Cao Hữu Đính o0o Nguồn



tải về 1.51 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.51 Mb.
#37987
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Phần 1

1. Lời giới thiệu


2. Thuật ngữ Phật giáo
3. Pháp
4. Pháp Phật
5. Cốt lõi của Pháp Phật
6. Tứ Ðế
7. Ngũ Uẩn (cơ sở của tâm lí học Phật giáo)
8. Ngũ Uẩn
9. Tương quan giưã Tứ Thiền và Ngũ Uẩn
10. Tứ niệm xứ

THUẬT NGỮ PHẬT GIÁO

Ðịnh nghĩa của chữ Pháp (Dharma)


Nghĩa căn bản: Nhiệm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải.
Nhiệm trì: gánh vác công việc, nắm giữ.
Tự tánh: tánh riêng của nó (mà cái khác không có)
Quỹ: pháp thức nhất định, quy tắc nhất định
Sinh: khiến phát sinh ra.
Giải: cởi ra, gỡ ra. (Như: giải y: cởi áo)
Vật giải: sự và vật tự lột xác ra, khiến giác quan ta biết ngay tức khắc chúng là gì.
Trong thế gian, vật nào nắm giữ tự tánh của vật nấy (không lẫn lộn được), quy tắc nhất định của từng tự tánh một, khiến sự vật tự phơi bày ra (s’explique) trước giác quan của chúng ta.
Quy tắc riêng của từng tự tánh một, gọi làDharma (pháp). Sự vật nào có Pháp của sự vật ấy. Nhưng pháp không phải sự vật, mà rời sự vật ra cũng không có pháp.
1. Từ hơn một ngàn năm trước Phật, chữ Dharma được các cổ đức Ấn độ dùng để chỉ các quy luật đạo đức (Losmorale) mà họ tin rằng không bao giờ thay đổi.
Kịp đến khi Phật ra đời, sau khi ngộ đạo chữ Dharma được Ngài dùng để chỉ riêng những qui luật chi phối và điều hành toàn bộ cuộc sống con người, Vì theo Ngài, chỉ những quy luật này mới miên trường, không bao giờ thay đổi bản chất. Ngày nào nhân loại còn tồn tại là còn bị quy luật đó chi phối và điều hành. Vì vậy cho nên, mặc dù Dharma được Trung Hoa dịch là Pháp, nhưng Phật giá Pháp dịch là Lời, nói:Dharma là Lời universelle.
Lại cần phải lưu ý điều này nữa: cái Dharma mà Phật gạy để tu là cái Dharma tự thân (Dharma en soi) . Ðệ tử phải trực nhập để trực ngộ cái “Dharma en soi” đó như chính Phật đã trực ngộ torng đêm thành đạo, chứ không phải là cái Dharma được Ngài phát biểu qua phương tiện của ngôn từ. Dharma trong ngôn từ chỉ gọi lên được một khái niệm méo mó và hư huyễn của “Dharma en soi”. Nội dung của Dharma đó Phật phát kiến là như vậy đó. Dharma là cái “vô cùng”, duy chứng tương ưng. Nhưng khi đem ra truyền rao, Ngài phải dùng ngôn từ “hữu hạn” để diễn tả nó một cách tương đối mà thôi. Rồi cũng do đó mà cái Dharma trong ngôn từ (tức lời Phật dạy), nói rộng ra cũng được miễn cưỡng gọi là Dharma: Pháp.
Trên bình diện thông tục, tất cả lời Phật dạy được gọi chung là Pháp (Dharma). Lời Phật dạy, về sau được các Thánh đệ tử sắp xếp lại trong hai tạng: Kinh (Sutra) và Luật (Vinaya). Vì vậy kinh và Luật được gọi chung là Pháp, theo nghĩa rộng của chữ này. Còn theo nghĩa hẹp thì chỉ tạng Kinh mới được gọi là Pháp (Pháp Bảo). Cho nên trong văn học Phật giáo, khi nào nói giáo pháp, tức chỉ cho enseignement và discipline của Phật dạy. Và chỉ có Phật mà thôi, còn các doctrine, các theorie do các trường phái khai triển về sau thì gọi là giáo nghĩa (nghĩa lý của giáo pháp Phật)
2. Như trên là nghĩa gốc (original) và nghĩa rộng (par extension) của chữ Pháp. Cũng từ nghĩa gốc mà áp dụng vào sự vật giữa thế gian, lại bao gồm theo nhiều nghĩa khác nữa. Trong thế gian, mọi sự vật đều có tự tánh (hay đặc tánh) riêng và các quy luật của từng đặc tánh một, nhờ đó mà sự vật hiện ra muôn ngàn sai khác, và đập vào giác quan ta, khiến ta phân biệt được ngay tức khắc, sự vật đó là sự vật gì. Cái mà ta phân biệt, không phải là tự thể của sự vật, mà là cái “pháp” gắn liền với tự thể của sự vật chung. Như khi ta thấy lửa, đối tượng bị thấy không phải lửa tự thân, mà là pháp của lửa. Cái ta biết là “pháp” gắn liền trong sắc, thanh, hương, vị, xúc chứ không phải các sự vật trong sáu trần. Ở đây, pháp cũng chỉ cho cái “tự tánh với những quy luật của tự tánh”, gắn liền cới từng sự vật một. Rồi cũng mở rộng (par ectension) theo nghĩa thông tục, Pháp cũng chỉ cho sự vật, như trong “chư pháp”
3. Chữ “pháp” lại có nghĩa là phép tu. Ðặc biệt là các phép tu theo nghĩa Phật dạy, như 37 phẩm trợ đạo, các phép tu thiền. Ðây là nghĩa chữ pháp trong “quán pháp”, “pháp môn”, “pháp pháp tương y”... và lại cũng theo các nghĩa gốc, là phép tu nào cũng có quy luật riêng của phép tu ấy.
Nói một cách tổng quát, trong Phật giáo, chữ pháp được dùng trong nhiều nghĩa rất khác nhau. Nhưng dù với nghĩa nào đi nữa, thì cũng không rời các nghĩa căn bản là “nhiệm trì tự tánh”, và quy luật của từng tự tánh sai khác nhau đó, giúp ta nhận diện được đối tượng.
Trên bình diện thông tục, pháp có ba nghĩa lớn:
a) Pháp: lời Phật dạy.
b) Pháp: đối tượng nhận thức của sáu giác quan và tự thân của các đối tượng ấy.
c) Pháp: các phép tu.
Vậy khi đọc kinh văn Phật giáo, ta phải tuỳ theo nội dung (contexte) mà xác định nghĩa trong từng trường hợp một.

PHÁP (DHARME)


Trong thuật ngữ Phật giáo, không có thuật ngữ nào rắc rối bằng thuật ngữ “pháp”. Cũng không có thuật ngữ nào nhiều nghĩa sai khác như thuật ngữ này.
Trước hết, lời Phật dạy gọi là Pháp: Phật pháp. Kinh và Luật do Phật nói ta, góp chung lại gọi là Pháp. Cho đến khi hai Tạng này được tách riêng ra để hợp chung với Tạng A Tỳ Ðàm của các thánh đệ tử về sau triển khai lời kinh thì gọi là giáo nghĩa. Giáo nghĩa tức chủ thuyết hay học thuyết của từng trường phái một, kể cả giáo nghĩa của các trường phái Ðại thừa, gom chung thành tạng Luận.
Lại nữa, những thuộc tánh riêng biệt của sự vật trong thế gian cũng gọi là pháp; lại vì nhờ các thuộc tánh đặc thù đó, giác quan ta mới phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Ðối tượng nhận thức của ta không phải là sự vật cụ thể mà là thuộc tánh trừu tượng của sự vật (tức Pháp), cho nên nói “vạn pháp duy thức”. Như vậy pháp của sự vật rõ ràng không phải là sự vật. Nhưng, về mặt thông tục, pháp cũng được dùng để chỉ các sự vật đang mang trong mình cái pháp đó. Và sự vật gọi chung là chư pháp (các Pháp). Thật là rắc rối! Nhưng chưa hết đâu!
Pháp còn chia ra pháp hữu vi, pháp vô vi... khiến người học có được một ý niệm chính xác về nghĩa của chư pháp trong từng hợp một. Ðể tháo gỡ các mớ bòng bong này, ta hãy trở về vói nghĩa gốc của chữ Pháp, của định nghĩa đã được đúc kết trong tám chữ là: “nhiệm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải”.
Nhiệm trì nghĩa là có nhiệm vụ nắm giữ. Tự tánh nghĩa là tánh riêng cố định của từng sự vật. Quỹ nghĩa là khuôn mẫu phép tắc quy định từng tự tánh một. Sinh vật giải nghĩa là khiến sự vật tự cởi mở ta, tự lột xác ra, tự phơi bày ra và nhờ đó mà ta biết ngay đó là sự vật gì. Như vậy: “nhiệm trì tự tánh quỹ sinh vật giải” : Pháp là cái nắm giữ tánh riêng cố định trong từng sự vật, và chính nhờ khuôn phép của từng tánh riêng đó tự phơi bày ra mà ta biết ngay sự vật đang đập vào giác quan ta là sự vật gì. Nói đơn giản theo ngôn ngữ ngày nay thì pháp gắn tương đương với cái mà ngày nay ta gọi là thuộc tánh của sự vật. Sự vật nào trong thế gian cũng có một số đặc tánh cố định gắn liền với nó, nhờ đó mà ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác.
Ðem định nghĩa cơ bản của “pháp” nói trên đây mà rơi vào các cách dùng của chũ Pháp trong mọi trường hợp thì nghĩa thật của nó hiện ra ngay.
Trước hết, Pháp (trong Phật pháp) chỉ những quy tắc cố định miên viễn chứa đựng trong lời Phật dạy. Do đó, lời Phật chứa đựng các quy tắc khách quan và cố định ấy (hoàn toàn không dính dấp gì đến thần quyền) cũng gọi là pháp. Rồi cũng vì vậy mà kinh điển ghi chép lời Phật được gọi là Pháp bảo. Thuộc tánh đặc thù của từng sự vật, cũng vì tính chất cố định của nó, mà được gọi là Pháp. Mãi rồi, trên tiến trình thông tục hóa, pháp được đồng hóa với chính sự vật và sự sự vật vật trong thế gian được gọi chung một cách không chính xác là chư pháp (các pháp). Rõ ràng ý niệm chung của chữ pháp, trong bất cứ cách dùng nào đều chứa đựng cái nội dung “cố định” ngàn đời không đổi thay.
Trở lại với chữ pháp trong Phật pháp. Sở dĩ những gì Phật truyền dạy cho chúng thánh đệ tử được gọi là pháp, là vì cái điều đó gồm toàn bộ quy luật khác quan, ngàn đời không đổi, trực tiếp chi phối và điều hành sinh hoạt nội tâm của con người và môi trường sinh hoạt ngoại tại của nó. Quy luật khách quan bất di bất dịch đó là quy luật duyên khởi, được Phật trình bày qua hai tiến trình nhân quã, diễn biến khắp trên hàng ngang (trục hoành) và tiếp nối nhau theo hàng dọc (trục tung).
Duyên khởi nhân quả hàng ngang, được cô đúc trong định thức này là nhân quả đồng thời” Dĩ thử sinh cố, bĩ sinh; dĩ thử diệt cố, bỉ diệt, dĩ thử hữ cố bĩ vô”. Sỡ dỉ có tương quan nhân quả đồng thởi này là vì không một sự vật nào trong thế gian đứng riêng lẽ ra mà tự hiện hưũ được. Chúng duyên nhau mà có simh khởi.
Duyên khởi nhân quả của hàng dọc, được cô đúc trong định thức” 12 nhân duyên”.
Nhân quả trong định thức này là nhân quả dị thời: “ Tiền nhân khởo sinh hậu quả, không có quả nào không có nhân sinh ra trước”. Trong diễn biến của nhân quả dị thời, có thể có nhân mà không có quả, vì quả sau đã bị một nhân khác mạnh hơn vô hiệu hóa. Nhưng ngược lại nhân đã hiện ra quả thì nhật định quả đó phải lưư xuất từ cái nhân có trước đó. Nhân vô thuỷ, nhưng quả thì có thể hưũ chung.
Hai định luật duyên khởi này hổ trợ cho nhau, bổ túc nhau, triển khai thành toàn bộ giáo Pháp Phật, cả về mặt nhân sinh quan lẫn vũ trụ quan Phật giáo. Về sau, các trường phái tiểu thừa và Ðại thừa lại càng mở rộng ra thêm nữa, mà tựu thành gíao nghĩa của từng trường phái một. Nhưng cho dù giáo nghiã của các trường phái có đa dạng đến đâu, nhưng cũng không đi lệch ra ngoài hai hướng chính cửa hai định luật: Duyên khởi hàng ngang và hàng dọc này. Hai hướng chính đó tạo thành hai hệ thống của Pháp Phật là: Pháp tánh và Pháp tướng. Pháp tánh nghiêng về nghĩa “ không” là bắt gốc từ Tứ đế Pháp tướng thiên về “ Hữu” là bắt nguồn từ 12 nhân duyên. Pháp tánh chuyên thuyết minh chân lý, cả tục lẫn chân. Pháp tướng chuyên thuyết minh tâm lý học, từ cạn đến sâu.
Tổng hợp pháp tánh và pháp tướng, khiến tướng và tánh dung thông nhau, như trong hệ thống “ bìng thông nhau”, đó là Pháp chân chính, đích thực của Phật vậy.

PHÁP( Dharma) và PHẬT( Bouddha) từ Nguyên thuỷ đến Ðại thừa:

Cái mà Ðức Cù Ðàm phát kiến trong đêm Thành đạo được gọi là Pháp ( dharma). Pháp là những quy luật khách quan, ngàn đời không đổi, chi phối toàn bộ nhân sinh và vũ trụ.


Pháp đó đơợc Phật nói cho Ðệ từ Thanh Văn nghe, và về sau được ghi chép đầy đủ trong các văn bản A Hàm, dặc biệt là trong Trung A Hàm. Phương pháp áp dụng để thực hiện hóaPháp thì được ghi chép trong tạp A Hàm. Ðây là gia tài chung của toàn thể Phật Giáo đồ, Tiểu cũng như Ðại. Ðức Cù Hàm nhờ phát kiến được Pháp mà thành Phật. Phật không sinh ra Pháp mà chính Pháp sinh ra Phật. Phật không là cái gì hếtn nếu trong Phật không có Pháp thắp sáng.
Vì Pháp quan trọng như vậy, cho nên về sau, khi các trường phái khai triển khai pháp, để biết rõ cái thực chất của pháp là gì, họ đi tìm cái tinh yếu của Pháp, mệnh danh là Pháp tánh( dharma). Tất cả các Pháp trong pháp giới đều có chung một pháp tánh ấy. Rồi từ tinh yếu của Phật , mệnh danh là Phật tánh ( Bouddhata). Và vì Phật đồng nhất với Pháp, cho nên hóa ra pháp tánh cũng tức là Phật tánh mà thôi. Có khác nhau chăng, là chỉ ở một điểm: trong loại vô tình thì gọi là pháp tánh, còn ở trong loại hữu tính thì gọi là Phật tánh.
Ðại thừa ra đời nhằm lúc khái niệm pháp tánh đã được các trường phái trước đó triển khai khá tinh tường rồi, cho nên họ chỉ tiếp tục bằng cách len sâu thẳm vào Phật tánh. Bắt đầu là với kinh văn Bát Nhã, để đi đến chung kết là với kinh văn Pháp hoa bằng lời khẳng định dứt khoát: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”. Giáo nghiã Phật tánh đến đây hoàn toàn viên mãn. Và rồi cũng từ đây, Ðại thừa không còn đặc nặng trọng tâm của Phật giaó vào một độc tôn là cái cá thể của đức Cù Ðàm như trước nữa Một Ðức Phật phỏ quát (Bouđha –universel) được thya thế vào .Bởi lẽ tất cả chúng sinh đều có Phật tách,thì ai cũng có khả năng thành Phật hết:hoặc đang thành,hoặc sẽ thành.Như vậy,”Nhất Phật” chuyển thành “Ða Phật”(nên bbiết thêm rằng ,chính trong A Hàm,Ðức Cu Ðàm cũng đã nói lịch sử 7 đức Phật quá khứ ra đời trước ngài).
Trên căn bản đa Phật quan, thay thế chổ độc Phật quan, Ðại thừa mở ra một chân trời sáng láng cho sự phát huy của Phật giáo bành trướng ngoạn mục qua các nước Ðông phương và hứa hẹn một tiến trình tốt đẹp hơn nữa đối với nhiều dân tộc khác trong tương lai xa. Trong một nhân loại đầy đau khổ, có gì khích lệ cho con người bằng cái thông diệp nhắc đi nhắc lại cho con người nhớ rằng nó có Phật tánh và có khả năng thành Phật một ngày nào đó. Trên đây là lý do sao đạo Phật với Dức Phật độc tôn đã suy tàn ở chính ngay trên quê hương Aán Ðộ, nhưng lại bành trướng ngoạn mục đích ở những phần đất ăn gởi nằm nhờ ở bên ngoài quê hương. Phật tánh quả là liều thuốc bổ cực mạnh đối với nhân loại chìm đắm trong khổ đau. Sức mạnh của Phật tánh tưởng e còn mãnh liệt hơn sức mạnh của “miến cơm manh áo” hứa hẹn sẽ được chia sẻ đồng dều cho một thiên đường trần gian!.
Tất cả những nhận xét trên đây cho ta thấy rằng, trên căn bản, Ðại thừa không hề đi lệch ra khỏi đường đi nguyên thủy. Ðại thừa chỉ tăng sâu cho nguyên thủy, khiến Dharma của Phật trờ thành vô cùng nhân bản, không một đạo nào sánh kịp. Những ai nghiên cứu Ðại thừa đừng nên quên điều đó. Và cũng đừng ngạc nhiên gì hết, khi thấy các kinh Ðại thừa như Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, ít nói đến Thích Ca mà nói nhiều về Phật Tánh với vô số Phật xuất hiện. Rồi cũng do đó mà Ðại thừa ít đề cập đến các phép tu nguyên thuỷ mà chỉ chuyên thiên trọng về hạnh Bồ Tát với sáu hạnh Ba la mật và các tế hạnh vụn vặt trong nếp sống bình thường hằng ngày.
Các kinh Tiểu phẩm Bát Nhã và Ðại phẩm Bát Nhã cho ta thấy rõ chuyển hướnh mỡ rộng mới này: Từ Ðức Thích Ca, có thể chuyển qua Ðức Phật phổ quát, từ Phật độc tôn chuyển qua Phật tánh với hằng hà sa số Phật xuất hiện . Phật tánh ( Bouddhata) quả thật đã đưa Phật giáo lên địa vị một tôn gíao của toàn thể nhân loại .
Trong Phật gíao Ðại thừa, còn có một khái niệm khác nữa, đó là Pháp thân. Khi Phật còn tại thế, Ngài từ chối không trả lời những câu hỏi siêu hình, như ‘Phật còn hay mất sau khi Niết bàn”. Nhưng đến đại thừa khẳng định rằng : “Phật còn trong Pháp và thân ấy gọi là Pháp thân”
Nói cho dể hiểu hơn, thân ấy chính là chân như. Vì sau khi thành Phật Ngài đồng nhất với Chân như, không sai không khác. Ngài từ Chân như lưu lộ và trở về với Chân như . Ðó là nghĩa của chữ Như Lai mà Phật thường tự xưng trong kinh văn A Hàm.

PHÁP PHẬT


Những gì Phật chứng ngộ trong đêm thành đạo, gọi là Pháp (Ðạt ma), Pháp nghĩa là những quy luật ngàn đời không đổi chi phối toàn bộ sinh hoạt nội tâm con người. Phải tìm hiểu hai mặt vọng chân của nó để biết cái chân diện mục của hai mặt ấy là những gì? Đồng thời, lại phải y theo phương pháp cụ thể nào đó để hiện thực hóa các kiến thức về hai mặt ấy . Phần đầu là phần “học”, phần sau là phần cốt tuỷ, vì nhờ phần này mà Pháp Phật nhập thế, khiến tự do tỏa ra hiện tượng giác ngộ thành Phật . Học là điều kiện cần. Tu là điều kiện đủ. Người Phật Tử thiếu phần thứ hai, chưa phải là người Phật Tử chân chính. Do đó, địa vị của người xuất gia vượt hơn địa vị của người tại gia rất xa.


Sau đây, xin nói riêng về nội dung ý nghĩa của mỗi phần:
1. Pháp cuả Phạt truyền dạy, gồm tóm hai công thức cơ bản: Tứ đế và mười hai nhân duyên. Tứ đế là sơ đồ cũa toàn bộ toà nhà Phật giáo. Mưởi hai nhân duyên là cái hồn sống động của tòa nhà vĩ đại ấy mà đỉnh cao chót vót là quy luật duyên khởi. Ngàn kinh muôn luận trong Phật gíao từ nguyên thủy cho đến Dạt thừa, đều trụ trên cái hồn Duyên khởi và đều từ đây mà triển khai giáo nghĩa muôn màu muôn sắc về sau.

Riêng tòa nhà Tứ đế gồm có hai ngăn tương thông nhau. Ngăn “ khổ tập” thuyết minh về nhân qủa thế gian. Ngăn “diệt đạo” thuyết minh về nhân quả xuất thế gian. Duyên khởi trong ngăn đầu triển khai thành môn tâm lí học cuã Phật Giáo mà tiêu biểu là thuyết học A Tỳ Ðàm, triết học Duy Thức, triết học Khởi Tín ( diển tiến từ cạn đến sâu) . Duyên khởi trong ngăn sau, triển khai đến mức cùng tột làm tiêu biến hết bóng dáng của Duyên khời ( thực chất là do hành trì ) tạo thành môn Bản thể luận của Phật Giáo, mà tiêu biểu là giáo nghĩa Không trong tông Thành Phật và trong Tông Bát Nhã. Tâm lý học của Phật Giáo, gọi là Pháp tướng hay hữu lưu, Hữu tông. Bản thể học trong Phật Giáo gọi là Pháp Tánh hay không lưu, Không tông.


Phật tử khônh hiểu hết giáo nghĩa Phật giáo về Hữu tông và Không tông, và gỉa sử Phật Tử đó viềt được cả ngàn bộ luận để trình bày toàn bộ sự hiểu biết của mình ( như Thế Thân chẳng hạn) thì đó cũng chỉ được gọi là Luận Sư hay Ðại Luận sư tức là loại triết gai , chưa chắc đã đạt được thực chứng thực đắc. Hàng thực chứng thực đắc đó mới đúng nghĩa Phật Tử theo đúng truyền thống của Phật và kế tiếp Phật mà” thiệu long Phật chủng” mệnh danh là Tổ . Tổ là loại đaọ sĩ, tiến bước trên dấu vết cuả Phật đạt được kết quả vô thượng , tối hậu ấy, Phật tử phải theo pháp Phật mà thực hành trong thực tế đời sống hằng ngảy.
2. Thực hành Pháp Phật
Phương pháp thực hành duy nhất là : Thiền. Phật nhờ thiền mà mộ đạo . Ðệ tử Phật không thể không do thiền mà thành được chánh quả . Ðó là quy luật.
Nói về Thiền thì nhìn chung có hai loại Thiần: Thiền Như lai và Thiền tổ Sư. Loại thiền sau là biến thể của lọai thiền trước. Thực chất cũng chỉ có một, nhưng rộng hơn và dể áp dụng hơn. Ngoài hai loại thiền này, còn có nhiều lọai Thiền khác, chẳng hạn như Thiền Chỉ Quán của Thiên thai, Thiền Hoa Nghiêm của Hiền Thủ... nhưng hậu qủa không to lớn như hai loại chính.

CỐT LÕI CỦA PHÁP PHẬT

Toà Nhà Xứ Ðế (bốn gian)


KHỔ TẬP DIỆT ÐẠO


Nói đủ là:
1.-Khổ : đau khổ
2.-Khổ Tập: nguyên nhân gây ra đau khổ
3.-Khổ Tập Diệt: diệt tập của khổ (diệt nguyên nhân gây khổ)
4.- Khổ Tập Diệt Ðạo : phương pháp diệt tập của khổ
Bốn Ðế dính liền với nhau, từ Quả ngược về Nhân
*Trong 4 Ðế chia làm hai cấp nhân quả: thế gian và xuất thế gian.
a)Nhân quả thế gian: Khổ Tập (Ðời) – Nêu quả trước
b)Nhân quả xuất thế gian: Diệt Ðạo (Ðạo) – truy cứu nhân sau.
Tương thông giữa hai cấp, không riêng thiên bên nào (Ðạo trong Ðời, Ðời trong Ðạo), đó là Trung Ðạo. Nghiêng về bên nào cũng đều làm mất trung Ðạo. Do đó, không thể khai thông giải thoát (Niết bàn) và Giác ngộ (Bồ đề).
Nhân quả thế gian – Trung Ðạo – Nhân quả xuất thế gian
KHỔ – TẬP DIỆT – ÐẠO
Nội dung của mỗi đế nói gì?
I.Trong khổ Ðế, tuy có chia ra tám khổ, nhưng sào huyệt của khổ nằm tại “Ngũ ấm xí thạnh khổ”.
Năm uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) rực cháy trong từng sát na, là đầu mối phát sinh mọi loại đau khổ, cả khổ đau thể xác lẫn tinh thần. Các khổ đau ấy diễn biến trong ba khu tâm lý: TÂM, Ý, THỨC (Cita, Mana, Vijnana).
Người học phải nắm cho vững ý nghĩa nội dung của năm uẩn và ba khu tâm lý thì mới rõ Khổ đế nói gì.
II.Trong Tập Ðế, cốt lõi nằm tại NGHIỆP (Karma) và nguyên lý 12 nhân duyên.
Người học, nếu không nắm vững ý nghĩa nội dung của NGHIỆP và 12 NHÂN DUYÊN, thì không thể hiểu Tập Ðế nói gì.
Hai Ðế: Khổ và Tập là khởi điểm khai thông môn học PHÁP TƯỚNG về sau. Pháp Tướng tức Tâm Lý Học của Phật Giáo vậy
III. Trong Diệt Ðế, cốt lõi có pháp Vô Vị. Vì sau khi pháp hữu ­ vi trong Tập Ðế bị tiêu diệt sạch hết rồi, thì pháp vô vi (không do nhân duyên sinh) tự phơi bày ra. Vô vi là tên gọi khác của tiếng Niết bàn, cho nên có hai loại vô vi :
1.Trạch diệt vô vi (Niết bàn tu đắc)
2.Phi trạch diệt vô vi (Niết bàn tự thể, vốn vô thủy vô chung)
Từ thể của Vô vi, là tánh Chân Không (không do nguyên sinh). Ðây là điểm khai thông môn học Pháp tánh về sau của trường phái Bát Nhã. Pháp tánh tức Bản Thể Luận của Phật giáo vậy.
4.Trong Ðạo Ðế, nội dung nói về phép tu. Ðạo nghĩa là con đường, tức phương pháp giúp tu hành giả diệt tập. Phương pháp ấy là Dyana, phiên âm là ja-na, đọc trại là Thiền na, gọi tắt là Thiền, Trung Hoa dịch là: Tịnh lự, Tư duy tu, Thiền định.
Thiền định là phép tu QUÁN TƯỞNG (meditation), đi từ cạn đến sâu, từ ngoại cảnh về nội tâm, qua nhiều tầng bậc.
Theo như Lai Thiền , thì các tầng bậc phải trải qua là: Quán 37 trợ phẩm trợ đạo, rồi Tứ Thiền, Tứ Không... Về sau,triển khai thêm gần 40 phép Thiền mới, lừng lẫy nhất là phép Tổ Sư Thiền của Ðạt Ma và Huệ Năng.
Nhìn chung vào Tứ Ðế, thì ba Ðế đầu là phần lý thuyết, thuộc GIÁO MÔN. Ðế thứ tư là phần thực hành, thuộc QUÁN MÔN. Riêng Giáo Môn chỉ tạo triết gia. Thành tựu Giáo Môn là do Quán Môn. Chỉ Quán Môn mới tạo được Ðạo sĩ tức các Tổ (Patriarche) kế tục sự nghiệp của Phật.
Hành giả Phật giáo thực tâm muốn tu hành là phải y theo Quán Môn mà hành trì. Quán Môn chỉ là bước đầu khai thông cho Quán Môn mà thôi. Quán Môn chính là các phép tu Thiền vậy. Phép tu Tịnh độ cũng là một loại Quán Môn, nhưng bình dị hơn, mà mục đíc nhằm để phổ cập vào quảng đại quần chúng bình dân. Nhưng khi tu Tịnh độ mà không tâp quán theo phương pháp nói trong “Thục lục quán kinh” thì đó chỉ là phép tu theo lời “cầu nguyện” phổ thông trong các Thần giáo.
Như trên ta thấy cốt lõi của toàn nhà Phật giáo nằm trọn vẹn trong Tứ Ðế. Có nắm vững được nội dung của Tứ Ðế thì mới hiểu được các giáo nghĩa của các trường phái Phật giáo về sau, Tiểu thừa cũng như Ðại thừa.
Người xuất gia có hai việc phải làm: Học và Tu.
a)Học là nương theo Giáo Môn, tìm hiểu nội dung của Pháp tướng và Pháp tánh (Tâm lý học và Bản thể học)
b) Tu là nương theo Quán Môn mà hành trì , nhằm thắp sáng nội tâm khiến ý nghĩa nội dung nói trong Giáo Môn bừng sáng trong lòng hành giả.
Nếu không được Quán Môn soi sáng thì bao nhiêu kiến thức thu góp được chỉ là chất chết khô cằn mà thôi , không bao giờ có giác nghộ.
Giáo Môn thuyết minh sự thật. Quán Môn thành tựu sự thật.

TỨ ÐẾ

Sự thật sờ mó được gọi là Ðế.


Sự thật hiểu theo khái niệm : chân lý
Ví dụ : nghe nói đến vị chua của chanh , biết chua – chân lý. Lưỡi nếm trực tiếp chanh , biết chua – Ðế.
1.-Khổ Ðế
Bát khổ :
4 khổ đầu : thể xác.
3 khổ kế : tinh thần.
Cái khổ thứ tám là nỗi khổ gồm chung cả bảy khổ trên : ngũ ấm xí thạnh khổ.
Ngũ uẩn : Sắc , thọ , tưởng , hành , thức gồm hai thành phần hợp lại :
-Vật chất : sắc uẩn.
-Phi vâït chất : thọ , tưởng , hành , thức
*Thọ : trung khu hoạt động tình cảm
*Tưởng : trung khu hoạt động lý trí
*Hành : trung khu tạo tác của Nghiệp (Ý chí)
Năng động (vô minh)
Ù lì (si mê)
*Tâm : tập khởi (tập hợp vật chất và phi vật chất dấy khởi , không duy tâm , chẳng duy vật)
*Ý : tư tưởng (mana) – mạt na (Hán)
Tư : suy tư đời sống nội tâm
Lượng : lượng định (Thọ , tưởng , hành )
*Thức : phân biệt , đối tượng phân biệt gồm có sáu trần cảnh.
*Thức : Liễu biệt ngoại cảnh , phân biệt thọ tưởng , phải nhờ Ý giúp.
(biểu đồ)
Tưởng Thọ
Hành
2.-Tập Ðế
Chính là phiền não (Phiền : đốt cháy thân; não : làm rối loạn tâm). Tất cả các phiền não đều là con đẻ của Nghiệp).
A.-Nghiệp : “Hễ thân có làm , miệng có nói , ý có nghĩ thì có tạo nghiệp” (Nghiệp : có lành và dữ).
*Nghiệp (Karma : Yết ma)
Nghiệp sư : Thầy truyền giới
“Nghiệp là dấu vết lưu dư của vịệc làm , lời nói , ý nghĩa”.
Ðức Phật dạy : một chiếc xe bò đi qua lưu lại những dấu vết của bánh xe lăn trên con đường đất. Cũng thế , việc làm , lời nói , ý nghĩ lưu lại dấu vết trong nội tâm con người. Dấu vết đó chính là Nghiệp. Nghiệp của Tập Ðế là nghiệp xấu (phiền não).
(Có người cho rằng dấu vết của bánh xe lăn sẽ mờ đi theo thời gian , cũng như dấu vết lưu dư của việc làm , lời nói , ý nghĩa sẽ phai dần theo dòng trôi chảy luân lưu của vạn pháp. Nói như thế là phản tác dụng giáo dục , nếu không có lưu dư để lại sẽ không có vấn đề giáo dục)
-Tác dụng của Nghiệp : ù lì (si)
Năng động (vô minh) (sinh ra Hành)
*Ngã : có định khác Nghiệp : biến chuyển , chồng chất. Nếu có Ngã , thì đó là Ngã giả nghiệp chứ không có ngã thể cố định “ Hữu tác nghiệp , vô tác nhân” : có sự tạo tác của Nghiệp , nhưng không có người tạo tác. Chính trong luân hồi , giáo pháp nhà Phật dạy rõ cũng không có “tác nhân” khác ngoại đạo.
Tây phương định nghĩa NGHIỆP :
NGHIỆP là bản sao , bản phổ của bản chính (làm , nói , nghĩ) (dấu vết lưu dư)
Muốn có bản sao tốt phải tu , phá tan uẩn hành để lọc nghiệp đổi bản sao từ bản chính. Tu chính là súc cái bể lọc cho sạch mọi rác rưởi , dơ bẩn , nước đọng.
B.- 12 nhân duyên :
Chính là máy tạo nghiệp (mechnic)
*12 nhân duyên :
Tam thế lưỡng trùng nhân quả
(biểu đồ)
MẶT ÐÁY Quá Khứ 1. Vô Minh – Hoặc
2.Hành – Nghiệp – Nhân Quá Khứ
Hiện tại 3. Thức
4.Danh sắc
5.Lục nhập Khổ – Quả hiện tại – (theo Hữu Bộ)
6.Xúc
7.Thọ
MẶT NỔI
8.Aùi – Hoặc
9.Thủ
10.Hữu – Nghiệp – Nhân hiện tại
Vị Lai 11. Sinh
12.Lão tử – Khổ – Quả vị lai
*Danh sắc :
-Sắc : phụ tinh mẫu huyết
-Danh : nghiệp thức
Tâm lý học mặt nổi : luận về sáu thức (A Tỳ Ðàm của Tiểu thừa)
Ở bề sâu lưng chừng : A lại da , Duy thức
Bề sâu ở đáy : vô minh. Khởi Tín luận
3.Diệt Ðế
*Biến các pháp hữu vi thành vô vi – Niết bàn mà nội dung là sự giải thoát , gồm có :
a) Tâm giải thoát : diệt hết phiền não tức Niết bàn
b) Huệ giải thoát : diệt vô minh , tức Bồ đề (Bát Nhã , Hoa Nghiêm , Pháp Hoa , Phánh Tánh – Bản Thể Luận)
c) 4.-Ðạo Ðế
Tức Thiền định (40 phép Thiền , nổi nhất là Như Lai Thiền , Tổ sư Thiền)
Như Lai Thiền : 37 phẩm trợ đạo , Tứ Thiền , Tứ Không , Tứ Vô Lượng Tâm ...
Cứu cánh của Thiền : phá tan hành uẩn , tức phá nghiệp , tạo trí tuệ Bát Nhã tức giải thoát
(Thế trí biện thông chỉ là uẩn tưởng)
Tịnh độ tông : lục tự Di Ðà đi theo cong đường tình cảm , xoa dịu uẩn thọ , sau đó mới phá tan hành
Thiền là bước nhảy vọt (Phá hành mà thôi)
DIỆT ÐẾ
A.-Khái niệm :
Diệt đế , nói đủ là Khổ tập diệt : diệt tập của khổ. Nghĩa là diệt những gì nói trong Tập đế (Nghiệp, quá trình 12 nhân duyên do Nghiệp tạo tác, phiền não v.v... Kết quả diệt này đã được nhờ hành thì các phép tu sẽ nói trong Ðạo Ðế. Diệt hết Tập thì các pháp hữu vi (do nhân duyên sinh ) tiêu biểu Giải thoát. Phiền não tiêu biểu là Tâm giải thoát, tức Niết bàn. Vô minh tiêu biểu là Tuệ giải thoát, tức Bồ đề.
Niết bàn và Bồ đề là Pháp vô vi (không do nhân duyên sinh).
B.-
*Ba pháp vô vi chính gốc :
1.-Hư không vô vi : khoảng hư không mênh mông (khác không khí ta đang thở, có đủ các khí : hydro, oxy, carbon).
2.-Phi trạch diệt vô vi : vô vi không do quyết trạch mà có, tức tự thân của Niết bàn và Bồ đề vốn vô thủy vô chung.
3.-Trạch diệt vô vi : vô vi do quyết trạch mà có, tức tự thân của Niết bàn và Bồ đề do tu đắc. Niết bàn và Bồ đề mà Phật chứng đắc dưới gốc Bồ đề trong đêm thành đạo, là loại Trạch diệt vô vi. Tự thể của nó là cái Chân Không bất Không. Nói nó là cái chân không vì nó đầy ắp cái thanh tịnh, từ đó thể của Niết bàn hiện ra vắng lặng (tịch) và ánh sáng của Bồ đề chiếu rọi khắp nơi (chiếu). Về sau, Ðại thừa gọi nó là cái Chân Như tịch chiếu : cái thể chân thật vừa vắng lặng vừa sáng soi. ‘Chân không” nói đây không phải cái ngoan không (không trợt không trơn) đối lập với cái hữu (có) như ta có thể lầm tưởng.
Về sau, sau khi Ðại thừa ra đời, Long Thọ trên tiến trình khai triển nguyên lý “Duyên sinh”, quảng diễn Chân Không thành ba nghĩa : Không, Giả, Trung, trong bài kệ mở đầu Trung Luận như sau :
Nhân duyên sở sinh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Thị danh vị Giả danh
Diệc danh Trung đạo nghĩa
Các pháp đã là bị sinh ra bởi nhân duyên, tôi nói cái thể của chúng tức là không. Chúng chỉ có trên giả danh, đó là nghĩa của Trung đạo.
*Thể không là Chân Không. Nhưng tướng thì có, tức là Giả hữu. Lại vì giả mà vẫn có in như thật, cho nên gọi cái giả hữu ấy là Diện Hữu. Nghĩa Chân không Diện hữu là giáo nghĩa căn bản của toàn bộ tư tưởng Phật giáo Ðại thừa về sau. Trong đó kinh văn Bát Nhã chuyển khai cái chân không mà thành thuyết Tánh Không (thuấn nhã đa tánh), còn kinh văn Hoa Nghiêm thì chuyên khai thác cái diện hữu, cho nên dưới con mắt của Phật mọi uế độ đều hiện thành Phật độ hết. Ðến kinh Pháp Hoa thì tổng hợp cả hai mà khẳng định dứt khoát rằng : “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh”.
Qua đến giai đoạn “Bách bộ Ðại thừa” ra đời tiếp theo sau đó, mới tổng hợp Phật tánh (Ngộ) và chúng sinh tánh (mê) mà thuyết minh Như Lai Tạng (khó chứa Như Lai), lập tương quan giữa chúng sinh và Phật, giữa mê và ngộ, Ngộ nằm trong mê là Như Lai tại triền (ông Phật trôi lăn, tức chúng sinh). Ra khỏi tương quan là Như Lai xuất triền (thành Phật).
Hệ thống kinh văn Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa thuộc trào lưu tư tưởng Pháp tánh (không lưu hay Không tông) bắt nguồn từ Ðế thứ ba (Diệt Ðế). Hệ thống kinh văn của “Bách bộ Ðại thừa” và sau tổng hợp Pháp tánh và Pháp tướng (Pháp tướng theo quan điểm Ðại thừa) mà thành giáo nghĩa Như Lai Tạng. (Lưu ý : Pháp tướng Ðại thừa đào sâu hơn Pháp tướng Tiểu thừa. Pháp tướng này khác với Pháp tướng của Duy Thức, A Tỳ Ðạt Ma). Pháp tướng nói chung bắt nguồn từ hai Ðế Khổ và Tập.
*Pháp tánh tức môn học Bản Thể Luận của Phật giáo.
*Pháp tướng tức môn học Hiện tượng luận hay môn Tâm lý học của Phật giáo.
*Pháp tướng tức Tâm lý học Phật giáo :
Có ba loại Pháp tướng :
1/Pháp tướng A Tỳ Ðàm (Tiểu thừa)
2/Pháp tướng Duy Thức (Bán Ðại thừa)
3/Pháp tướng Khởi Tín (Ðại thừa)
Pháp tướng nào cũng bắt nguồn từ ngũ uẩn (năm nhóm tạo thành con người). Khác nhau ở chỗ :
*Pháp tướng A Tỳ Ðàm và Pháp tướng Duy Thức đặt căn cứ phát xuất từ uẩn thức (và uẩn sắc), rồi từ uẩn thức mà mở ra sáu thức và các tác dụng tâm lý phụ thuộc của sáu thức là các tâm cơ sở. Vì vậy cho nên không đào sâu vào được các tác dụng tâm lý sâu kín của các uẩn Thọ, Tưởng, Hành. Pháp tướng Duy Thức có len sâu hơn nhờ phát kiến ra được thức A Lại Da, nhưng vẫn chưa mở xuống thấu mặt đáy của tâm hồn con người, cho nên gọi là Pháp tướng Bán Ðại thừa.
*Pháp tướng Khởi Tính theo một tiến trình ngược lại, đặt căn cứ xuất phát từ vô minh (tức từ uẩn hành), rồi từ tác dụng của uẩn hành mà móng khởi các tác dụng tư lương của uẩn Tưởng và uẩn Thọ (Ngũ ý). Tiếp theo là từ ý thứ năm mà sinh khởi tác dụng của nắm thức đầu để phân biệt (nhận diện) trần cảnh trong thế giới hiện thực của mắt thấy tai nghe.
Pháp tướng Khởi Tín nghiên cứu tâm hồn con người từ mặt đáy lên thấu mặt tầng cho nên nói tương thông được với Pháp tánh mà thuyết minh Như Lai Tạng. Riêng Pháp tướng Khởi Tín là Pháp tướng Ðại thừa.
Hai môn Pháp tánh và Pháp tướng trong Phật giáo rất mênh mông và cực kỳ tinh vi. Ở đây chỉ nói nguồn gốc phát xuất của hai môn ấy (chưa đề cập đến nội dung) để người học có một ý niệm khái quát về địa vị quan trọng của giáo lý Tứ Ðế trong toàn bộ tư tưởng Phật giáo.



tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương