CÁc hiệP ĐỊnh thưƠng mại tự do khu vực châU Á- thái bình dưƠng các công trình nghiên cứu về kinh tế quốc tế



tải về 0.92 Mb.
trang8/11
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2017
Kích0.92 Mb.
#33229
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Trong tất cả các ngành mà điển hình là ngành như điện và gas, Hàn quốc bảo toàn quyền hạn chế hoặc cấm sở hữu, chuyển đổi cổ phần, tài sản trong các doanh nghiệp và đơn vị nhà nước. Bên cạnh đó, Hàn quốc cũng bảo toàn quyền cấm, hạn chế nhà đầu tư Singapore kiểm soát công ty hoặc cấm, hạn chế các hoạt động đầu tư dẫn tới việc sở hữu hay chuyển nhượng tài sản nhà nước. Ngoài ra, Hàn quốc cũng bảo toàn quyền thông qua hoặc duy trì bất kỳ biện pháp nào liên quan tới hoạt động mua bán đất của nhà đầu tư nước ngoài. Singapore cũng áp dụng rất nhiều hạn chế trong ngành tài chính, đồng thời yêu cầu phải có sự tham gia của các nhà quản lý trong nước đối với hoạt động đầu tư này. Cả hai quốc gia trên đều áp dụng những hạn chế hết sức chặt chẽ đối với ngành điện và giao thông vận tải, thông tin và viễn thông, giáo dục, quản trị cộng đồng, an ninh quốc phòng, và các ngành an ninh xã hội bắt buộc.

FTAs giữa Hoa Kỳ–Australia, Hoa Kỳ–Singapore và EPA giữa Nhật Bản –Singapore (JSEPA) có mức hạn chế thấp nhất trong số các quốc gia được đề cập đến trong bài phân tích này với các mức điểm lần lượt là 0.837, 0.825, 0.767. Như được thảo luận đến trong mục tiếp theo, Hoa Kỳ là quốc gia có cơ chế thông thoáng nhất. Điều này giải thích tại sao các điểm số áp cho FTA giữa Hoa Kỳ–Australia, Hoa Kỳ–Singapore gần như tương đương nhưng lại khác hẳn so với điểm số của JSEPA.

Tương tự như vậy, FTAs cho một nước vẫn có thể có những điểm số khác nhau. Một ví dụ điển hình đó là, Hoa Kỳ áp dụng mức hạn chế với Australia thấp hơn so với mức hạn chế đối với Singapore, Mexico, và Canada. Trước hết, nguyên tắc ưu đãi trong các FTAs của Hoa Kỳ cho thấy: Hoa Kỳ sẽ thực hiện cơ chế mở đối với các lĩnh vực mà đối tác cũng áp dụng cơ chế mở như vậy đối với nhà đầu tư của họ. Như bảng đề xuất số 3 dưới đây, Australia và Singapore được ưu đãi thông thoáng hơn so với Mexico và Canada khi đầu tư vào Mỹ. Tuy nhiên vẫn tồn tại sự khác nhau trong FTAs giữa Hoa Kỳ - Canada và Hoa Kỳ - Mexico do quy mô nền kinh tế khác nhau - Đối với Mỹ, Australia có vai trò quan trọng hơn so với Singapore. Hơn nữa, FTAs giữa Hoa kỳ - Singapore trong lĩnh vực tài chính có nhiều hạn chế hơn, có thể là do cạnh tranh. Ngành tài chính của Singapore nhìn chung có cơ chế khá thông thoáng45, theo đó nhà đầu tư Mỹ dễ dàng thâm nhập thị trường này, nhưng ngược lại Mỹ vẫn duy trì một vài hạn chế trong ngành tài chính đối với Singapore. Do đó, không có lý do gì để nói rằng Hoa Kỳ có cơ chế thông thoáng hơn đối với sự gia nhập của nhà đầu tư Singapore vào thị trường tài chính Mỹ khi vẫn áp dụng mức độ hạn chế tài chính như bây giờ.

Nhật Bản cũng áp dụng cơ chế thông thoáng với Mexico hơn với Singapore. Điều này có thể được lý giải bởi nguyên tắc “học qua trải nghiệm”. EPA giữa Nhật Bản – Singapore chính là hiệp định đầu tiên thực hiện nguyên tắc này của Nhật Bản. Mặc dù là một nền kinh tế khá đóng46 nhưng với tư cách là quốc gia đang học hỏi thông qua trải nghiệm đàm phán, Nhật bản vẫn phải duy trì ở mức hạn chế hiện tại. Nền kinh tế Singapore có cơ chế mở đối với hoạt động thương mại và đầu tư cho dù với quy mô của nền kinh tế Nhật Bản, Nhật bản vẫn có thể đòi hỏi nhiều ưu đãi hơn và đưa ra ít ưu đãi hơn trong quá trình đàm phán. Thêm vào đó, ngành nông nghiệp của Singapore có quy mô không lớn, nhưng Nhật Bản vẫn được hưởng lợi từ hoạt động đầu tư vào lĩnh vực này trong khi tại Nhật Bản đây là ngành đóng. Trong EPA với Mexico, điều kiện lại hoàn toàn khác. Mexico đã ký FTAs với một số quốc gia trong đó có một số quốc gia ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Bởi vì Nhật Bản phải đòi hỏi thêm một số ưu đãi từ Mexico mà số ưu đãi này nhiều hơn so với mức ưu đãi đòi hỏi từ Singapore như mở cửa thị trường ô tô, do đó Nhật cũng phải đưa ra nhiều ưu đãi hơn.



Bảng 3. Mức độ hạn chế FDI của một số nước tiêu biểu

 

Hạn chế sở hữu nước ngòai/tiếp cận thị trường

Nguyên tắc đối xử quốc gia

Rà soát và Phê duyệt

Ban lãnh đạo công ty

Dòng chuyển dịch lao động

Yêu cầu thực hiện

Tổng

Xếp hạng

US

0.319

0.175

0.096

0.095

0.1

0.096

0.881

1

Singapore

0.31

0.163

0.094

0.043

0.075

0.093

0.778

2

Australia

0.273

0.164

0.047

0.089

0.1

0.097

0.77

3

Japan

0.291

0.159

0.085

0.086

0.048

0.093

0.762

4

Korea

0.265

0.151

0.073

0.083

0.063

0.064

0.699

5

Chile

0.272

0.142

0.095

0.069

0.05

0.045

0.673

6

Mexico

0.228

0.139

0.023

0.077

0.071

0.089

0.627

7

Canada

0.28

0.158

0.009

0.025

0.1

0.048

0.62

8

    1. 3.2 Đánh giá theo quốc gia

Bảng số 3 và 4 cho thấy Canada, Mexico, Chile, và Hàn Quốc có nhiều hạn chế hơn với hoạt động FDI, mức độ hạn chế được thể hiện lần lượt bởi các điểm số 0.62, 0.63, 0.67, và 0.70. Canada thực hiện hạn chế đối với sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong tất cả các ngành có sự tham gia của khối nhà nước. Thêm vào đó, các hạn chế này được áp dụng khi mua bán cổ phần trong các tập đoàn. Cùng với hạn chế áp dụng cho khu vực tư nhân được thảo luận trong phần trước, Canada còn áp dụng các hạn chế đối với một số lĩnh vực khác như vận tải hàng không, tại đó bất kỳ cá nhân nào không phải công dân hoặc người định cư thường xuyên tại Canada, bất kỳ doanh nghiệp nào ngoài Canada, bất kỳ quốc gia nào khác, hoặc bất kỳ doanh nghiệp nào được kiểm soát bởi những đối tượng nói trên đều chỉ được phép sở hữu tối đa 25% cổ phần của hãng hàng không Canada. Chỉ những công dân, người định cư tại Canada, hoặc các doanh nghiệp mà tỷ lệ sở hữu và kiểm soát bởi các công dân Canada hoặc người định cư dưới 75% mới có thể thực hiện kinh doanh hàng không quốc tế và nội địa, kinh doanh hàng không có kế hoạch và không có kế hoạch. Canada cũng bảo lưu quyền thực hiện bất kỳ biện pháp nào nhằm hạn chế hoạt động mua bán và đầu tư tại Canada thông qua các điều khoản đặc biệt với dịch vụ hàng không. Trong các ngành khác như viễn thông, giáo dục, tài chính, bảo hiểm, Canada vẫn bảo lưu quyền hạn chế trong tương lai đối với việc quản lý, tiêu chí đánh giá hiệu quả và một số vấn đề khác.

Canada cũng yêu cầu đại đa số thành viên ban lãnh đạo hoặc một ban nào đó trong một tập đoàn hoặc trong công ty phải là các công dân của Canada. Với một tập đoàn kinh tế, ít nhất 1/3 trong số các thành viên ban lãnh đạo phải là công dân Canada miễn là doanh thu của tập đoàn đó tại Canada (bao gồm cả doanh thu của các chi nhánh) ít hơn 5% doanh thu gộp của cả tập đoàn và toàn bộ chi nhánh. Theo đạo luật công ty đặc biệt, đa số các giám đốc được bầu ra phải là công dân của Canada hoặc là công dân của khối thịnh vượng.



Bảng 4. Mức độ hạn chế FDI của FTAs theo ngành

Những ngành Những ngành Những ngành

Ưu tiên nhất ưu tiên thứ 2 ưu tiên thứ 3

US-Australia FTA

US 0.920 0.940 0.901

Australia 0.805 0.850 0.761

US-Singapore FTA

US 0.940 0.940 0.879

Singapore 0.873 0.885 0.743

Japan-Singapore EPA

Japan 0.310 0.780 0.797

Singapore 0.825 0.775 0.779

Korea-Singapore FTA

Korea 0.675 0.675 0.696

Singapore 0.900 0.880 0.789

NAFTA


Canada 0.395 0.685 0.643

Mexico 0.210 0.555 0.708

US 0.890 0.900 0.848

Korea-Chile FTA

Korea 0.695 0.750 0.702

Chile 0.520 0.650 0.691

Japan-Mexico EPA

Japan 0.393 0.730 0.817

Mexico 0.213 0.545 0.648

Ở Canada, ngành công nghiệp dầu mỏ và các hoạt động liên quan như lọc hóa dầu, phân phối, nguồn điện (bao gồm có nguồn cung điện, truyền tải điện, chuyển đổi điện năng, phân phối và tiêu thụ điện), dịch vụ bưu điện, vận tải đường sắt đều bị hạn chế tại các bang của Mexico, điều này đồng nghĩa với việc nhà đầu tư nước ngoài không được quyền sở hữu vốn trong các hoạt động nói trên. Thêm vào đó, chỉ những công dân Mexico mới có thể sở hữu đất nông nghiệp, đất chăn nuôi, đất lâm nghiệp. Nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế sở hữu bất kỳ phần đất nào gần khu vực biên giới hoặc trong các khu vực mà Mexico cho là quan trọng đối với lợi ích và an ninh quốc gia. Đồng thời cũng có những hạn chế đối với việc sở hữu vốn hơn 10% của nhà đầu tư nước ngoài trong bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong các ngành công nghiệp khác như hoạt động cảng (các dịch vụ liên quan đến vận tải đường thủy), in ấn báo chí, viễn thông, Mexico hạn chế quyền sở hữu của đối tác nước ngoài ở mức 49%. Hạn chế nổi bật nhất đối với các hoạt động trong ngành tài chính là quy trình xem xét và chấp thuận đầu tư nước ngoài. Đối với bất kỳ nguồn vốn đầu tư nào đổ vào Mexico, các nhà đầu tư nước ngoài phải chỉ ra những ảnh hưởng đối với nguồn lao động và đào tạo lao động, đóng góp về mặt công nghệ, tuân thủ theo quy định về môi trường, và những đóng góp đối với hệ thống sản xuất của Mexico. Sự chấp thuận từ phía ủy ban đầu tư trực tiếp nước ngoài là hết sức cần thiết đối với các khoản vốn đầu tư lên đến 40% tổng số vốn của doanh nghiệp. Mexico cũng áp đặt các quy định đánh giá mức độ hiệu quả trong ngành sản xuất. Theo nghị định ALTEX (nghị định xúc tiến hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu lớn), trong hoạt động xuất khẩu trực tiếp các mặt hàng sản xuất, hàng năm, tổng giá trị xuất khẩu mà các nhà đầu tư phải thực hiện chiếm 40% tổng giá trị doanh thu hoặc phải đạt được 2,000,000 USD. Trong hoạt động xuất khẩu gián tiếp các mặt hàng sản xuất, giá trị xuất khẩu hàng năm mà các nhà đầu tư thực hiện phải chiếm ít nhất 50% tổng giá trị doanh thu. Mexico cũng không cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia vào ban lãnh đạo của bất kỳ doanh nghiệp hợp tác nào. Cũng giống như Hàn Quốc, Mexico bảo toàn quyền thông qua hoặc duy trì nguyên tắc đối với việc tiếp cận thị trường trong tương lai và sẽ áp dụng hạn chế đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong một số ngành như công nghiệp thu phát sóng và dịch vụ giải trí.



Chile cũng áp đặt rất nhiều hạn chế đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong đó hạn chế nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường khi các doanh nghiệp nhà nước bán hoặc mua cổ phần hoặc tài sản trong các doanh nghiệp có vốn sở hữu nhà nước. Mặc dù các hạn chế này đang hiện hữu trong tất cả các ngành song tập trung chủ yếu ở các ngành khai mỏ, giao thông vận tải, thông tin và viễn thông. Chính phủ yêu cầu bất kỳ hoạt động nào liên quan tới việc phát hiện và khai thác chất lỏng hoặc khí hydrocarbon, hoặc trong các hoạt động được cho là quan trọng đối với an ninh quốc gia liên quan tới ngành khai thác mỏ sẽ phải tuân thủ theo đúng nghị định của tổng thống. Chỉnh phủ Chile được quyền ưu tiên đầu tiên khi mua các sản phẩm khoáng chất từ hoạt động khai thác mỏ trong nước với một lượng lớn thorium hoặc uranium. Thêm vào đó, chính phủ cũng có thể yêu cầu nhà sản xuất chia tách các chất riêng biệt xét về mặt kinh tế hoặc kỹ thuật đối với các sản phẩm của ngành khai thác mỏ để bán hoặc phân phối. Những chất này không được coi là sản phẩm đặc trưng của ngành khai thác mỏ. Trong ngành dịch vụ vận tải, ngoài những hạn chế về nguyên tắc đối xử quốc gia còn có một số hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc tiếp cận thị trường. Chủ tịch, người quản lý, đa số thành viên ban lãnh đạo, người quản trị hành chính trong ngành vận tải hàng không buộc phải là công dân Chile. Chủ tịch và đa số các thành viên của các ban, bộ phận của bất kỳ một định chế nào trong lĩnh vực truyền hình cũng buộc phải là công dân Chile. Chủ tịch và đa số các thành viên của hội đồng quản trị của bất kỳ một định chế nào trong lĩnh vực truyền hình cũng buộc phải là công dân Chile. Chile có mức hạn chế cao nhất đối với tiêu chí đánh giá hiệu quả vì Chile đòi hỏi ít nhất 85% trong tổng số lao động trong doanh nghiệp được ký kết hợp đồng thì phải có hơn 25 lao động là người Chile. Tuy nhiên vẫn tồn tại những ngoại lệ về mặt nhân sự khi các nhân sự đó là các chuyên gia kỹ thuật theo định nghĩa được đề cập đến trong Direcci´ on General del Trabajo.

Giống như đối tác FTA Chile, Hàn quốc cũng hạn chế quyền sở hữu đối của nhà đầu tư nước ngoài và thành phần ban lãnh đạo trong tất cả các lĩnh vực mà nhà nước có tham gia mua bán tài sản. Ngoài ra, trong FTA với Singapore, Hàn quốc đòi hỏi khi tiến hành kinh doanh, các nhà đầu tư nước ngoài phải thuê một số nhân sự tàn tật. Những công dân không có quốc tịch Hàn quốc buộc phải được sự chấp thuận của bộ tài chính - kinh tế, hoặc thống đốc ngân hàng trung ương Hàn Quốc khi tiếp nhận những khoản vay bằng đồng won hoặc vay chứng khoán niêm yết bằng đồng won nếu vượt qua một hạn mức nhất định nào đó; hoặc khi phát hành chứng khoán ngắn hạn niêm yết bằng đồng won hoặc nhận các khoản tín dụng tài chính, bảo lãnh, tài sản đảm bảo bằng đồng ngoại tệ từ dân chúng. Việc mua đất đòi hỏi phải có sự thông báo rõ ràng. Hàn quốc thực hiện biện pháp hạn chế trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, điện, thông tin - viễn thông, vận tải và giáo dục. Chỉ những công dân Hàn Quốc mới được phép đầu tư trong ngành lương thực. Công ty điện lực Hàn Quốc, công ty gas Hàn Quốc, ngành phân phối và truyền tải điện năng cũng có những hạn chế đối với quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Người nước ngoài không được phép nắm giữ cổ phần trong bất kỳ định chế nào trong lĩnh vực sản xuất điện hạt nhân. Việc xây dựng hệ thống đường sắt hạn chế ở đối tượng được phép thực hiện bao gồm chính phủ Hàn Quốc, Công ty đường sắt quốc gia Hàn Quốc, hoặc các cơ quan trong hệ thống đường sắt quốc gia. Ngành viễn thông và thông tin cũng có những hạn chế về việc sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các cơ quan xuất bản báo chí (30% đối với các loại nhật báo và 50% đối với các ấn phẩm khác) và trong doanh nghiệp thuộc ngành viễn thông (49%). Những cá nhân không phải là công dân Hàn Quốc không được phép thành lập trạm phát sóng radio. FTA giữa Hàn quốc - Chile không cho phép người nước ngoài đầu tư vào các chương trình phát sóng mặt đất, chương trình chung hoặc tham gia hiệp hội các nhà cung cấp thông tin thời sự và phát sóng truyền hình. Tuy nhiên, đối với hoạt động truyền hình cáp, truyền hình qua vệ tinh và những hoạt động cung cấp chương trình phát sóng (nhưng không bao gồm chương trình phát song chung và chương trình thời sự) vốn đầu tư nước ngoài có thể lên đến 33%, còn đối với dịch vụ điều hòa mạng, vốn đầu tư có thể lên đến 49%. Tuy nhiên, trong FTA của Hàn quốc với Singapore lại không tồn tại bất kỳ hạn chế nào đối với hoạt động thu phát song truyền hình. FTA của Hàn quốc với Chile và với những cá nhân không phải công dân Hàn Quốc không cho phép những đối tượng này được phép đảm nhiệm vị trí biên tập viên báo hoặc tham gia vào thông tấn xã Yonhap. Ngoài ra còn có những hạn chế đối với việc thành lập các tổ chức giáo dục, đặc biệt là trong khu vực thủ đô Seoul. Trong hầu hết tất cả các lĩnh vực, Hàn quốc đều bảo lưu quyền thông qua hoặc duy trì các biện pháp hạn chế trong tương lai liên quan đến vấn đề tiếp cận thị trường và những hạn chế khác đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.

Bảng số 3 cho thấy Hoa kỳ là quốc gia có cơ chế thu hút FDI thông thoáng nhất. Hàng năm, Hoa kỳ có đưa ra các biện pháp hạn chế hoạt động FDI dưới dạng nguyên tắc ưu đãi. Nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu vốn trong các doanh nghiệp của Hoa Kỳ nếu quốc gia mà nhà đầu tư đó mang quốc tịch cũng đưa ra những ưu đãi cho nhà đầu tư Mỹ trong việc nắm giữ vốn cổ phần như quyền sở hữu và quyền quản lý. Nhìn chung Mỹ có cơ chế khá mở đối với các ngành sản xuất và dịch vụ. Tuy nhiên Mỹ lại đưa ra rất nhiều hạn chế đối với ngành tài chính và không cho phép thành lập các tổ chức tín dụng, ngân hàng huy động, hoặc các tổ chức huy động vốn thông qua chi nhánh theo luật của nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài cùng với các chi nhánh huy động vốn trực tiếp hoặc chi nhánh ngân hàng nói chung không được phép thành lập hoặc mua cổ phần tại các ngân hàng của Mỹ. Một vài bang của Hoa Kỳ còn không cho phép ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc đại lý liên bang. Hoa kỳ còn yêu cầu tất cả các tổ chức tài chính nước ngoài phải đăng ký hoạt động tư vấn tài chính. Liên quan đến hoạt động quản lý, tất cả các ngân hàng trong nước buộc phải nằm dưới sự kiểm soát của Mỹ. Quốc gia này cũng nhận được điểm số khá thấp trong thang điểm đánh giá đối với ngành giao thông vận tải, điều đó đồng nghĩa với việc đây là một ngành bị hạn chế rất lớn. Mặc dù điểm số cao hơn áp cho các hạn chế FDI trong FTA là kết quả của một thị trường thiếu tập trung (điều này cho thấy có ít hạn chế hơn) nhưng Golub (2003) kết luận rằng Mỹ vẫn áp dụng các biện pháp phân biệt rất lớn đối với từng doanh nghiệp nước ngoài. Thêm vào đó, Mỹ yêu cầu phải có được sự ưu đãi từ các nước khác nếu không sẽ không mở cửa cho bất kỳ ngành nào đối với bất kỳ nhà đầu tư nào của nước bị áp dụng các biện pháp hạn chế lợi ích từ hoạt động kinh doanh tại Mỹ.



Trong khi đó, Singapore lại có cơ chế khá mở đối với hoạt động FDI mặc dù quốc gia này vẫn áp đặt các hạn chế đối với việc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với các tài sản nhà nước trong tập đoàn cảng biển Singapore (PSA), công ty điện lực Singapore, Ủy ban kết nối điện lưới, các công ty cung cấp điện, gas, tập đoàn công nghệ và kỹ thuật Singapore, Hãng hàng không Singapore. Ngoài ra, Singapore cũng áp dụng các biện pháp hạn chế quyền sở hữu nhà ở tại từng vùng, chỉ duy nhất Tổng công ty Phát triển Sentosa được phép quản lý và phát triển vùng đảo Sentosa và cụm quần đảo ở phía nam. Dịch vụ tài chính cũng có những hạn chế riêng, và đây là ngành có xu hướng đưa ra các biện pháp ngăn cấm ký kết FTAs với nước ngoài. Thêm vào đó Singapore cũng đòi hỏi các nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu đăng ký kinh doanh tại đây phải có 1 người quản lý và ít nhất một thành viên ban giám đốc là công dân Singapore. Trong số tất cả các chi nhánh của công ty nước ngoài phải có ít nhất 2 đại lý nội địa.

Đi ngược lại quan điểm thông thường, Nhật Bản áp dụng các biện pháp hạn chế tổng thể ít hơn so với Mexico hay Hàn Quốc. Nhật Bản có mức điểm hạn chế trung bình là 0.78, điều này phản ánh khả năng cạnh tranh của Nhật tương đương với Singapore ở mức điểm số 0.76. Ngoài ngành khai thác mỏ, vốn là một ngành đóng thì Nhật Bản vẫn áp dụng các hạn chế đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành giao thông vận tải. Tập đoàn viễn thông NTT của Nhật yêu cầu phải có hoạt động thương mại và phải thông báo trước cho các nhà đầu tư nước ngoài về hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngành, Nhật không bị ràng buộc về điều kiện tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia.

Kết quả của bản nghiên cứu này gần tương đương47 với kết quả trong bản nghiên cứu trước đó của Golub (2003) về mức độ hạn chế trong hoạt động đầu tư nước ngoài của các nước trong khối OECD. Cả hai bản nghiên cứu đều chỉ ra Canada là nước có biện pháp hạn chế chặt chẽ nhất và Mỹ là nước có cơ chế thông thoáng nhất. Cả hai nghiên cứu cùng kết luận Mexico là quốc gia có mức hạn chế khá cao, đều đứng ở vị trí thứ hai trong hai bản nghiên cứu. Một sự tương đồng khác trong hai kết quả đó là so với Hàn Quốc, Nhật Bản là nước có cơ chế khá mở. Tuy nhiên, với trường hợp của Australia thì lại có sự khác nhau. Bản nghiên cứu này cho thấy Australia là một trong những nền kinh tế có cơ chế thông thoáng nhất đối với hoạt động đầu tư nhưng Golub (2003) lại chỉ ra mức hạn chế của Australia tương đương với Mexico.

3.3 Các biện pháp hạn chế

Biện pháp hạn chế thông dụng nhất đối với hoạt động FDI là hạn chế quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và tiếp cận thị trường. Ví du, Mexico hạn chế quyền sở hữu trong ngành ga và dầu mỏ trong khi Australia hạn chế quyền sở hữu trong hãng hàng không Quantas và Telstra. Mặc dù FTA được trông đợi sẽ đưa ra nguyên tắc đối xử quốc gia giống nhau đối với nhà đầu tư của mỗi bên liên quan, nhưng theo nghiên cứu này, FTAs lại có những hạn chế nhất định đối với mỗi lĩnh vực. Mỹ không cho phép người nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước do người nước ngoài nắm quyền kiểm soát được bảo hiểm hoặc vay vốn từ tập đoàn đầu tư tư nhân. Hầu hết các quốc gia đều bảo toàn quyền thực hiện các biện pháp hạn chế trong tương lai liên quan tới đối xử quốc gia trong một số ngành, đặc biệt là ngành dịch vụ.

Canada, Australia, và Mexico áp dụng mức hạn chế cao nhất đối với quá trình xem xét và chấp thuận FDIs. Canada yêu cầu phải xem xét toàn bộ giao dịch mua lại các doanh nghiệp Canada trong đó giá trị tài sản và quyền kiểm soát doanh nghiệp phải được xem xét theo luật đầu tư Canada. Hoạt động mua lại các doanh nghiệp Canada có liên quan tới giá trị văn hóa và di sản quốc gia cần phải được chính phủ xem xét dưới góc độ lợi ích quốc gia. Đối với những hoạt động đầu tư đòi hỏi phải có sự xem xét lại có thể phải xét đến lợi ích kinh tế ròng đem lại cho Canada. Tuy nhiên các nhà đầu tư Mỹ và Mexico phải đáp ứng được ngưỡng giá trị cao hơn so với các nhà đầu tư từ những nước ngoài NAFTA. Điều này cho thấy các nhà đầu tư Mỹ và Mexico có thể đầu tư với những khoản lớn hơn mà không cần phải thỏa mãn nhiều yêu cầu. Còn đối với các khoản đầu tư từ những nước khác thì đòi hỏi phải có sự thông báo trước. Australia cũng đề ra nguyên tắc: các ngưỡng đầu tư nhất định phải có sự chấp thuận nhất định từ các cơ quan chính phủ, đồng thời chính phủ có thể từ chối việc đầu tư vào các doanh nghiệp hoặc hoạt động kinh doanh hiện tại của Australia nếu tổng tài sản đầu tư lớn hơn 50 triệu AUD trong ngành giao thông vận tải và viễn thông.

Trường hợp có sự chuyển đổi nhà đầu tư, các quốc gia trong FTA cũng có cơ chế thông thoáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cho phép gia hạn thời gian đầu tư thêm một khoảng thời gian nhất định. Các EPAs giữa Nhật Bản–Mexico và Nhật Bản –Singapore có mức độ hạn chế cao nhất đối với sự chuyển đổi nhà đầu tư thể hiện ở điểm số 0. 0375. Nhật Bản và Mexico ít nhất còn cho phép gia hạn thời gian đầu tư thêm 1 năm nữa. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ cho phép các nhà đầu tư Singapore được phép gia hạn thêm một khoảng thời gian ngắn nhất, thường chỉ là 1 năm. Ngược lại, Singapore lại có cơ chế thoáng hơn đối với hoạt động đầu tư của Nhật cho phép chuyển đổi nhà đầu tư.

Một vài quốc gia còn đòi hỏi hoạt động đầu tư phải đảm bảo những yêu cầu nhất định về hiệu quả. Như được đề cập ở trên, Mexico đòi hỏi các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất phải thực hiện xuất khẩu một lượng hàng hóa nhất định, trong khi Chile yêu cầu có đội ngũ nhân sự là công dân nước mình. Về mặt lý thuyết, hầu hết các yêu cầu đánh giá chất lượng là do các nước phát triển đề xuất ra để đảm bảo họ sẽ nhận được những lợi ích trong hoạt động đầu tư nước ngoài như khuyến khích xuất khẩu hoặc nguồn nhân lực. Hầu hết các quốc gia được đề cập đến trong bài phân tích này đều là những nước phát triển, do đó sẽ không cần thiết phải buộc các đối tác phải thỏa mãn những yêu cầu đánh giá hiệu quả nhất định.

3.4 Những hạn chế đối với các ngành khác

Như được chỉ ra trong bảng 4, các ngành trong nhóm thứ nhất và thứ 3 gặp phải những hạn chế lớn nhất trong hoạt động đầu tư. Cụ thể hơn, ngành nông nghiệp, khai mỏ, giao thong vận tải, thong tin - viễn thong, và tài chính bị hạn chế hơn cả. Mexico và Nhật Bản là những nước có sự hạn chế lớn nhất trong khối ngành thứ nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài với mức hạn chế tương đương với 0.212 và 0.352. Mexico cấm hẳn sự tham gia của đầu tư nước ngoài vào ngành dầu mỏ và các hoạt động liên quan đồng thời không cho phép sở hữu nước ngoài đối với đất nông nghiệp. Tương tự như vậy, ngành khai mỏ của Nhật Bản cũng là một ngành đóng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Mỹ lại yêu cầu có nhiều ưu đãi hơn trong ngành này trong khi Chile yêu cầu hoạt động trong ngành này phải được sự thong qua của tổng thống bằng các nghị định.

Australia, Canada, Chile, Hàn Quốc và Mexico rất hạn chế trong các ngành ưu tiên mà đây vốn là các ngành rất quan trọng đối với nền kinh tế của các nước phát triển tham gia vào FTAs. Để tránh hoạt động chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư, nhiều quốc gia đã lựa chọn bảo hộ các ngành quan trọng đối với nền kinh tế. Ví dụ như ngành giao thong vận tải, quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là ngành hàng không và ngành vận tải biển, đều có những hạn chế nhất định. Australia cũng hạn chế sở hữu đối với hãng hàng không Quantas và những hãng khác có tuyến bay quốc tế. Ngành vận tải hàng không nội địa có một số đặc quyền cho các công ty không có vốn đầu tư nước ngoài. Trong ngành thong tin và viễn thong, Hàn Quốc, Mexico, và Singapore cũng hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với hoạt động in ấn báo chí. Ngoài ra, Hàn quốc, Chile, Mexico, Hoa Kỳ, và Australia cũng áp dụng các biện pháp hạn chế đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hoặc bảo toàn quyền thực hiện các biện pháp hạn chế trong tương lai. Nhật Bản cũng hạn chế quyền sở hữu này trong NTT nhỏ hơn 1/3 tổng số cổ phần, ngoài ra người nước ngoài không được phép đảm nhiệm vị trí giám đốc hoặc kiểm toán viên. Australia hạn chế quyền sở hữu với Telstra đồng thời yêu cầu đa số các thành viên của ban lãnh đạo cũng như vị trí chủ tịch phải là công dân Australia. Lĩnh vực tài chính bao gồm bảo hiểm và ngân hàng có mức hạn chế cao nhất. Ngoài các hạn chế đối với quyền sở hữu, Hoa Kỳ còn có những hạn chế đối với việc tiếp cận thị trường như lựa chọn tổ chức đầu tiên tham gia phân phối trái phiếu chính phủ và điều khoản dịch vụ khách hàng như thiết lập mạng lưới ATM và các điều khoản dịch vụ ghi nợ thong qua Hệ thống thanh toán điện tử tại các điểm bán hàng (EFTPOS) như ở Singapore.

  1. Kết luận

Các quốc gia được xét đến trong bài nghiên cứu này không những hướng tới mục tiêu tự do hóa thương mại mà còn tự do hóa hoạt động FDI, tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế gây ảnh hưởng tới dòng vốn đầu tư của các nước tham gia ký kết FTAs. Điểm nổi bật của những hạn chế này chính là mức độ hạn chế quyền sở hữu vốn đầu tư nước ngoài, mức độ hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó mức độ hợp tác này có ảnh hưởng lớn tới doanh nghiệp. Trong nhóm ngành đầu tiên, khai mỏ và nông nghiệp là những ngành bị hạn chế nhiều nhất. Mức độ hạn chế tương đương cũng được áp cho các ngành dịch vụ, đặc biệt là giao thông vận tải, viễn thông, điện, tài chính, và bảo hiểm. Khối ngành sản xuất chỉ bị một vài hạn chế.

Mỹ và Singapore là 2 trong số các quốc gia có cơ chế thông thoáng nhất đối với hoạt động đầu tư theo như kết quả nghiên cứu đã chỉ ra. Trong hầu hết tất cả các trường hợp, Mỹ đều đòi hỏi phải nhận được ưu đãi từ đối tác rồi mới bãi bỏ hạn chế của mình trong hoạt động đầu tư. Các nước thành viên NAFTA là Mexico và Canada cũng rất hạn chế trong hoạt động FDI, điều này nói chung khá khác lạ bởi thông thường các quốc gia ký kết NAFTA được coi là một nước ký kết FTA với những nguyên tắc FDI toàn diện.

Một vấn đề khác cần phải quan tâm nghiên cứu trước chính là đánh giá kết quả thực hiện các nguyên tắc FDI. Trong quá trình xem xét chất lượng các nguyên tắc FDI cần phải xét: đưa ra nguyên tắc là một vấn đề xong thực hiện nguyên tắc lại là một vấn đề khác. Thậm chí nếu một quốc gia đưa ra nguyên tắc FDI tự do, song FDI có thể bị hạn chế nếu không được thực hiện một cách hiệu quả. Thông thường, sự thiếu minh bạch trong khi thực hiện các nguyên tắc sẽ làm suy giảm dòng FDI. Do đó, việc đánh giá kết quả thực hiện các nguyên tắc FDI có thể được tiến hành bằng cách sử dụng nguồn thông tin thu thập từ nhiều quốc gia có hoạt động FDI.

Một vấn đề khác trong bản nghiên cứu có thể ảnh hưởng tới nguyên tắc FDI áp dụng cho các dòng vốn FDI. Một vài bài nghiên cứu khác cũng đã kiểm chứng vấn đề này và khả năng ảnh hưởng của nó. Một quốc gia có cơ chế chính sách FDI thông thoáng sẽ đóng góp vào thành công trong hoạt động thu hút FDI. Tuy nhiên, khi thống kê kiểm chứng tầm ảnh hưởng của các hiệp định đầu tư song phương (BITs) FDI, hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển (1998) cũng không tìm ra bằng chứng nào cho thấy BITs có thể làm tăng FDI. Với sự khác nhau nhất định căn cứ vào những nghiên cứu này, Urata và Kawai (2000) nhận thấy năng lực quản trị hoặc áp dụng quy định của luật pháp tại các quốc gia tiếp nhận FDI đã tạo ra ảnh hưởng tích cực đối với FDI từ Nhật. Để kiểm chứng nội dung này thì cần phải thực hiện thêm nhiều nghiên cứu nữa.

Каталог: uploads -> news -> 2012 12
news -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
news -> * Thủ tục cấp giấy phép kinh doanh karaoke Trình tự thực hiện: Bước 1
news -> 01. Cấp giấy phép tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang cho các tổ chức thuộc địa phương
news -> Thủ tục thẩm định lại, xếp hạng lại hạng cơ sở lưu trú du lịch: hạng 3 sao cho khách sạn, làng du lịch
news -> NGÀy môi trưỜng thế giớI 2016 (wed 2016) cuộc chiến chống nạn buôn bán trái phéP ĐỘNG, thực vật hoang dã
news -> LÝ LỊch khoa học I. Thông tin chung
news -> LÝ LỊch khoa họC
2012 12 -> ĐỀ CƯƠng ôn tập môn ngữ VĂN 8 phần tiếng việt I. Lí thuyết

tải về 0.92 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương