CÁC NHÀ KINH TẾ ĐÃ SAI LẦM NHƯ THẾ NÀO?
6
ô nhiễm môi trường. Nhưng giả định cơ bản của kinh tế học “tân cổ điển” (đặt theo các
lý thuyết gia cuối thế kỷ 19 những người đã tạo ra định nghĩa về những bậc tiền bối “cổ
điển”) đó là chúng ta nên tin vào hệ thống thị trường.
Tuy nhiên, niềm tin này đã bị đập tan bởi cuộc Đại Khủng hoảng (Great
Depression). Quả thực, ngay cả khi đối mặt với sụp đổ toàn diện, một số nhà kinh tế
vẫn khăng khăng rằng dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, nền kinh tế thị trường vẫn có
thể sửa sai: “Các cuộc khủng hoảng không đơn giản là những tai họa,”
Joseph
Schumpeter tuyên bố vào năm 1934 – nhưng năm 1934 chúng đã thực sự là những tai
họa, ông bổ sung, “bóng dáng của một vài thứ đã thực sự diễn ra.” Nhưng rất nhiều, và
cuối cùng là hầu hết các nhà kinh tế đã chuyển hướng sang cách tiếp cận của John
Maynard Keynes để giải thích những gì đã diễn ra và một giải pháp cho những cuộc
khủng hoảng trong tương lai.
Keynes đã không, mặc dù có thể bạn đã nghe ở đâu đó, muốn chính phủ điều hành
nền kinh tế. Ông miêu tả phân tích của mình trong công trình lớn năm 1936, “Lý thuyết
Tổng quát về Việc làm, Lãi suất và Tiền Tệ”, là “những hàm ý có tính khá bảo thủ.”
Ông muốn vực dậy chủ nghĩa tư bản chứ không phải thay thế nó. Nhưng ông cũng đã
thách thức quan điểm rằng những nền kinh tế thị trường tự do có thể hoạt động mà
không cần một người bảo vệ, và đặc biệt khinh miệt những thị trường tài chính, mà ông
cho là đang bị điều khiển bởi đầu cơ ngắn hạn mà không quan tâm gì đến những yếu tố
cơ bản. Và ông kêu gọi sự can thiệp tích cực từ chính phủ - in nhiều tiền hơn, nếu cần
thiết, và chi tiêu mạnh hơn vào những công trình công cộng – để giải quyết tình trạng
thất nghiệp trong suốt thời kỳ suy thoái.
Cần hiểu rằng Keynes đã làm nhiều hơn là chỉ củng cố luận điểm của mình. “Lý
thuyết Tổng quát” là một công trình phân tích tuyệt vời và sâu sắc – thứ phân tích đã
làm hài lòng những nhà kinh tế trẻ nhất thời bấy giờ. Tuy nhiên câu chuyện về kinh tế
học của nửa thế kỷ qua, xét trên quy mô lớn, là câu chuyện về sự phục hồi từ chủ nghĩa
Keynes và sự trở lại của chủ nghĩa tân cổ điển. Sự hồi sinh tân cổ điển bắt đầu được
khởi xướng bởi Milton Friedman của Đại học Chicago, người đã tuyên bố vào đầu năm
1953 rằng kinh tế học tân cổ điển hoạt động đủ tốt để là kim chỉ nam cho phương thức
hoạt động của nền kinh tế “vừa đạt hiệu quả cao vừa được nhiều người tin tưởng.”
Nhưng còn những cuộc khủng hoảng thì sao?
Cuộc phản công của Friedman chống lại Keynes bắt đầu với học thuyết được gọi
là chủ nghĩa trọng tiền. Các nhà trọng tiền về cơ bản đồng thuận với ý tưởng rằng một
nền kinh tế thị trường cần cân nhắc đến tính ổn định. Friedman từng nói “Tất cả chúng
ta giờ đều là những người theo chủ nghĩa Keynes” mặc dù sau này ông nói rằng ông đã
bị trích dẫn sai. Tuy nhiên, các nhà trọng tiền cho rằng một phương thức can thiệp được
khoanh vùng, có giới hạn của chính phủ - cụ thể như, chỉ đạo các ngân hàng trung ương
giữ nguồn cung tiền, tổng lượng tiền mặt trong lưu thông và hối phiếu ngân hàng, tăng
trưởng ở một mức độ ổn định – là tất cả những gì cần làm để ngăn chặn những cuộc
khủng hoảng. Nổi tiếng hơn cả, Friedman và cộng sự của ông, Anna Schwartz, cho rằng
nếu cục dự trữ liên bang làm tròn vai, thì cuộc Đại Khủng hoảng sẽ không bao giờ xảy
BET-11
7
ra. Sau đó, Friedman đã đưa ra một tình huống mang tính bắt buộc chống lại bất cứ nỗ
lực nào của chính phủ để hạ tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức “tự nhiên” (hiện tại tỷ lệ
này là khoảng 4.8% ở Hoa Kỳ): ông dự báo rằng những chính sách bành trướng quá
mức sẽ làm xuất hiện cùng lúc lạm phát và thất nghiệp cao – một dự báo đã trở thành
hiện thực trong cuộc lạm phát đình đốn những năm 1970, đã cải thiện phần lớn niềm tin
vào phong trào chống chủ nghĩa Keynes.
Tuy nhiên, cuối cùng thì cuộc phản cách mạng chống chủ nghĩa Keynes đã vượt
xa ra khỏi vị thế của Friedman, và dường như trở nên tương đối dung hòa so với những
gì những tiền bối của ông từng nói. Với các nhà kinh tế tài chính, quan điểm có tính
miệt thị của Keynes về thị trường tài chính như một “sòng bài” được thay thế bằng lý
thuyết “thị trường hiệu quả”, với lập luận rằng những thị trường tài chính luôn đặt giá
tài sản đúng với thông tin khả dụng. Trong khi đó, nhiều nhà kinh tế vĩ mô lại hoàn toàn
bác bỏ khung lý thuyết của Keynes để hiểu những cuộc suy thoái kinh tế. Một số thì trở
lại với quan điểm của Schumpeter và các nhà biện giải khác về cuộc đại khủng hoảng,
xem những cuộc khủng hoảng là một điều tốt đẹp, một phần của sự điều chỉnh nền kinh
tế để thay đổi. Và thậm chí một số không sẵn sàng chấp nhận quan điểm đó khi lập luận
rằng bất cứ nỗ lực nào nhằm chống lại một cuộc suy thoái kinh tế sẽ làm kìm hãm hơn
là cải thiện tình hình.
Không phải tất cả các nhà kinh tế vĩ mô đều sẵn sàng đi con đường này: nhiều
người tự miêu tả mình là những nhà Keynesian mới, những người tiếp tục tin vào vai
trò tích cực của chính phủ. Tuy nhiên thậm chí họ hầu như chấp nhận quan điểm rằng
các nhà đầu tư và tiêu dùng là duy lý và thị trường nhìn chung có thể tự điều chỉnh được.
Đương nhiên, có những ngoại lệ với những xu hướng này: một số nhà kinh tế đã
thách thức giả định về hành vi duy lý, đặt nghi vấn về quan điểm rằng chúng ta có thể
tin tưởng và biết được lịch sử lâu dài của những cuộc khủng hoảng tài chính – thứ đã
gây ra những hệ quả kinh tế. Nhưng họ đang bơi ngược dòng, không thể tạo ra sự tiến
bộ để chống lại một sự thỏa mãn ngu ngốc và rộng khắp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: