Các bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh nhân loại chu kỳ trước


Đến những mô hình máy bay phi công và tàu vũ trụ



tải về 385.33 Kb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu04.10.2016
Kích385.33 Kb.
#32610
1   2   3   4   5   6   7

Đến những mô hình máy bay phi công và tàu vũ trụ

Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước


Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì, họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng.



Hình chạm thể hiện một chiếc trực thăng, tìm thấy tại đền thờ ở Abydos, Ai Cập

Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ” vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng 3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.

Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak. Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến 2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.

Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.

Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.

Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.



Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?

Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó?

Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn khách quan.

Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến tranh. Xem thêm thông tin tại đây hoặc Laura Lee.


Những chiếc máy bay bằng vàng cổ đại




Chúng là những mẩu châu báu không nên tồn tại bởi vì chúng không phù hợp với cái thế giới quan của khảo cổ học truyền thống. Các máy bay trước thời đại của chúng ta là những điều cấm kỵ cho những “nhà khoa học”. Các bộ phận khác nhau được họ giải thích như là những thực thể hỗn tạp linh tinh(!). Những mô hình máy bay bằng vàng ròng này có tuổi hàng nhiều thế kỷ, được khám phá trong những mộ cổ tại Muisca, Calima, Tairona và Tolima Indians ở Columbia ngày nay.

Xem thêm thông tin tại đây



Từ “Thunderbird” - “Chim sấm” là một giải thích có lý đối với những người thời cổ đại khi cố gắng giải thích máy bay bằng các kinh nghiệm sống và vốn từ vựng nguyên sơ của họ! Không có từ ngữ nào biểu đạt khái niệm “máy bay”, thì những thuộc tính liên hệ có thể được ghép nối với nhau để biểu thị cái khái niệm của họ.



Đó là cách mà những thực thể huyền thoại đáng sợ được tạo ra từ những cỗ máy đó, nhưng chúng thể hiện không có gì nhiều hơn là những công nghệ kỹ thuật cao không được thấu hiểu.

Thunderbird là một thực thể huyền thoại trong truyền thuyết cổ Ấn Độ. Nó được gọi là Wakinyan trong ngôn ngữ Lakota, có nghĩa là "holy swinging" – “cánh thiên thần”. Những chiếc cánh của nó dang rộng và cuốn những đám mây lại với nhau.

Những người Canada bản xứ kể lại rất chi tiết những câu chuyện về những “thunderbirth”, mà những sinh vật có liên quan đến chúng có thể chuyển hóa thành người, khi cái vòi trên đầu trở thành một chiếc mặt nạ và họ tháo bộ cánh trên người ra. Cũng có những câu chuyện mà chi tiết những con chim lửa dưới hình dạng con người đã kết duyên với những gia đình và việc các gia đình đó có thể tiếp nối dòng dõi thần thánh được mô tả như là một sự kiện. Những thị tộc của thunderbird trong hình dạng con người đã chung sống với họ ở cực Bắc vùng Vancouver. Câu chuyện mau chóng bị quên lãng, và khi một bộ lạc cố gắng bắt họ làm nô lệ, những thunderbird đã trả thù.

Câu chuyện của Phaeton: Phaeton, con của thần mặt trời Helios, được cha ban cho một điều ước. Phaeton ước được lái chiếc xe của cha. Helios không đồng ý vì cỗ xe thiên đường chỉ có thể được điều khiển bởi Thần mặt trời. Nó quá mạnh và quá nhanh không thể điều khiển nổi bởi bất kỳ ai khác. Helios đã lo lắng điều không hay sẽ xảy ra và đề nghị con trai, “con không bao giờ lái nổi nó đâu”, nhưng Phaeton không nghe. Nỗi lo sợ đã trở thành hiện thực, cỗ xe đã bay quá nhanh về phía thiên đường và nát tan tành.

Các vật thể tương tự có thể tìm thấy cả ở Ecuador, Costa Rica, Jordan và ở Sakkara, Ai Cập. Các thợ vàng cổ đại đã sáng tạo ra mô hình của chúng theo những gì họ nhìn thấy hay chính họ đồng thời là chủ nhân của chúng nhiều ngàn năm trước?



Trong khi khai quật một ngôi mộ cổ Ai Cập, gần Saqqara vào năm 1891, các nhà điều tra nghiên cứu đã tìm thấy một đồ vật làm bằng gỗ cây sung dâu, và cũng giống như những thứ còn lại trong ngôi mộ, nó được giám định niên đại vào khoảng năm 200 TCN. Cần suy nghĩ thêm một chút là, cái mô hình máy bay này được tìm thấy trước khi anh em nhà Wright bay thử thành công trên chiếc máy bay đầu tiên của loài người đến vài chục năm. Thậm chí có chuyên gia NASA cho rằng nó rất giống với một loại máy bay mà cơ quan này từng thử nghiệm trước đây.

"Ai là những người đã bay vào những đám mây như những chú bồ câu?"
(Quyển sách của Isaiah Chương 60 phần 8)


Mô hình tàu vũ trụ phản lực được tìm thấy tại Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ

Một trong những tác gia và nhà nghiên cứu hàng đầu của Astro Archaeology đã du lịch khắp thế giới nhiều lần để tìm kiếm các mẫu vật siêu tự nhiên. Ông khám phá ra một mẫu vật trong viện bảo tàng khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ một di vật chạm khắc đá kỳ lạ, miêu tả tỉ mỉ một phi thuyền vũ trụ công nghệ cao hình con nhộng. Thiết bị đáng kinh ngạc này thể hiện nhiều tính năng của một tàu vũ trụ hiện đại, ống thải động cơ phản lực phía sau đuôi, và một buồng lái với phi công đang ngồi và mặc một bộ đồ du hành đang điều khiển con tàu.

Những quái vật khạc ra lửa trên mặt đất, có thể bay như một con chim với tiếng động điếc tai, ồn ào như một cơn bão, nhanh như một con cá trong nước và đáng sợ như một con cá sấu”. (Fire-spitting earth monster that could fly like a bird with ear-deafening noise like a storm, fast like a fish in the water and so terrifying like a crocodile?)

Điều khiển một thiết bị bay là một đặc quyền. Các kiến thức về bay lượn là một phần trong những của cải thừa kế cổ xưa nhất của chúng ta, một món quà từ “ai đó từ phía bên trên”. Chúng ta nhận nó như là một công cụ để cứu sống nhiều sinh mạng…” [Trích trong Hakahta, The Babylonian Laws] (“It is a privilige to control a flying machine. The knowledge of flying is part of our oldest heritage, a present from 'someone from above'. We received it as a tool to save many lives”).



Làm thế nào những cư dân đầu tiên của Bắc Mỹ kinh nghiệm và miêu tả những gì họ nhìn thấy với hiểu biết và vốn từ của họ. Đó là cách mà những từ ngữ như "thunderbird", "steel steed", "firewater", vv… được thêm vào trong ngôn ngữ của họ.

Những mô hình thiết bị bay khác cũng được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ





Tại viện bảo tàng vàng ở Bogota, New York, Berlin, và Bremen, người ta có thể khâm phục những miếng vàng như thế này. Đáng buồn thay, những thứ như thế có nguồn gốc từ hàng tấn những di vật bằng vàng và những cuộn sách bằng vàng vô giá của những người Nam Mỹ bản xứ. Chúng đã bị đốt nóng chảy và phá hủy bởi những người xâm chiếm và những người truyền giáo, gọi là nhân danh Nhà thờ Thiên Chúa giáo.

Vàng ngày nay tìm thấy ở các giáo đường tầm thường mà khoa trương trên khắp thế giới. Những việc làm phản nghịch ý Chúa như thế này là lý do vì sao chỉ có một số ít người được biết đến những nền văn minh tiền sử cao cấp ở Nam Mỹ và những kiến thức vô tiền khoáng hậu của họ, ví dụ, trong thiên văn học.

Tìm hiểu thêm về Những kiến thức thần kỳ của người xưa.





”Đài thiên văn Maya”ở Chichen Itza (Mexico)


Một bức tranh chạm khắc của người Maya.
Thật khó hiểu tại sao người này lại mặc một cái mũ bảo hiểm với một cái giống với ống thở giống hệt một phi công vũ trụ đến như vậy?!



Một vị thần khác với ống thở cũng được thể hiện trong một bia đá kinh điển tại Tikal, Peru



Mẫu vật phía trên bên phải tìm thấy ở Mexico, có niên đại vào khoảng 1150 TCN đến 100 năm TCN. Chiếc mũ bảo hiểm giống hệt như mũ phi hành gia vũ trụ, bộ quần áo bó sát, mang giày và đeo găng tay, chỉnh thể trông hệt nhà du hành vũ trụ. Các mẫu vật còn lại tìm thấy tại Ecuador, được cách điệu nhiều nhưng vẫn có thể nhận thấy rất nhiều điểm tương đồng.




Những bức tượng cổ khác tìm thấy rải rác khắp nơi trên thế giới, có nhiều điểm tương đồng với các phi công vũ trụ hiện đại ngày nay trong bộ quần áo phi hành



Vị thần thứ 4 tên là Penemue; ông giảng giải sự khác nhau giữa đắng cay và ngọt bùi cho trẻ nhỏ và dạy chúng tất cả những bí mật trong hiểu biết của mình. Ông dạy con người cách viết bằng bút và giấy, nhờ đó họ sống mãi cho đến ngày nay. (Quyển sách của Henoch)

(The fourth angel is called Penemue; he explained the difference between bitter and sweet to children and gave them all the secrets of his knowledge. he taught man how to write with pen and paper, whereby they sinned themselves since eternity till eternity and up to that day). (Book of Henoch)

Một bức tượng tìm thấy ở Nga, gần Kiev

2
Phải chăng các hình ảnh khắp thế giới chứng tỏ rằng các sinh mệnh thần thánh đã đến từ các thiên đường, cùng với các thiết bị kỹ thuật cao mà người thời đó không hiểu được? Hay đó là những hậu duệ của một nền văn minh thượng cổ đã bị diệt vong, họ quay trở về tái thiết lại chu kỳ văn minh mới cho nhân loại thời kỳ mới?
công trình điêu khắc này tìm thấy tại Colombia. Tượng bên phải được cho là một phi công đang lái phi thuyền vũ trụ.Trung tâm lớn nhất của người Maya được tìm thấy cho đến nay, Tikal, được xây dựng như là một thành phố thần thánh. Thông điệp này đã được giải mã từ một tấm bia đá tìm thấy tại đây: “Nơi này các vị Thần có nguồn gốc từ các vì sao đã xuống Trái Đất”


Ngay trong cả các chuyện kể sớm nhất của người Sumeria (3000 năm TCN) cũng đã ghi nhận về một vương quốc ở thiên đường đã xuống định cư tại thành phố Eridu. “Khi vương quốc thiên đường đến Trái Đất, nó đã trải rộng ra thành Eridu”. (Danh sách các vị vua Sumeria – Sumerian List of Kings)



Các chuyện kể của người Sumeria

Nếu thế thì phải có các đường băng cổ đại hay là cái gì đó tương tự?

Những đường băng này nằm tại sa mạc Nazca, cách Peru 3000 km về phía Nam!

Một giọng nói cất lên: Ngài đã chuẩn bị con đường trong sa mạc, Thượng Đế đã làm một con đường bằng phẳng từ thảo nguyên! Tất cả các thung lũng phải cao lên, và tất cả các ngọn núi phải thấp xuống, và cái mà không bằng phẳng, trở nên thẳng tắp, và cái mà nhiều đồi núi cao, trở nên bằng phẳng; bởi hào quang của Ngài phải được nhìn thấy! Cỏ héo, hoa tàn; bởi vì Ngài đến đó thình lình”. (Isaiah Chương 40 Phần 3/4/5/7, Cựu Ước)

Trong các chuyện kể Ai Cập cổ đại có kể rằng Thần Seth đang chuẩn bị cắt các dãy núi và đang chuẩn bị bay trên các “con tàu mặt trời” cùng với những “đồng sự” của mình.

Khu vực Palpa trong sa mạc Nazca cho thấy các kiến tạo núi mà bị các nhà khảo cổ học lờ đi không để mắt đến. Các chỏm núi bị san bằng trông như một sân bay vũ trụ.

Welcome” – “Chào mừng”. Trên một sườn núi, hình vẽ khổng lồ này thể hiện một người đang đứng trong tư thế giơ tay chào. Nó có một cái tên rất hợp do người bản xứ đặt cho, là “El Astronauta”

Những hình vẽ nguệch ngoạc trong sa mạc phải được nhìn thấy từ không gian để có thể nhận ra chúng bởi chúng quá to lớn. Xem thêm các hình ảnh bí ẩn tại Sa mạc Nazca Peru tại đây.

Những hình vẽ Stupas hàng ngàn tuổi bí ẩn này thể hiện điều gì? So sánh với con tàu vũ trụ từng đặt chân lên Mặt Trăng. Phải chăng trong quá khứ xa xôi, Trái Đất từng tồn tại một nền văn minh lớn có thể bay vào các không gian vũ trụ?




Quetzalkoatl là vị Thần mang văn hóa đến cho nền văn minh Maya và người Aztecs. Còn có tên là Kukulcan và Kukumaz. Theo truyền thuyết, Quetzalkoatl đến Inca từ thiên đường và sáng lập ra đế chế Inca. Xem xét kỹ, qua các nét cách điệu sâu sắc trên bức tượng ta vẫn nhận thấy được những dấu vết của bộ quần áo phi hành gia vũ trụ

Bhima bay trên chiếc Vimana của mình, trên một tia sáng ghê gớm có ánh sáng của mặt trời, âm thanh của nó nghe như tiếng sấm trong cơn bão… Cỗ xe chiếu sáng như một ngọn lửa trên bầu trời đêm hè… nó lướt qua một sao chổi…trông như là 2 mặt trời đang chiếu sáng. Sau đó cỗ xe bay vọt lên và toàn thiên đường được chiếu sáng” (Trích trong cổ văn Mahabharata của Ấn Độ)



"Bhima flew with his Vimana on a monstrous beam that had the glare of the sun, its sound like the thunder of a storm… The flying chariot shone like a flame in the night sky of summer … it swept by like a comet… It was as if two suns were shining. Then the chariot rose up and all the heaven brightened.”

Làm thế nào người này có thể biết kể về việc lướt qua sao chổi rành mạch và thực đến thế, nếu như không có kinh nghiệm bay thực tế. Làm sao anh ta biết được hiện tượng bay lên rất cao ra ngoài khoảng không vũ trụ thì bóng đêm biến mất và bầu trời sáng lên vì nhìn thấy ánh mặt trời?

Thêm nhiều mẫu vật tương tự tìm thấy tại nhiều địa điểm, nhiều nền văn hóa khắp thế giới. So sánh với một phi hành gia trong bộ áo du hành.

Mẫu vật này tìm thấy trong một ngôi đền tại Yutacan, Peru. Nhiều nhà khảo cổ đưa ra những lời giải thích kỳ quái cho mẫu vật này, nhưng không có cái nào thỏa đáng. Erich von Däniken nhìn nhận đây là một người đàn ông ngồi trên một vật thể bay được khắc họa trên phiến đồng thau này, trông như đang khởi động một chiếc tàu con thoi!



Xem thêm thông tin về mẫu vật kỳ lạ này tại đây.


Thậm chí một số người còn giải thích xa hơn, như là “Thế giới của người Maya”, vv… mà không thèm quan tâm đến tầm quan trọng của những khẳng định của họ. Ta chỉ có thể khẳng định cái mà người đàn ông đang ngồi lên và điều khiển thì có rất nhiều điểm tương tự như phi thuyền vũ trụ ngày nay. Sau đó những ký hiệu tượng hình tìm thấy đã được giải mã thành công một phần cho thấy những quan hệ mật thiết giữa các hành tinh và dải Ngân Hà (Zak Beh), ngôi nhà của các vị thần của người Maya. Đây đúng thật là cảnh mô tả một phi hành gia đang điều khiển một thiết bị bay thời thượng cổ! Các giám định niên đại cho thấy nó có tuổi đời cao nhất khoảng 3000 năm TCN.



Nhiều phần trong những ký hiệu tượng hình tại biên của tấm đồng thau kể lại rằng nguyên nhân cái chết của Pacal là gây ra bởi “luồng hơi thở nóng” – “hot breath”.



Một vật huyền bí khác được một số người cho là “vật thờ cúng” mà người Maya cổ đại để lại cho chúng ta, là một bằng chứng nữa của những chuyến du hành vũ trụ trước thời đại chúng ta!



Dưới lệnh của Shiva, người Maya xây dựng một thành phố bằng sắt như là một cỗ xe không gian lớn, gọi là Saubha"[Bhagavata-Purana] “Under Shiva's command, the Maya constructed a city of steel as a spacious space vehicle, called Saubha"

“Anh ta bước đi trên lâu đài thần thánh yêu thích của Indra và thấy hàng ngàn các cỗ xe bay của các vị Thần, một số đang tắt, số khác đang di chuyển”.

“Khi 3 thành phố gặp nhau trên bầu trời, anh ta lách qua chúng với tia sáng của ngọn lửa 3 chòm của anh ta”.

Và thành phố thiên đường của Indra, mà Arjuna đến, thật tráng lệ … Arjuna nhìn thấy các cỗ xe thiên đường khác, hàng ngàn, tất cả chúng có sức mạnh đi đến bất kỳ đâu, kéo dài đến các nơi của họ … Cái được nhìn thấy như là một ngôi sao từ Trái Đất, như những ngọn đèn bởi khoảng cách quá xa xôi, thực tế là rất lớn”.

Mahabharata, Ramayana: Các cổ văn Ấn Độ.

Những đoạn trên nếu một người ở thế kỷ 19 trở về trước đọc sẽ chẳng có một chút ấn tượng hay ý tưởng nào. Nhưng ở thời đại chúng ta ngày nay với máy bay và tàu vũ trụ, đọc lại các cổ thi hàng ngàn năm này mới có thể hiểu chính xác những con người thời thượng cổ đó nói đến điều gì.

Tải Mahabharata bản tiếng Anh tại đây.

Tham chiếu về các Vimana trong Mahabharata và các cổ văn khác


Mahabharata là một trong hai cuốn cổ văn tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là Ramayana. Mahabharata bao gồm hơn 74.000 câu thơ và những đoạn văn xuôi dài, tổng cộng khoảng 1,8 triệu từ, và là cuốn thiên sử dài nhất trên thế giới, gấp bảy lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey cộng lại. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" của Ấn Độ cổ xưa. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 SCN. Theo nhiều nhà nghiên cứu hiện đại Mahabharata là Lịch Sử, hơn nữa là lịch sử của một thời kỳ rất cổ xưa, hơn rất nhiều so với những gì được biết.

Mahabharata kể về cuộc chiến tranh của 2 dòng họ KauravaPandava. Cuộc chiến dường như được xếp đặt của các vị Thần cổ xưa Ấn Độ với ý định giải quyết vấn đề dân số quá đông của thế giới (khoảng 14 tỉ người lúc đó, theo nội dung Mahabharata).

“Một thiết bị mà có thể di chuyển về phía trước dựa trên sức mạnh của bản thân nó như một con chim: trên mặt đất, trên nước hoặc trên không, được gọi là “Vimana”, thứ mà có thể bay cao đến thiên đường: từ nơi này đến nơi khác, từ đất nước này đến đất nước khác, hoặc từ thế giới này đến thế giới khác, được gọi là “vimana”, từ các thầy tu của khoa học” (Trích vaimanika-sastra, Cổ văn Ấn Độ)

"An apparatus that can move forward on its own power like a bird: on the ground, on water or in the air, known as "vimana", that can rise through the heaven: from place to place, country to country or from world to world, known as "vimana", from the priests of science".

Một số trong những chiếc vimana dùng như những chiếc máy chiến tranh và những vũ khí phá hoại. Thực tế, nhiều cổ văn Ấn Độ đã mô tả chúng được dùng trong chiến tranh.

Và trong cổ văn Rig Veda, mà nhiều người cho rằng là tài liệu cổ xưa nhất được biết đến, các cỗ xe bay được biết rất rõ và những chủng loại đặc biệt sau đây được mô tả cụ thể:

Jalayan – cỗ xe được thiết kế để hoạt động trong nước và trong không khí (Rig Veda 6.58.3)
Kaara- cỗ xe được thiết kế hoạt động trong nước và trên đất bằng (Rig Veda 9.14.1)
Tritala- a vehicle consisting of three stories. (Rig Veda 3.14.1)
Trichakra Ratha - cỗ xe 3 bánh được thiết kế để hoạt động trong không khí(Rig Veda 4.36.1)
Vaayu Ratha- cỗ xe chạy bằng khí hoặc sức gió (Rig Veda 5.41.6)
Vidyut Ratha- cỗ xe được thiết kế để vận hành bằng năng lượng (Rig Veda 3.14.1)

7 thành phố lớn nhất của Rama được biết trong các văn bản truyền thống của Ấn Độ là “The Seven Rishi Cities” “7 thành phố của người Rishi”. Theo những văn bản Ấn Độ cổ đại, những những thiết bị bay này được miêu tả gồm có 2 tầng, hình tròn với những lỗ cửa sổ ở thành tàu và một mái vòm, rất giống với cái mà ta gọi là đĩa bay. Nó bay với “tốc độ của gió”. Có ít nhất 4 loại hình dạng vimana. Một số hình đĩa, một số hình điếu xì gà. Những văn bản cổ xưa của Ấn Độ về vimana là vô số kể, có thể sưu tập đóng thành nhiều tập sách. Những người Ấn Độ cổ, những người đã làm ra những con tàu này, đã viết toàn bộ những hướng dẫn điều khiển bay của từng loại vimana, nhiều trong số chúng đến nay vẫn còn, và một số đã được thậm chí dịch sang tiếng Anh.

Tài liệu này đã được dịch sang Anh ngữ và có thể tìm mua: VYMAANIDASHAASTRA AERONAUTICS dịch sang tiếng Anh và biên soạn bởi tác giả Maharishi Bharadwaaja, in ấn và phát hành bởi G.R. Josyer, Mysore, India, 1979. Ông Josyer là giám đốc của International Academy of Sanskrit Investigation có trụ sở tại Mysore. Có vẻ không nghi ngờ rằng Vimana được cung cấp năng lượng bởi một loại thiết bị “phản trọng lực”. Vimana cất cánh thẳng đứng, và có thể bay lượn trong không gian, như một trực thăng hoặc khí cầu. Bharadvajy đã dẫn ra không ít hơn 70 căn cứ và 10 chuyên gia khác nhau về du hành không gian thời cổ đại.

Samara Sutradhara là một luận thuyết khoa học quan hệ với mỗi góc cạnh của du hành không gian trong 1 chiếc vimana. Có 230 đoạn liên quan với việc chế tạo, cất cánh, tuần tra hàng ngàn dặm, hạ cánh bình thường và khẩn cấp, và cả những va chạm với chim chóc. Vào năm 1875, Vaimanika Sastra, một văn bản có niên đại thế kỷ 4 trước công nguyên viết bởi Bharadvajy the Wise, dùng ngay cả những văn bản cổ xưa hơn cả nguồn của ông, được khám phá tại một ngôi đền ở Ấn Độ. Nó có liên hệ với cách vận hành của các vimana và gồm cả các thông tin về cách lái, khuyến cáo thận trọng trong những chuyến bay dài, bảo vệ tàu trước các cơn bão và sấm sét và làm thế nào để chuyển chế độ lái sang “năng lượng mặt trời” từ một nguồn năng lượng kiểu như thiết bị phản trọng lực. Vaimanika Sastra (Vymaanika-Shaastra) có 8 chương với các biểu đồ, mô tả 3 loại tàu, gồm cả các thiết bị không thể cháy vỡ. Nó còn đề cập đến 31 phần chủ chốt của những thiết bị này và 16 vật liệu chế tạo ra chúng, thứ mà hấp thụ ánh sáng và nhiệt; và lý do vì sao chúng được cho là thích hợp để chế tạo ra các vimana.

Rõ ràng là những người Ấn Độ tiền sử đã bay trong những cỗ xe này, toàn bộ châu Á, Thái Bình Dương; và thậm chí, dường như, đến Nam Mỹ. Văn bản tìm thấy tại Mohenjodaro, Pakistan và vẫn chưa giải mã được, cũng được tìm thấy trên một nơi khác trên thế giới: đảo Easter, được gọi là bản viết tay Rongo-Rongo, cũng chưa giải mã được, và cũng kỳ lạ giống như bản tại Mohenjodaro. Có phải đảo Easter là một cơ sở không gian cho các vimana của đế chế Rama?

Để hiểu rõ hơn về công nghệ, chúng ta phải đi xa hơn vào quá khứ. Cái gọi là “Đế chế Rama” của Bắc Ấn và Pakistan đã phát triển nhiều ngàn năm trước trên tiểu lục địa Ấn Độ và là một quốc gia của nhiều thành phố lớn tân kỳ, nhiều trong số đó có vẻ vẫn nằm đâu đó chờ được khám phá trong các hoang mạc và đáy biển. Rama đã tồn tại, song song với nền văn minh Atlantic.

Chỉ vài năm trước, người TQ đã khám phá ra vài tài liệu tiếng Phạn cổ tại Lhasa, Tây Tạng và đã gửi chúng đến trường đại học Chandrigarh Ấn Độ để phiên dịch. Tiến sĩ Ruth Reyna của trường đại học Chandrigarh đã phát biểu gần đây rằng đó là những tài liệu hướng dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ! Những phương pháp động lực học của chúng, cô nói, là “phản trọng lực” và được dựa trên những nguyên lý giống như là “laghima”. Theo các thiền sư Yogi của Ấn Độ, “laghima” là nguyên lý giúp con người có thể tự bay lên bằng phương pháp tập luyện bài bản.

Tiến sĩ Reyna nói rằng trên khoang lái của những thiết bị bay này, thứ được gọi là “Astras”, những người Ấn Độ cổ xưa có thể gửi một nhóm người lên những hành tinh khác, theo như những gì nói trong tài liệu, mà có vẻ nhiều ngàn năm tuổi này. Bản viết tay này còn tiết lộ bí mật của “antima”-“phương pháp tàng hình” và “garima”- “làm thế nào để trở nên nặng như một ngọn núi chì”. Tất nhiên, những nhà khoa học Ấn Độ ban đầu không xem những văn bản này là nghiêm túc, nhưng đang dần nhận ra giá trị của chúng. Những bản viết tay này không nói thẳng về việc du hành giữa các vì sao nhưng có nhắc rõ ràng về một kế hoạch du hành Mặt trăng, mặc dù không ai biết là chuyến đi này đã thực sự được tiến hành hay không. Tuy nhiên, một trong những cổ văn vĩ đại nhất của Ấn Độ, Ramayana, có những chi tiết rõ ràng về một chuyến du hành lên mặt trăng sử dụng vimana (“Astra”), và thực tế còn thậm chí mô tả chi tiết một cuộc chiến với “Asvin”, một loại tàu của đế chế Atlan. Đây chỉ là một ít trong vô số những bằng chứng về phản trọng lực và công nghệ vũ trụ của người Ấn Độ tiền sử.


Dưới đây là trích dẫn trong các bộ cổ văn Mahabharata và Ramayana, những đoạn nói về các thiết bị bay tiền sử, cũng như về các “Vũ khí tối hậu” (“Final Weapon” – dịch nguyên văn sát nghĩa từ Mahabharata bản tiếng Ấn Độ không thêm bớt) mà những người thượng cổ đã dùng để kết thúc chiến tranh :

Mahabharata Đoạn này kể về Krisna khi anh bay lên trời đuổi theo Salva:

"His Saubha clung to the sky at a league's length...He threw at me rockets, missiles, spears, spikes, battle-axes, three-bladed javelins, flame-throwers, without pausing....The sky...seemed to hold a hundred suns, a hundred moons...and a hundred myriad stars. Neither day nor night could be made out, or the points of compass."

“Chiếc Saubha của hắn đứng yên trong không gian ở một độ cao một lý (4km) … Hắn bắn về phía ta các tên lửa, các mũi lao, những cây đinh, rìu chiến, lao 3 lưỡi, những cục lửa, không ngưng nghỉ … Bầu trời … dường như có hàng trăm mặt trời, hàng trăm mặt trăng … và hàng trăm vạn ngôi sao. Không thể biết là ngày hay đêm, kim la bàn cũng không dùng được”

Cảnh tượng nhiều vì sao, nhiều hành tinh lớn nhỏ xuất hiện như thế này chỉ xuất hiện khi phi thuyền tiến nhập vào không gian vũ trụ giữa các vì sao. Chúng ta ở thời đại kính viễn vọng Hubble, thám hiểm vũ trụ, các bộ phim khoa học viễn tưởng mới có thể hiểu được nó. Ngay cả hiện tượng không phân biệt ngày đêm và la bàn không hiệu lực họ cũng biết. Làm sao có thể tưởng tượng ra tất cả chừng đó thứ nếu họ chưa bao giờ thực tế bay vào vũ trụ?

Mahabharata Sau đó khi Saubha chuyển sang chế độ tàng hình

"I quickly laid on an arrow, which killed by seeking out sound, to kill them...All the Danavas [troops in Salva's army] who had been screeching lay dead, killed by the blazing sunlike arrows that were triggered by sound."

“Ta nhanh chóng lên một mũi tên, loại tên tầm giết kẻ thù bằng cách truy tìm theo tiếng động… Tất cả bọn lính Danava đang kêu thất thanh nằm chết, bị giết bởi những mũi tên cháy sáng như ánh mặt trời”

The Ramayana As Von Daniken recounts from the original text:

When he begins his flight from the mountains, the tops of the cliffs break, the foundations of the mountains shake. Giant trees are stripped of their boughs and broken, a shower of wood and leaves falls to the ground. The mountain birds and animals flee to their hiding places.

“Khi ông bắt đầu chuyến bay từ những rặng núi, những đỉnh của các vách đá nhô ra biển vỡ ra, dãy núi chấn động. Những cây cổ thụ gãy cành và đổ, một cơn mưa gỗ và lá cây đổ xuống mặt đất. Những con chim núi và thú vật chạy tìm nơi ẩn trốn”

There is another account of such a weapon: - Mausola Purva

"Cuka, flying on board a high-powered vimana, hurled on to the triple city a single projectile charged with all the power of the universe. An incandescent column of smoke and flame, as bright as ten thousand suns, rose in all the splendor... When the vimana returned to Earth, it looked like a splendid block of antimony resting on the ground."

“Cuka, bay trong một vimana rất mạnh, phóng về phía nhóm 3 thành phố một vật đã nạp đầy sức mạnh của vũ trụ. Một cột khói và lửa, sáng chói như 10 ngàn mặt trời…Khi chiếc vimana trở về mặt Đất, nó trông như một khối antimon rực rỡ nằm trên mặt đất”.

Đọc đoạn này mấy ai trong chúng ta không liên tưởng đến sự kiện đó?

Ramayana trích dẫn bởi N.Dutt (1891):

“At Rama’s behest the magnificent chariot rose up to a mountain of cloud with a tremendous din…”

“Dưới lệnh của Rama cỗ xe lộng lẫy bay thẳng lên một ngọn núi đầy mây cùng với một tiếng động đinh tai nhức óc …”

Ramayana chương ‘Rama và Sita’

Phần chuyện về “Rama và Sita” trong Ramayana :

Hearing about the kidnapping of his lovely wife, Sita, Rama cries : “ Fly out the aerial cars at once”.

Khi nghe tin vợ, nàng Sita, bị bắt cóc, Rama hét lớn: “Các cỗ xe lên thẳng đồng loạt xuất phát ngay”



Mahabharata

"The cruel Salva had come mounted on the Saubha chariot that can go anywhere, and from it he killed many valiant Vrishni youths and evilly devastated all the city parks."

“Salva độc ác lái cỗ xe Saubha có thể đi đến bất kỳ đâu, và từ trên nó hắn giết nhiều người Vrishi trẻ tuổi can đảm và tàn phá tất cả các công viên thành phố”

Mahabharata

Trong một chương khác vũ khí đáng sợ Agneya, “một loại tên lửa không có khói” được sử dụng bởi người anh hùng Adwattan.

"Dense arrows of flame, like a great shower, issued forth upon creation, encompassing the enemy....A thick gloom swiftly settled upon the Pandava hosts. All points of the compass were lost in darkness. Fierce winds began to blow. Clouds roared upward, showering dust and gravel.

Birds croaked madly...the very elements seemed disturbed. The sun seemed to waver in the heavens. The earth shook, scorched by the terrible violent heat of this weapon. Elephants burst into flame and ran to and fro in a frenzy...over a vast area, other animals crumpled to the ground and died. From all points of the compass the arrows of flame rained continuously and fiercely."

“Những loạt tên lửa dày đặc, như một cơn mưa lớn, bắn thẳng ra phía trước, bao vây lấy kẻ thù… Một màn đêm dày đặc phủ xuống đoàn quân Pandava. Tất cả các kim la bàn mất phương hướng. Những trận gió hung dữ bắt đầu thổi. Những cuộn mây ầm ầm cuộn lên, bụi và sỏi trút xuống như mưa

Những con chim kêu rền rĩ như điên dại … Các nguyên tố căn bản (tứ đại: đất, nước, gió, lửa) dường như đảo lộn. Mặt trời dường như chập chờn rung rinh trên các thiên đường. Mặt đất rung lắc, bị thiêu cháy bởi sức nóng dữ dội của thứ vũ khí này. Những con voi bốc cháy và chạy loạn điên cuồng … trên một vùng rộng lớn, những con thú khác ngã gục xuống mặt đất và chết. Từ mọi hướng những tia lửa bắn xuống liên tục và dữ dội”



Mahabharata

"Gurkha, flying in his swift and powerful Vimana, hurled against the three cities of the Vrishnis and Andhakas a single projectile charged with all the power of the Universe. An incandescent column of smoke and flame as bright as the thousand suns rose in all its splendour... it was an unknown weapon...An iron thunderbolt, a gigantic messenger of death, which reduced to ashes the entire race of the Vrishnis and the Andhakas....The corpses were so burned as to be unrecognizable. The hair and nails fell out; pottery broke without apparent cause, and the birds turned white....After a few hours all foodstuffs were infected.... To escape from this fire, the soldiers threw themselves in streams to wash themselves and their equipment..."

“Gurkha, bay trong chiếc Vimana mạnh mẽ và tốc độ, phóng về phía 3 thành phố của người Vrishnis và Andhakas một vật đã nạp đầy sức mạnh của Vũ trụ. Một cột khói và lửa cháy nóng sáng chói như hàng ngàn mặt trời… Đó là một thứ vũ khí chưa từng được biết đến… Một tiếng sét, một sứ giả khổng lồ của cái chết, thứ mà biến toàn bộ 2 dân tộc Vrishnis và dân tộc Andhakas thành tro bụi… Những thi hài bị cháy đến mức không thể nhận dạng được. Tóc và móng tay chân bong ra; đồ gốm vỡ tan không rõ nguyên nhân, những con chim biến thành màu trắng… Sau vài giờ mọi thực phẩm đều bị nhiễm độc …Để thoát khỏi lửa, những người lính thả mình vào những dòng nước để rửa bản thân và các thiết bị của mình …”

Mahabharata, Book of Karnaparvan

"We saw something in heaven that resembled a scarlet cloud, like the gruesome flames of a burning fire. A monstrous, black Vimana emerged, shooting gaudy lightened projectiles. The noise sounded like a thousand drums beating at the same time. The Vimana approached the ground with incomparable speed and shot thousands of golden projectiles, followed with huge explosions and hundreds of fiery wheels. A terrifying panic took over."

“Chúng tôi nhìn thấy một cái gì đó trên thiên đường giống như một đám mây màu đỏ tươi, như một đám lửa cháy khủng khiếp. Một vimana khổng lồ màu đen hiện ra, bắn ra những vật sáng. Âm thanh nghe như một ngàn cái trống đánh lên cùng một lúc. Chiếc vimana bay lại gần mặt đất với một tốc độ không gì sánh nổi và bắn hàng ngàn viên đạn vàng, theo sau bởi những tiếng nổ lớn và hàng trăm bánh xe ngùn ngụt cháy. Nỗi kinh hoàng bao trùm khắp nơi”.

Mahabharata Charles Berlitz (1972) trích dẫn

"The sun looked as if it was turning in a cirle. Scorched with the blaze of the weapon, the Earth staggered from the heat. Elephants burned and ran all over ... The bluster of the fire destroyed the trees ... Horses and wagons burned, it looked like after a terrifying fire. Thousands of wagons were destroyed, then a deep stillness came over the Earth. It was a frightening view.The bodies of the fallen were mutilated from the terrfying heat that they didn't look like people anymore. Never before did we see this sort of gruesome weapon, and never before did we hear of such a weapon... It is like a blazing lightning, a gigantic messenger of death, bringing down all relatives of Vrischni and Andhaka into ashes. The dead bodies were unrecognizable. Hair and nails fell out. Pots broke for no reason, the surviving birds were white. Food turned to poison in a short time. The lightning buried it and turned it into fine dust. ... This unerring weapon will kill all unborn children... All children that were born were already dead".

“Mặt trời dường như xoay đảo. Cháy sém bởi ngọn lửa của thứ vũ khí này, mặt đất lay động bởi sức nóng. Những con voi bị thiêu đốt và chạy loạn… Ngọn lửa điên cuồng tàn phá cây cối… Ngựa và xe ngựa bốc cháy, trông như sau một trận cháy lớn. Hàng ngàn xe ngựa bị tiêu hủy, sau đó một sự tĩnh mịch bao trùm mặt đất. Đó là một cảnh tượng kinh hoàng. Những thi thể của những kẻ ngã xuống bị cắt xẻo bởi sức nóng khiến họ trông không còn giống hình người. Chưa bao giờ chúng tôi thấy loại vũ khí khủng khiếp như thế, và chưa bao giờ chúng tôi nghe nói đến loại vũ khí như thế… Nó trông như một tia chớp cháy rực, một sứ giả khổng lồ của cái chết, biến toàn bộ 2 dân tộc Vrishnis và dân tộc Andhakas thành tro bụi. Những thi hài không thể nhận dạng được. Tóc và móng tay chân bong ra. Đồ gốm vỡ tan không rõ nguyên nhân, những con chim biến thành màu trắng… Sau thời gian ngắn mọi thực phẩm đều bị nhiễm độc. Những tia chớp đã chôn vùi và biến mọi thứ thành bụi… Thứ vũ khí này sẽ giết tất cả những đứa trẻ còn trong bụng mẹ… Tất cả những đứa trẻ được sinh ra đều đã chết”.

Kết quả của sự kiện này, theo như nội dung của Mahabharata, và khẳng định của chính quyền địa phương, là 500000 người chết. Cho đến sự kiện thả bom Hiroshima và Nagasaki, loài người hiện đại không thể tưởng tượng nổi bất cứ thứ vũ khí nào khủng khiếp và có sức hủy diệt cao đến mức như mô tả trong Mahabharata Ấn Độ. Họ miêu tả rất chính xác những tác động của một vụ nổ hạt nhân. Độc phóng xạ sẽ khiến tóc và móng tay chân rơi ra... Ngâm mình trong nước là cách duy nhất để giảm bớt đau đớn, mặc dù không thể cứu chữa được.

Mahabharata

Arjuna is given a “celestial weapon” which he cannot use against humans “for it might destroy the world”, but he could use it against “any foe who is not human.”

Arjuna được nhận một “vũ khí thiên đường” thứ không thể được dùng để chống lại loài người “vì nó có thể hủy diệt thế giới”, nhưng anh có thể dùng nó để chống lại “bất kỳ thứ gì không phải là con người”

Mahabharata

“The gods, in cloud-borne chariots…bright celestial cars in concourse sailed upon the cloudless sky.” (Sitchin, 1985).

“Những vị Thần, những cỗ xe sinh ra mây … những cỗ xe lộng lẫy tụ hội trên bầu trời không mây”

Ramayana

“…when the god Rama was threatened by a ‘army of monkeys’ (men or robots?) he put a ‘magic arrow’ into action. This produces a flash of lighting ‘stronger than the heat from a hundred thousand suns’, turning everything to dust. The hair of survivors falls out, their nails disintegrate.

“Khi thần Rama bị đe dọa bởi một “đội quân khỉ” ông đưa một “mũi tên thần” vào hoạt động. Nó sinh ra một tia chớp sáng “mạnh hơn sức nóng của một ngàn mặt trời”, biến mọi thứ thành tro bụi. Tóc của những kẻ sống sót bị rụng, móng tay của chúng rữa ra”.

Mahabharata

"Bhima flew with his Vimana on a monstrous beam that had the glare of the sun, its sound like the thunder of a storm!"

“Bhima bay trên chiếc Vimana của mình trên một tia sáng khổng lồ có ánh sáng của mặt trời, âm thanh của nó nghe như tiếng sấm trong cơn bão!”

Chúng ta biết những thứ vũ khí tương tự như thế từ Sodom và Gomorrah, và từ Hiroshima và Nagasaki. Thuật ngữ “Vũ khí tối hậu” được dùng trong Mahabharata nhiều ngàn năm trước là hoàn toàn chính xác, ngay cả trong thời hiện đại ngày nay. Những từ “chariot” – “Cỗ xe bay” là cách duy nhất mà những người sống ở thời cổ có thể dùng để diễn đạt một thiết bị nhân tạo có khả năng bay lên bầu trời và không gian các vì sao. Không thể tin nổi những thứ như vậy lại có thể tìm thấy trong những cổ văn hàng ngàn năm, và chỉ có thể hình dung và thấu hiểu bởi những người hiện đại chúng ta ở nửa sau thế kỷ 20, sau sự kiện Hiroshima năm 1945 !

Những đoạn văn mà chúng ta gọi là sử thi, cổ văn của những nền văn minh cổ đại lớn như Sumer (Maya, Aztech, Babylon, …), cổ Ai Cập, cổ Trung Hoa, cổ Ấn Độ thực ra có chứa rất nhiều bí mật, và chỉ có những người ở thế giới hiện đại mới đủ khả năng hiểu được nội dung của nó một cách rõ ràng. Các văn bản xuất hiện sau này trong các tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Phật giáo nguyên thủy, rồi đến The Bible (kinh Cựu Ước) đều thực tế là vay mượn rất nhiều mẩu chuyện trong các cổ văn các nền văn minh lớn kể trên. Vì thế, đi sâu hơn, ta cũng có thể tìm thấy một số đoạn trong những văn bản tôn giáo lớn trên thế giới những ghi chép mang tính lịch sử của một thời kỳ rất xa xưa.

Các phát biểu đáng chú ý của một vài chuyên gia

“Trong nhiều loại văn bản của Châu Á và Nam Á, chúng ta tìm thấy nhiều mối liên hệ về những cỗ máy bay được và những thiết bị lên thẳng. Những chuyện kể Trung Quốc và Ấn Độ kể về những người hoặc hoặc thợ thủ công có thể chế tạo những thiết bị du hành xuyên không gian. Những câu chuyện gồm nhiều chủng loại khác nhau, với những lối diễn đạt kỳ khôi và cách điệu cao. Số khác cho thấy một bức tranh của những người phát minh chịu khổ sở khó nhọc để hiểu biết những nguyên lý của việc bay lượn, và những cỗ máy thủ công bằng gỗ để có thể đạt được mục đích này”.

“Những câu chuyện của người theo đạo Lão thường kể lại những người thông thái và những kẻ bất tử bay xuyên không gian. Xian là những người bất tử có thể bay với năng lực siêu phàm của họ…Fei tian (Phi Tiên), còn có thể gọi là “những kẻ bất tử biết bay”, cũng xuất hiện trong các chuyện kể cổ xưa, làm phong phú thêm số lượng những sinh thể biết bay trong tập văn huyền thoại của người Trung Quốc”.

“Những chuyện kể cổ xưa Trung Quốc về các fei che (phi - cơ, các cỗ xe bay được, từ này xuất hiện từ rất xa xưa trong cổ văn Trung Hoa) phô bày những hiểu biết đầu tiên, có lẽ, là những người có thể bay chỉ với một loại thiết bị kỹ thuật nào đó. Một bài thánh - ca (bài ca về các vị thánh) được viết trong thế kỷ 2 TCN nói về vị thần xuất hiện trong các cỗ xe được vẽ cạnh những con rồng”.

"In various kinds of Asian and South Asian texts, we find references to flying machines and aerial vehicles. Chinese and Indian stories tell of peoples or individual artisans who constructed devices for travelling through the air. The stories take many different forms, including quite fanciful romances. Others present a picture of inventors taking pains to understand the basic principles of flight, and crafting machines of wood to achieve this goal."

"Taoist tales often tell of adepts or immortals flying through the air. The xian were immortals capable of flight under their own divine power… The fei tian, which might be translated as 'flying immortals', also appear in early tales, adding to the numbers of airborne beings in the Chinese mythological corpus."

"The Chinese tales of fei che, flying vehicles, exhibit the first understanding, perhaps, that humans would fly only with some kind of technological apparatus. A hymn written in the second century B.C. speaks of deity appearing in chariots drawn by flying dragons."

Tiến sĩ Benjamin B. Olshin, tác giả quyển sách "Mechanical Mythology: Private Descriptions of Flying Machines as Found in Early Chinese, Korean, Indian, and Other Texts" “Huyền thoại cơ khí: Những mô tả cá nhân về những cỗ máy có thể bay được tìm thấy ở các văn bản cổ Trung Hoa, Triều Tiên, Ấn Độ, và những nơi khác”.

“Chiếc máy bay được Salva sử dụng là rất bí ẩn. Nó quá khác thường đến nỗi đôi khi nhiều máy bay xuất hiện trên bầu trời, và đôi khi dường như chỉ có một. Thỉnh thoảng máy bay là trông thấy được và đôi khi lại tàng hình, và những chiến binh của triều đại Yadu bị đánh đố về vị trí của cái máy bay kỳ dị này. Thỉnh thoảng họ có thể thấy nó trên mặt đất, thỉnh thoảng thấy đang bay trên trời, thỉnh thoảng nằm trên đỉnh đồi và thỉnh thoảng trôi theo dòng nước. Cỗ máy kỳ diệu này bay trên trời nhanh như một cơn lốc có đuôi lửa”.

"The airplane occupied by Salva was very mysterious. It was so extraordinary that sometimes many airplanes would appear to be in the sky, and sometimes there were apparently none. Sometimes the plane was visible and sometimes not visible, and the warriors of the Yadu dynasty were puzzled about the whereabouts of the peculiar airplane. Sometimes they would see the airplane on the ground, sometimes flying in the sky, sometimes resting on the peak of a hill and sometimes floating on the water. The wonderful airplane flew in the sky like a whirling firebrand."

Bhaktivedanta, Swami Prabhupada, Krisna (Swami là những bậc Thầy được tôn thờ ở Ấn Độ)

“Theo các văn bản Ấn Độ cổ xưa, những người có những cỗ máy được gọi là các “Vimana”. Cổ văn Ấn Độ mô tả một vimana như một cỗ máy bay hình tròn, có 2 tầng với các cửa sổ ở thành tàu và một mái vòm, rất giống với thứ mà ta tưởng tượng như là một đĩa bay ... Có ít nhất 4 loại Vimana khác nhau; một số hình đĩa, số khác trông giống như những cái ống hình trụ tròn dài (“tàu hình điếu xì gà”).

“Vedas, những bài thơ cổ đại Hindu, được cho là cổ nhất trong những văn bản Ấn Độ cổ, miêu tả Vimana trong nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau: 'ahnihotra-vimana' với 2 động cơ, 'elephant-vimana' với nhiều động cơ, và nhiều loại khác được đặt tên ghép với các động vật như là chim bói cá, cò quăm, vv…”

"According to ancient Indian texts, the people had flying machines which were called 'vimanas'. The ancient Indian epic describes a vimana as a double- deck, circular aircraft with portholes and a dome, much as we would imagine a flying saucer… There were at least four different types of vimanas; some saucer shaped, others like long cylinders ('cigar shaped airships')."

"The Vedas, ancient Hindu poems, thought to be the oldest of all the Indian texts, describe vimanas of various shapes and sizes: the 'ahnihotra-vimana' with two engines, the 'elephant-vimana' with more engines, and other types named after the kingfisher, ibis and other animals."

D. Hatcher Childress, "Ancient Indian Aircraft Technology"

“Dường như Mahabharata đang mô tả một cuộc chiến hạt nhân! Các tham chiếu như thế này không được cách ly ra; nhưng những trận chiến, dùng một mảng chủng loại vũ khí và các cỗ xe lên thẳng kỳ lạ là phổ biến trong tất cả các sách cổ văn Ấn Độ. Một trong số chúng thậm chí còn mô tả một Vimana vs Vailix đánh nhau trên mặt trăng! Phần trên mô tả rất chính xác một vụ nổ hạt nhân trông như thế nào và những tác động phóng xạ của chúng lên dân cư. Nhảy vào nước là cách duy nhất để làm đỡ thương tích tạm thời.

“Khi thành phố Rishi của Mohenjodaro được khai quật bởi các nhà khảo cổ vào cuối thế kỷ 20, họ đã phát hiện những bộ xương nằm ngay trên con đường, một số trong số họ đang nắm tay nhau, như thể một cái chết bất ngờ phủ chụp lấy họ. Những bộ xương này nằm trong số những bộ xương bị nhiễm phóng xạ cao nhất được tìm thấy, ngang với mức của những bộ xương tìm thấy tại Hiroshima và Nagasaki”.

“Hơn nữa, tại Mohenjo-Daro, một thành phố được quy hoạch tốt trên những lưới ô, với một hệ thống thủy lợi cao cấp hơn cả Pakistan và Ấn Độ ngày nay, những con đường bị rải đầy những “cục thủy tinh màu đen”. Những miếng thủy tinh này được khám phá ra là những bình gốm đã bị nóng chảy dưới tác động của nhiệt độ cao đột ngột! (thời gian tương tác ngắn)”.

"It would seem that The Mahabharata is describing an atomic war! References like this one are not isolated; but battles, using a fantastic array of weapons and aerial vehicles are common in all the epic Indian books. One even describes a vimana-Vailix battle on the Moon! The above section very accurately describes what an atomic explosion would look like and the effects of the radioactivity on the population. Jumping into water is the only respite.

"When the Rishi City of Mohenjodaro was excavated by archaeologists in the last century, they found skeletons just lying in the streets, some of them holding hands, as if some great doom had suddenly overtaken them. These skeletons are among the most radioactive ever found, on a par with those found at Hiroshima and Nagasaki."

"Futhermore, at Mohenjo-Daro, a well planned city laid on a grid, with a plumbing system superior to those used in Pakistan and India today, the streets were littered with 'black lumps of glass'. These globs of glass were discovered to be clay pots that had melted under intense heat! "

D. Hatcher Childress, "Ancient Indian Aircraft Technology"


Trong các cổ văn khác

Trong những nguồn của khu vực Lưỡng Hà (Mesopotamian sources), quyển cổ văn “The Hakatha” (Luật lệ của người Babylon) đã phát biểu rất lạ như thế này:

“Đặc quyền được vận hành một thiết bị bay là rất cao. Kiến thức bay lượn là nằm trong những tài sản thừa kế cổ xưa nhất của chúng ta. Một món quà từ “những ai kia từ phía trên cao”. Chúng ta nhận nó từ họ để làm phương tiện cứu sống nhiều sinh mạng”.

"The privilege of operating a flying machine is great. The knowledge of flight is among the most ancient of our inheritances. A gift from 'those from upon high'. We received it from them as a means of saving many lives."

Những tham chiếu trong kinh Cựu Ước về chiến tranh:

Sự phá hủy Sodom và Gomorrah The destruction of Sodom and Gomorrah: 

“Abraham nhìn về Sodom và Gomorrah… và ông để ý thấy một đám khói bay lên từ mặt đất, như khói trong lò”. Gen 18:27.

“Và Ngài ném sấm sét và mưa đá, và lửa lan nhanh trên mặt đất, và Ngài rải mưa đá chụp lên vùng đất của người Ai Cập”. Exodus 9:23

“Và nó chạy ra, như chúng đào tẩu từ Israel xưa, và trong lúc chạy về Bethhoron, Ngài giáng những tảng đá lớn từ thiên đường chụp lên chúng đến Azekah, và chúng chết: chúng chết vì mưa đá nhiều hơn những đứa trẻ Israel bị giết bởi gươm dao”. Joshua 10:11

“Và ngọn lửa của Ngài đổ xuống từ thiên đường, và đốt cháy hắn cùng 50 người của hắn”. 2 Kings 1:12

“Ngươi sẽ làm chúng như những ngọn lửa cháy ngùn ngụt trong lò trong thời gian của nỗi tức giận của ngươi: Ngài sẽ nuốt chửng chúng trong nỗi tức giận của ngài, và ngọn lửa sẽ ngấu nghiến chúng”. Psalms 21:9

“Một ngọn lửa cháy trước mặt anh ta, và thiêu cháy những kẻ thù của anh xung quanh”. Psalms 97:3

“Ngươi sẽ được viếng thăm bởi Ngài với rất nhiều sấm sét, và với động đất, và những tiếng động lớn, với bão táp và giông tố, và ngọn lửa phừng phừng”. Isaiah 29:6

“…Xuất hiện một cỗ xe lửa bay, và những con ngựa lửa, và chia cách 2 đứa chúng rời ra; và Elijah bay lên bởi một cơn lốc vào trong thiên đường”. 2 Kings 2:11

“Và Jehovah đang đi trước họ vào ban ngày trong một cái gối bằng mây, để dẫn đường cho họ, và vào ban đêm, để cho họ ánh sáng, để đi vào ban ngày và ban đêm…” Exo 13:21

Yahweh đặt chân lên Mt Sinai. “…Và vào ngày thứ 3, đang là buổi sáng, điều đó xảy ra. Có những tiếng sấm và những tia chớp, và một đám mây nặng nề trên ngọn núi, và âm thanh của tiếng còi tàu, rất mạnh! Và tất cả mọi người của trại run sợ… và ngọn núi của Sinai bốc khói, tất cả, bởi Jehovah giáng hạ xuống trong lửa. Và ngọn lửa của nó bốc lên như đám khói lò; và ngọn núi chấn động dữ dội…”. Exodus 19:16-18

“Và thần thánh nhấc bổng ta lên, và ta nghe phía sau âm thanh của một tiếng nói xáo động, Thiêng liêng thay hào quang của Jehovah từ nơi của ngài; và âm thanh của những đôi cánh của những sinh vật sống động đang chạm nhau; và âm thanh của những chiếc bánh xe cùng với chúng; và âm thanh của một sự náo động…”. Ezekiel 3:12

Jehovah giáng hạ trên những vùng cao với một sức nóng lớn: “Hãy chú ý, Jehovah đang ra khỏi nơi của Ngài, và những thung lũng sẽ tia tách chúng ra như sáp ong trước ngọn lửa, như dòng nước chảy lên những bậc tam cấp…”. Micah 1:3-4

“…(Abraham) looked toward Sodom and Gomorrah…and he beheld and saw a smoke rising from the earth, as the smoke of a furnace.” - Gen 18:27.

“…and the Lord sent thunder and hail, and the fire ran along upon the ground; and the Lord rained hail upon the land of Egypt.” – Exodus 9:23

“And it came to pass, as they fled from before Israel, and were in the going down to Bethhoron, that the Lord cast down great stones from heaven upon them unto Azekah, and they died: they were more which died with hailstones than they whom the children of Israel slew with the sword.” – Joshua 10:11

“And the fire of God came down from heaven, and consumed him and his fifty.” – 2 Kings 1:12

-“Thou shalt make them as a fiery oven in the time of thine anger: the Lord shall swallow them up in his wrath, and the fire shall devour them.” – Psalms 21:9

“A fire goeth before him, and burneth up his enemies round about.” – Psalms 97:3
“Thou shalt be visited of the Lord of hosts with thunder, and with earthquake, and great noise, with storm and tempest, and the flame of devouring fire.” – Isaiah 29:6

- “…there appeared a chariot of fire, and horses of fire, and parted them both asunder; and Elijah went up by a whirlwind into heaven.” (2 Kings 2:11).

- “And Jehovah was going before them by day in a pillar of cloud, to lead them in the way, and by night in a pillar of fire, to give light to them, to go by day and by night…” (Exo 13:21).

- Yahweh lands on Mt Sinai. “…And on the third day, it being morning, it happened. There were thunders and lightnings, and a heavy cloud upon the mountain, and the sound of a ram’s horn, very strong! And all the people of the camp trembled…And mountain of Sinai was smoking, all of it, because Jehovah came down on it in fire. And it’s smoke went up like the smoke of a furnace; and the mountain quaked exceedingly…” (Exodus 19:16-18).

- “…And the spirit lifted me up, and I heard behind me the sound of a great tumult, saying, Blessed be the glory of Jehovah from his place; and the sound of the wings of the living creatures touching each other to the other; and the sound of the wheels along with them; and the sound of a great tumult…” (Ezekiel 3:12).

- Jehovah comes down on the high places with a great heat: “For behold, Jehovah is coming out of his place, and will come down and walk on the high places of the earth. And the mountains shall melt under him, and the valleys shall cleave themselves as wax before the fire, as waters poured out on a steep place…” (Micah 1:3-4).

Từ một trong những cuốn sách cổ xưa nhất của Ấn Độ: “Quyển sách của Dzyan”

“Sự chia cắt không đem lại hòa bình đến những người này và cuối cùng sự giận dữ của họ lên đến mức mà người chủ cũ của thành phố đem theo một toán chiến binh nhỏ và tiến vào không gian trong một cái thuyền sắt chiếu sáng. Khi họ đang ở nhiều lý (lý=4km) cách xa thành phố của kẻ thù, họ tiến vào một cây gậy dài khổng lồ sáng rực bay trên một chùm ánh sáng. Nó làm nổ tung một góc thành phố kẻ thù của họ với một quả cầu lửa lớn bắn tung lên đến tận trời, hầu như đến cả các ngôi sao. Tất cả những kẻ đang ở trong thành phố kinh hoàng bị đốt cháy và ngay cả những kẻ không ở trong thành phố - nhưng ở gần đó – cũng bị thiêu đốt. Những kẻ nhìn vào cây gậy và quả cầu lửa đều bị mù mắt vĩnh viễn sau đó. Những ai tiến vào thành phố trên chân trần trở nên yếu dần và chết. Ngay cả tro bụi của thành phố cũng bị nhiễm độc, cũng như những dòng sông chảy qua nó. Người ta không dám ở gần nó, và nó dần dần sụp đổ thành cát bụi và bị người ta lãng quên. Khi người chỉ huy nhìn thấy điều mà ông đã làm với những người dân của chính mình ông ẩn dật trong cung điện của mình và từ chối gặp mặt bất kỳ ai. Rồi sau đó ông tập hợp những chiến binh còn lại xung quanh, cùng vợ con của họ, tiến nhập vào những chiếc thuyền sắt của họ và đưa từng cái một vào không gian và lái đi. Họ không bao giờ quay lại nữa”.

"Separation did not bring peace to these people and finally their anger reached a point where the ruler of the original city took with him a small number of his warriors and they rose into the air in a huge shining metal vessel. While they were many leagues from the city of their enemies, they launched a great shining lance that rode on a beam of light. It burst apart in the city of their enemies with a great ball of flame that shot up to the heavens, almost to the stars. All those who were in the city were horribly burned and even those who were not in the city - but nearby - were burned also. Those who looked upon the lance and the ball of fire were blinded forever afterward. Those who entered the city on foot became ill and died. Even the dust of the city was poisoned, as were the rivers that flowed through it. Men dared not go near it, and it gradually crumbled into dust and was forgotten by men. When the leader saw what he had done to his own people he retired to his palace and refused to see anyone. Then he gathered about him those warriors who remained, and their wives and children, and they entered their vessels and rose one by one into the sky and sailed away. Nor did they return."

Đoạn trích trong cổ văn Veda đề cập đến trình độ khoa học của họ (Yajur-veda 10.19)

“Ồ! Những kỹ sư lành nghề của hoàng gia, chế tạo những con tàu biển, chạy trên nước bởi các chuyên gia của chúng ta, và những cỗ máy biết bay, di chuyển và bay lên trên, sau những đám mây mà trú ngụ ở giữa, mà bay như những con tàu đi trên biển, bay cao trên và thấp dưới những đám mây đầy nước. Ngươi, vì thế, thuận lợi ở trong thế giới này mà vốn được tạo ra bởi vị Thần có mặt khắp nơi, và là người phi công trong cả không khí và tia chớp”.

“O! royal skilled engineer, construct sea-boats, propelled on water by our experts, and airplanes, moving and flying upward, after the clouds that reside in the mid-region, that fly as the boats move on the sea, that fly high over and below the watery clouds. Be thou, thereby, prosperous in this world created by the Omnipresent God, and flier in both air and lightning”.

Đoạn trích này thậm chí còn gây sốc hơn: (Atharva-veda 20.41.1-3).

“Năng lượng phân đôi nguyên tử 99 nguyên tố, (bao phủ con đường của nó) sinh ra bởi sự bắn phá của các nơtrôn mà không bị thất thoát hay cản trở. Desirous of stalking the head, ie. Thành phần chủ yếu của năng lượng nhanh, ẩn tàng trong khối lượng nguyên tử các điều chỉnh của các nguyên tố, năng lượng nguyên tử đó đạt được trong sự phân đôi nó bởi những bắn phá đã nêu trên. Ở đây, những nhà khoa học biết những sức mạnh ẩn tàng tương tự của những tia mặt trời tác động lên quỹ đạo của mặt trăng”.

“The atomic energy fissions the ninety-nine elements, covering its path by the bombardments of neutrons without let or hindrance. Desirous of stalking the head, ie. The chief part of the swift power, hidden in the mass of molecular adjustments of the elements, this atomic energy approaches it in the very act of fissioning it by the above-noted bombardment. Herein, verily the scientists know the similar hidden striking force of the rays of the sun working in the orbit of the moon”.

Nên nhớ những cổ văn Veda này có nhiều ngàn năm tuổi! Mặc dù cổ văn rất khó dịch sát nghĩa nhưng những người thế kỷ 21 chúng ta cũng thấy được người xưa muốn đề cập đến cái gì. Và cũng chỉ có những người hiện đại mới có thể hiểu được thôi!

Rig-Veda (Vata là vị Thần gió của người Aryan)

“Giờ đây chiếc xe bay của Vata cao quý! Nó đi cắt dọc đường đi, và tiếng động của nó như sấm nổ, nó chạm đến trời, làm ra ánh sáng khủng khiếp, và cuốn bụi khắp mặt đất”.

“Now Vata's chariot's greatness! Breaking goes it, And Thunderous is its noise, To heaven it touches, Makes light lurid [a red fiery glare], and whirls dust upon the earth”.

Trong một giai thoại cổ xưa của người Sumer về Nergal and Ereshkigal (Pritchard, 1975), có những đoạn nói rằng có những thời kỳ những vị Thần đã không thể du hành từ nơi này đến nơi khác. Dường như ở đây còn có hiện tượng khác biệt thời gian, tính tương đối của thời gian !

Anu nói với Kaka:

Ta sẽ gửi ngươi, Kaka, đến Vùng đất không thể quay về, đến Ereshkigal… “Ngươi không thể tiến lên, trong năm của ngươi ngươi không thể bay đến nơi của chúng ta, và chúng ta không thể đi xuống, trong tháng của chúng ta chúng ta không thể đến được nơi của ngươi…”.

Anu opened his mouth to say to Kaka:

I will send thee, Kaka, to the Land of no Return, To Ereshkigal… "Thou art not able to come up, In thy year thou canst not ascend to our presence, And we cannot go down, In our month we cannot descend to thy presence…"

Mahavira of Bhavabhuti, một cổ văn được tạo ra vào thế kỷ thứ 8 bằng cách chọn lọc những văn bản và chuyện kể cổ xưa hơn, tập hợp lại.

“Một cỗ xe lên thẳng, Pushpaka, chở nhiều người đến thủ đô của Ayodhya. Bầu trời đầy những cỗ xe bay khổng lồ kỳ lạ, ban đêm, nhưng được thắp sáng bởi những ánh sáng vàng nhạt chói lòa”.

“An aerial chariot, the, conveys many people to the capital of. The sky is full of stupendous flying-machines, dark as night,but picked out by lights with a yellowish glare.”



During the first Egyptian “pyramid war”, between Horus and Seth, Horus strikes: “…(and he) let loose against them a storm which they could neither see with their eyes, nor hear with their ears. It brought death to all of them in a single moment…” (Sitchin, 1985)

Zeus battles the Titans: “The hot vapor lapped around the Titans, of Gaea born, flame unspeakable rose bright to the upper air. The Flashing glare of the Thunder-Stone, its lightning, blinded their eyes-so strong it was. Astounding heat seized Chaos…It seemed as if Earth and wide Heaven above had come together, a mighty crash, as though Earth was hurled to ruin. Also were the winds brought rumbling, earthquake and dust storm, thunder and lightning.” (Sitchin, 1985). I would guess that this was a large nuclear weapon which was detonated on or close to the ground, thus producing a large mushroom cloud.

Zeus conquering Thyphon: “A flame shot forth from the stricken lord in the dim, rugged, secluded valley of the Mount, when he was smitten. A great part of huge earth was scorched by the terrible vapor, melting as tin melts when heated by man’s art…in the glow of a blazing fire did the earth melt down.” (Sitchin, 1985).


tải về 385.33 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương