giữ và các tài liệu có tầm quan trọng đối với những người thân thuộc của họ, do những tù binh đã để lại lúc hồi hương, phóng thích, trốn hay chết. Phòng phải gửi những đồ đạc này trong những gói - có gắn xi - và kèm theo chứng từ nêu chính xác thông tin cá nhân của chủ nhân gói đồ đó cũng như danh sách kiểm kê đầy đủ. Những đồ đạc cá nhân khác của tù binh phải được gửi như thỏa thuận giữa các Bên trong cuộc xung đột.



Điều 123. Trung tâm tìm kiếm

Sẽ thành lập một Cơ quan thông tin trung ương về tù binh ở một Nước trung lập. Nếu thấy cần thì Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế phải đề nghị với các Nước hữu quan việc thành lập một cơ quan như thế.

Cơ quan này có nhiệm vụ tập trung tất cả các tin tức có liên quan đến tù binh mà nó có thể thu thập được qua kênh chính thức hay qua kênh tư nhân. Cơ quan này phải chuyển những tin tức này đến Nước nguyên quán của tù binh hay Nước mà họ thuộc quyền càng sớm càng tốt. Cơ quan này phải được các Bên trong cuộc xung đột tạo mọi sự dễ dàng để chuyển những tin tức ấy.

Yêu cầu các Bên ký kết, đặc biệt là những Nước có người được hưởng những hoạt động của Cơ quan trung ương này, giúp đỡ cho Cơ quan về tài chính mà Cơ quan cần đến.

Các quy định trên đây không được giải thích theo cách làm hạn chế các hoạt động nhân đạo của Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế hay các Hội cứu trợ tù binh quy định tại Điều 125.

Điều 124. Miễn phí

Các Phòng thông tin quốc gia và Cơ quan thông tin trung ương phải dược miễn bưu phí và các loại tiền cước khác quy định ở Điều 74, và mỗi khi có thể, được miễn cước điện tín hay ít nhất cũng được giảm phần lớn.



Điều 125. Các Hội cứu trợ và các tổ chức khác

Ngoại trừ những biện pháp mà Nước giam giữ cho là cần thiết để bảo đảm an ninh của họ hay để đối phó với bất kỳ nhu cầu hợp lý khác thì các Nước giam giữ phải hết sức hoan nghênh những tổ chức tôn giáo, các hội cứu trợ hay mọi tổ chức khác giúp đỡ tù binh. Các Nước giam giữ phải dành cho các tổ chức nói trên mọi sự thuận lợi cũng như cho những người đại diện được ủy quyền chính thức của các tổ chức đó được đến thăm tù binh, phân phát những đồ cứu trợ và các đồ vật từ nhiều nguồn gốc, nhằm các mục đích tôn giáo, giáo dục hay giải trí và để giúp đỡ tù binh tổ chức các sinh hoạt trong trại. Những hội hay tổ chức nói trên có thể thành lập ở trên lãnh thổ Nước giam giữ hay ở một Nước khác, hoặc có thể có một tính chất quốc tế.

Nước giam giữ có thể hạn chế số lượng các hội và tổ chức có đại diện được phép hoạt động trên lãnh thổ của mình và dưới sự kiểm soát của mình, nhưng với điều kiện là sự hạn chế này phải không cản trở việc giúp đỡ một cách có hiệu lực và đầy đủ tất cả các tù binh. Vị trí đặc biệt của Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế trong lĩnh vực này bao giờ cũng phải được công nhận và tôn trọng.

Ngay khi trao cho tù binh các đồ cứu trợ hay đồ vật nhằm những mục đích nói trên, hoặc ít ra trong một thời hạn ngắn, các nhà chức trách coi giữ tù binh phải gửi biên lai. từng món đồ có chữ ký của đại biểu tù binh cho hội cứu trợ hay tổ chức đã gồi đồ đồng thời cũng phải gửi đi những giấy biên nhận các món đồ ấy.



PHẦN 6: THI HÀNH CÔNG ƯỚC

Tiết I: Các quy định chung



Điều 126. Giám sát

Những đại diện hay những đại biểu của các Nước bảo hộ phải được phép đi đến tất cả những nơi có tù binh, đặc biệt là các nơi quản thúc, giam giữ hoặc nơi tù binh lao động; họ được vào tất cả những căn phòng do tù binh sử dụng. Họ còn được phép đến những nơi xuất phát, nơi đi qua hay đi đến của những tù binh bị di chuyển. Họ còn được nói chuyện riêng với các tù binh và nhất là với đại biểu tù binh, nếu cần thì qua một người phiên dịch.

Những người đại diện và đại biểu của các Nước bảo hộ được tự do lựa chọn những địa điểm mà họ muốn đến thăm; thời gian và tần suất những lần thăm viếng này không được hạn chế. Những lần thăm viếng này chỉ có thể bị ngăn cấm do những lý do cấp bách về mặt quân sự và chỉ mang tính chất đặc biệt và tạm thời. Nếu cần, Nước giam giữ và Nước của tù binh được đến thăm có thể thỏa thuận với nhau để cho người thân của số tù binh này được phép tham gia các chuyến thăm này.

Các đại biểu của Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế cũng phải được hưởng những đặc quyền như thế. Việc chỉ định những đại biểu này phải được sự đồng ý của Quyền lực đang giam giữ số tù binh sẽ được thăm.



Điều 127. Phổ biến Công ước

Các Bên ký kết cam kết sẽ phổ biến, càng rộng càng tốt, trong thời bình cũng như thời chiến, nội dung Công ước này ở Nước mình, nhất là sẽ đưa nó vào trong chương trình huấn luyện quân sự, và nếu được, vào cả chương trình giáo dục dân sự, làm sao cho những nguyên tắc đó được thông suốt trong toàn bộ các lực lượng vũ trang của họ và trong toàn thể nhân dân.

Trong thời kỳ chiến tranh, những nhà chức trách quân sự hay những nhà chức trách nào khác có trách nhiệm đối với tù binh phải giữ một văn bản của Công ước này và phải được đào tạo đặc biệt về các điều khoản của Công ước.

Điều 128. Dịch thuật. Những quy tắc áp dụng

Các Bên ký kết, qua trung gian của Hội đồng Liên bang Thụy S và qua trung gian của các Nước bảo hộ trong khi có chiến sự, phải thông báo cho nhau biết bản dịch chính thức của Công ước này và tất cả những đạo luật và quy tắc cần thiết mà họ có thể thông qua để đảm bảo việc thi hành Công ước.



Điều 129. Trừng phạt

I. Nguyên tắc chung.

Các Bên ký kết cam kết phải đặt ra mọi biện pháp luật lệ cần thiết để quy định những chế tài hình sự thích hợp đối với những người đã thực hiện, hoặc đã ra lệnh cho người khác thực hiện bất kỳ vi phạm nghiêm trọng nào đối với Công ước, như được quy định tại điều sau.

Mỗi Bên ký kết phải có nhiệm vụ truy tìm những người bị nghi ngờ đã thực hiện hoặc đã ra lệnh cho người khác thực hiện những hành vi vi phạm nghiêm trọng như vậy và phải truy tố họ trước tòa án nước mình, dù họ thuộc quốc tịch nào cũng vậy. Nếu một Bên ký kết muốn và tùy theo điều kiện quy định trong pháp luật của Nước đó, Bên ký kết đó cũng có thể giao việc xét xử cho một Bên ký kết khác có quan tâm đến việc truy tố kẻ phạm tội, miễn là Bên ký kết này phải có đủ những lý do để truy tố kẻ phạm tội.

Mỗi Bên phải tiến hành những biện pháp cần thiết để ngăn chặn những hành động trái với quy định của Công ước này, ngoài những vi phạm nghiêm trọng nêu ở điều sau.

Trong mọi tình huống, các bị can phải được hưởng những bảo đảm về thủ tục tố tụng tư pháp và về quyền bào chữa tự do với những điều kiện không kém hơn so với những điều kiện đã nêu tại Điều 105 và các điều tiếp sau đó của Công ước này.

Điều 130.

II. Những vi phạm nghiêm trọng.

Những vi phạm nghiêm trọng nêu trong điều trước là một trong những hành động sau đây, nếu xâm phạm đến người hoặc tài sản đã được Công ước bảo vệ: cố ý giết người, sử dụng nhục hình hoặc đối xử vô nhân đạo, kể cả việc sử dụng tù binh để thí nghiệm về sinh vật học, cố ý gây nhiều đau đớn, hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến thân thể hay sức khỏe, cưỡng ép tù binh phải phục vụ trong các lực lượng vũ trang của Nước thù địch của họ, hoặc truất bỏ quyền của họ được xét xử một cách hợp thức và vô tư theo như các quy định của Công ước này.



Điều 131. Trách nhiệm của các Bên tham gia Công ước

Không một Bên ký kết nào có thể tự miễn cho mình hoặc miễn cho bên ký kết khác những trách nhiệm mà Bên đó hoặc Bên ký kết khác phải gánh lấy liên quan đến những vi phạm nêu ở Điều trước.



Điều 132. Thủ tục diều tra

Theo yêu cầu của một Bên trong cuộc xung đột, một cuộc điều tra phải được tiến hành theo thể thức mà các Bên hữu quan sẽ ấn định, đối với mọi hành vi được cho là vi phạm Công ước.

Nếu các Bên không thỏa thuận được về thủ tục điều tra, họ phải thỏa thuận chọn một trọng tài và trọng tài này sẽ quyết định thủ tục phải thi hành.

Một khi việc vi phạm đã được xác nhận, các Bên trong cuộc xung đột cần phải đình chỉ ngay và trừng trị việc vi phạm ấy càng sớm càng tốt.

Tiết II: Những Điều khoản cuối cùng

Điều 133. Ngôn ngữ

Công ước này làm bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Cả hai bản đều có giá trị chính thức như nhau.

Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ phụ trách thực hiện bản dịch chính thức của Công ước bằng tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha.

Điều 134. Liên quan đến Công ước năm 1929

Công ước này thay thế cho Công ước làm ngày 27/7/1929 trong quan hệ giữa các Bên ký kết.



Điều 135. Liên quan đến Công ước La-hay

Trong quan hệ giữa các Nước bị ràng buộc bởi Công ước La-hay làm ngày 29/7/1899 hay làm ngày 18/10/1907 về các luật pháp và tập quán chiến tranh trên bộ và cùng tham gia Công ước này, thì Công ước này sẽ bổ sung cho chương II trong Bản Điều lệ kèm theo các Công ước La-hay đã nói trên.



Điều 136. Ký kết

Kể từ ngày hôm nay cho đến ngày 12/02/1950, những Nước có đại diện ở Hội nghị khai mạc tại Geneva ngày 21/4/1949 cũng như những Nước không có đại diện ở Hội nghị Geneva này nhưng có tham gia Công ước ngày 27/7/1929, sẽ có thể ký Công ước này.



Điều 137. Phê chuẩn

Công ước này phải được phê chuẩn càng sớm càng tốt và các văn kiện phê chuẩn phải được nộp lưu chiểu tại Béc nơ.

Khi lưu chiểu mỗi văn kiện phê chuẩn, phải lập một biên bản và một bản sao được chứng nhận là sao y bản chính sẽ được Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ gửi cho tất cả các Nước đã ký kết hoặc đã thông báo gia nhập Công ước.

Điều 138. Có hiệu lực

Công ước này có hiệu lực sáu tháng sau khi có ít nhất hai văn kiện phê chuẩn đã được nộp lưu chiểu.

Về sau, nó sẽ có hiệu lực đối với mỗi Bên ký kết sáu tháng sau khi văn kiện phê chuẩn của họ đã được nộp lưu chiểu.

Điều 139. Gia nhập

Kể từ ngày bắt đầu có hiệu lực, Công ước này sẽ nhận sự gia nhập của mọi Nước nào chưa ký vào Công ước.



Điều 140. Thông báo gia nhập

Việc gia nhập được thông báo bằng văn bản cho Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ và có hiệu lực sáu tháng sau khi Hội đồng nhận được văn bản xin gia nhập. Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ phải thông báo việc gia nhập này cho tất cả các Nước đã ký hoặc gia nhập vào Công ước.



Điều 141. Có hiệu lực ngay

Các tình huống nêu ở Điều 2 và 3 sẽ tạo hiệu lực tức thì đối với văn bản phê chuẩn và văn bản gia nhập mà các Bên xung đột đã lưu chiểu hoặc thông báo trước hoặc sau khi chiến sự hay cuộc chiếm đóng bắt đầu. Việc thông báo phê chuẩn hoặc gia nhập mà Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ nhận được từ các Bên trong cuộc xung đột sẽ được Hội đồng tiến hành theo cách thức nhanh nhất.



Điều 142. Bãi ước

Mỗi Bên ký kết có quyền tự do rút ra khỏi Công ước này. Việc rút khỏi Công ước phải được thông báo bằng văn bản cho Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ. Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ sẽ thông báo cho Chính phủ của tất cả các Bên ký kết được biết.

Việc rút khỏi Công ước bắt đầu có hiệu lực một năm sau khi đã thông báo cho Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ. Tuy nhiên, nếu Nước rút khỏi Công ước đã thông báo rồi nhưng còn đang vướng vào một cuộc xung đột thì việc rút đó vẫn không có hiệu lực, chừng nào mà hòa bình chưa được ký kết và trong mọi trường hợp, chừng nào mà công việc phóng thích và hồi hương những người được Công ước này bảo hộ chưa kết thúc.

Việc rút ra chỉ có giá trị đối với Nước rút ra. Nó không ảnh hưởng gì đến nghĩa vụ mà các Bên trong cuộc xung đột vẫn phải đảm bảo thi hành, căn cứ vào các nguyên tắc luật pháp quốc tế, thể theo tập quán đã được quy định giữa các Nước văn minh, thể theo luật lệ về nhân đạo, và thể theo yêu cầu của lương tâm con người.



Điều 143. Đăng ký với Liên Hợp Quốc

Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ sẽ đăng ký Công ước này tại Ban Thư ký của Liên Hợp Quốc. Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ cũng thông báo cho Ban Thư ký Liên Hợp Quốc biết tất cả các việc phê chuẩn, gia nhập và xin rút ra khỏi Công ước mà Hội đồng có thể nhận được về Công ước này.

Để làm tin, những vị có tên dưới đây, sau khi đã xuất trình ủy nhiệm thư, đã ký tên vào Công ước.

Làm tại Geneva, ngày 12/8/1949, bằng tiếng Pháp và Tiếng Anh, bản chính thức được lưu chiểu tại Văn khố của Liên bang Thụy Sĩ. Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ sẽ chuyển cho mỗi Nước đã ký Công ước, cũng như cho những Nước sẽ gia nhập Công ước một bản sao có chứng nhận sao y bản chính của Công ước.




tải về 2.09 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương