BET-11
15
Bây giờ thì sao? Đây là lần thứ hai mà nước Mỹ phải đối mặt chống lại mức lãi
suất dưới 0, lần trước là cuộc đại khủng hoảng. Và nó chính xác là kinh nghiệm mà có
một mức trần thấp hơn lãi suất đã khiến Keynes thúc đẩy chi tiêu chính phủ cao hơn:
Khi chính sách tiền tệ không hiệu quả và khu vực tư nhân không được thỏa mãn để chi
tiêu nhiều hơn, khu vực công phải làm việc đó để hỗ trợ nền kinh tế. Kích thích tài khóa
là câu trả lời Keynesian với kiểu tình huống kinh tế khủng hoảng mà chúng ta đang trải
qua.
Kiểu tư duy Keynesian như vậy nằm trong chính sách kinh tế của chính quyền
Obama – và các nhà kinh tế học nước ngọt đã rất giận dữ. Trong 25 năm và hơn nữa họ
đã chịu đựng những nỗ lực của Cục Dự trữ Liên bang trong điều hành nền kinh tế,
nhưng sự hồi sinh tư tưởng Keynesian nở rộ lại là một điều hoàn toàn khác. Trở lại năm
1980, Lucas của Đại học Chicago, đã viết rằng kinh tế học Keynesian quá lố bịch đến
mức “tại các hội thảo nghiên cứu, mọi người không còn xem trọng lý thuyết Keynesian
nữa; khán giả bắt đầu huýt sáo và vỗ tay cho một lý thuyết khác.” Phải thừa nhận rằng
những gì Keynes đã đúng phần lớn, sau tất cả, sẽ là một sự suy tàn quá bẽ mặt.
Và Cochrane của Đại học Chicago, người chễ giễu tư tưởng chi tiêu chính phủ có
thể giảm ở giai đoạn cuối của khủng hoảng, đã tuyên bố rằng: “Đó không phải những
gì mà mọi người đã dạy những sinh viên cao học kể từ những năm 1960. Chúng [những
ý tưởng Keynesian] là những câu chuyện thần tiên đã được chứng minh là sai lầm.
Chúng rất phù hợp trong những giai đoạn căng thẳng để trở lại câu chuyện thần tiên mà
chúng ta nghe khi còn là những đứa trẻ, nhưng điều này không khiến chúng bớt sai lầm
hơn.” (Đó là dấu hiệu về hố sâu khoảng cách giữa các nhà kinh tế nước ngọt và nước
mặn đến mức Cochrane không tin rằng “bất kỳ ai” dạy những ý tưởng mà, trong thực
tế, được dạy ở những nơi như
Princeton, MIT, và Harvard.)
Trong khi đó, các nhà kinh tế nước mặn, những người đã hài lòng với chính bản
thân họ khi tin rằng sự phân chia lớn trong kinh tế học vĩ mô đang hẹp dần lại, bị sốc
khi nhận ra rằng các nhà kinh tế nước ngọt chẳng chịu lắng nghe chút nào. Các nhà kinh
tế nước ngọt, những người phản kháng kịch liệt gói kích thích đã không giống các học
giả đã cân nhắc các luận điệu Keynesian và tìm kiếm những gì họ muốn. Hơn thế, họ
có vẻ là những người không có ý niệm về kinh tế học Keynesian, những người đang
làm sống dậy những ý tưởng sai lầm năm 1930 với niềm tin rằng họ đang nói về thứ gì
đó mới và tuyệt vời.
Và không có Keynes có những ý tưởng dường như bị lãng quên. Như Brad
DeLong của Đại học California, Berkeley, đã chỉ ra trong lời than phiền của mình về
“sự sụp đổ trí tuệ” của trường Chicago, quan điểm hiện tại của trường nhìn chung là sự
chối bỏ hoàn toàn những tư tưởng của Friedman. Friedman tin rằng chính sách của Cục
Dự trữ Liên bang chứ không phải những thay đổi trong chi tiêu chính phủ nên được sử
dụng để ổn định nền kinh tế, nhưng ông không bao giờ quả quyết rằng việc tăng chi tiêu
chính phủ không thể, trong một số tình huống, gia tăng lượng việc làm. Thực tế thì, khi
đọc lại những tổng kết ý tưởng của Friedman vào năm 1970, “Một khung lý thuyết về
phân tích tiền tệ”, điều gây ấn tượng là dường như nó giống với ý tưởng Keynesian.
CÁC NHÀ KINH TẾ ĐÃ SAI LẦM NHƯ THẾ NÀO?
16
Và Friedman chắc chắn không bao giờ vay mượn ý tưởng rằng thất nghiệp trên
diện rộng phản ánh một mức giảm tự nguyện trong nỗ lực tìm việc hoặc ý tưởng rằng
các cuộc khủng hoảng thực sự là tốt cho nền kinh tế. Tuy nhiên thế hệ các nhà kinh tế
nước ngọt hiện tại đã tạo ra cả hai lập luận này. Do đó Casey Mulligan của trường
Chicago cho rằng thất nghiệp quá cao bởi nhiều công nhân lựa chọn không đi làm: “Các
công nhân đối mặt với kích thích tài chính không muốn đi làm…việc làm suy giảm
được giải thích nhiều hơn do sự suy giảm lượng cung lao động (sự sẵn sàng đi làm của
người lao động) và ít hơn do cầu lao động (lượng công nhân mà người chủ cần thuê).”
Đặc biệt, Mulligan đã cho rằng người lao động sẽ lựa chọn tiếp tục không đi làm bởi
điều đó cải thiện khả năng nhận trợ cấp của họ. và Cochrane tuyên bố rằng thất nghiệp
cao thực sự là tốt: “Chúng ta nên có một cuộc khủng hoảng. Những người sử dụng cuộc
sống của họ để đóng đinh ở Nevada cần thứ gì đó để làm.
Cá nhân tôi cho rằng điều này thật điên rồ. Tại sao để đạt được toàn dụng lao động
trên toàn quốc chúng ta lại phải đưa những người thợ mộc di chuyển ra khỏi Nevada?
Bất cứ ai cũng có thể nói một cách nghiêm túc rằng chúng ta đã mất 6.7 triệu việc làm
bởi chỉ vì một vài người Mỹ muốn làm việc? Nhưng nó không hợp lý rằng các nhà kinh
tế nước ngọt sẽ thấy chính bản thân họ bị mắc bẫy trong ngõ cụt này: nếu bạn bắt đầu
từ giả định rằng mọi người hoàn toàn duy lý và thị trường hoàn toàn hiệu quả, bạn phải
đi đến kết luận rằng thất nghiệp là tự nguyện và khủng hoảng là một điều đáng mong
đợi.
Tuy nhiên nếu cuộc khủng hoảng đẩy các nhà kinh tế nước ngọt đến với sự ngớ
ngẩn, thì cũng tạo ra rất nhiều cuộc truy vấn tư tưởng của các nhà kinh tế nước mặn.
Khung lý thuyết của họ, không như của trường phái Chicago, đều cho phép khả năng
xảy ra thất nghiệp tự nguyện và xem nó như một điều tồi tệ. Nhưng các mô hình
Keynesian mới đã tiến tới thống trị hoạt động giảng dạy và nghiên cứu giả định rằng
mọi người hoàn toàn duy lý và các thị trường tài chính hoàn toàn hiệu quả. Để đạt được
bất cứ điều gì như cuộc suy thoái hiện tại trong những mô hình của họ, các nhà
Keynesian mới buộc phải giới thiệu một số loại yếu tố giả dối vì một vài lý do tạm thời
không liệt kê làm giảm chi tiêu tư nhân. (Tôi đã làm chính xác những gì trong khuôn
khổ công việc của mình.) Và nếu phân tích về vị trí của chúng ta dựa trên yếu tố giả dối
này, chúng ta có thể tự tin bao nhiêu vào những dự đoán của những mô hình này về nơi
mà chúng ta sẽ đến?
Tình trạng của vĩ mô, nhìn chung, không tốt. Vì vậy giới chuyên môn từ đây sẽ đi
tới đâu?
Chia sẻ với bạn bè của bạn: