Cao Hữu Đính o0o Nguồn



tải về 1.51 Mb.
trang5/11
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.51 Mb.
#37987
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

GIÁO HỘI

Phật giáo Nguyên thủy


Phật giáo Tiểu thừa
Phật giáo Ðại Thừa
Chữ Sangha trong tiếng Phạn, Trung Hoa phiên âm là “Tăng già”, dịch nghĩa là Chúng, có nghĩa tương đương như chữ Giáo hội ngày nay. Trong rất nhiều trường hợp, Ngài xác định Ngài là một phần tử của Chúng. Ðặc biệt nhất là trong lời trăng trối cuối cùng đáp lại lời A Nan hỏi ngài có giáo lệnh mà ban cho Chúng không, Ngài nói như sau:
“Nhược hữu tử ngôn: Ngã tri ư chúng, ngã nhiếp ư chúng, tu nhân ư chúng, đương hữu giáo lệnh. Như Lai bất ngôn: Ngã tri ư chúng, ngã nhiếp ư chúng, khởi đương ư chúng, hữu giáo lệnh hồ?”(trích Kinh Du Hành). Nghĩa: Nếu có ai nói “Ta nắm giữ chung, ta nhiếp thâu chúng” người đó nên có giáo lệnh ban ra cho chúng, Như Lai không nói “ Ta nắm giữ chúng ta nhiếp thâu chúng, há nên có giáo lệnh ban ra cho chúng ư?”
Tiếp đó Ngài nói: Ta nay đã già rồi, tuổi đã 80, ví như chiếc xe đã cũ kỹ, nhờ phương tiện sữa sang mà được đi đến chốn về đến nơi. Những gì ta chứng ngộ thì nhiều như số lá trong rừng rậm. Những gì ta nói ra chỉ như số lá nắm trong tay mà thôi. Những điều đáng nói, ta đã nói hết rồi. Các người y theo đó mà tu. Trong giây phút lâm chung này, xác thân ta cực kỳ đau đớn, nhưng nhờ không tưởng nghĩ một điều gì hết trong khi nhập định Vô tưởng, cho nên thân ta yên ổn, không bị ưu đoạn. Cho nên, này A Nan! Là Tỳ kheo, các ngươi hãy nên thắp sáng mình lên, thắp lên nơi Pháp, không thắp lên với bất cứ gì khác, hãy nên nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Pháp, không nương tựa bất cứ gì khác (nguyên văn: Ðương tự xí nhiên, xí nhiên ư pháp; vật tha xí nhiên. Ðương tự quy y, quy y ư Pháp, vật tha quy y)
Tiếp theo, Ngài giải thích nghĩa của hai câu đó như sau: Tỳ kheo phải lo quán nơi thân, tinh cần không lười nhác, chớ nghĩ không quên, để trừ tham ưu trên đời. Lại quán ngoài thân rồi quán tổng thể nọi ngoại thân, cũng tinh cần không lười nhác, nhớ nghĩ không quên, để trừ tham ưu trên đời. Quán Thọ, quán Tâm và quán Pháp cũng lại như vậy. Ai trong số đệ tử của ta về sau chuyên tu bốn phép Niệm Xứ ấy, người đó là đệ tử chân chính của ta.
Tăng già (dịch là Chúng) chỉ chung cho giáo hội Phật giáo. Xưa nay, người ta hay chia giáo hội Phật giáo thành ba nhóm lớn Nguyên thủy, Tiểu thừa và Ðại thừa.
1/ Giáo hội Nguyên thủy: kéo dài từ thời Phật cho đến đại hội Tỳ Xá Ly, tức trong khoảng một thế kỷ rưỡi (45 năm thời Phật cộng 110 năm sau Niết bàn). Trong giai đoạn này, giáo hội giữ được cái trọn vẹn cái nhất vị thuần túy của Pháp Phật. Sau đó, vì thời tiết nhân duyên thay đổi (thời gian cách Phật đã lâu rồi, không gian hoằng hóa mở rộng, ảnh hưởng của phong tục tập quán khác nhau của địa phương, các cao đệ đã viên tịch gần hết) cho nên giáo hội Nguyên thủy bắt đầu chớm phân hóa. Ai ưa thích chủ điểm nào trong toàn bộ giáo pháp Phật, chỉ chuyễn lộ triển khai và truyền bá chủ điểm đó, hợp với sở thích nhu cầu riêng của nhóm ấy. Thế là mầm mống phân hóa bắt đầu nẩy nở. Nhưng chỉ thực sự lộ diện là trong đại hội ở thành Hoa Thị dưới thời A Dục (cách Niết bàn 218 năm)
2/ Giáo hội Tiểu thừa: Bắt đầu xuất hiên từ sau đại hội thành Hoa Thị, kéo dài cho đến ngày Giáo hội Ðại thừa ra đời và song song tồn tại với Giáo hội này. sau khi phân hóa, Giáo hội Nguyên thủy chia ra hai nhóm lớn: Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ. Ðây là hai bộ phái gốc hai hai bộ phái mẹ. Phái Thượng Tọa lãnh đạo bởi các trưởng lão cao niên bảo thủ chuyên nghiêng về hai Ðế Khổ và Tạp mà triển khai giáo nghĩa. Phái Ðại Chúng lãnh đạo bởi một số tăng sĩ thanh niên cấp tiến và giàu óc sáng kiến (mà nguồn gốc là nhóm Bạt Kỳ mà ra) chuyên nghiêng về Ðạo Ðế mà triển khai giáo nghĩa. Nhóm trước có nhiều kinh nghiệm về cuộc sống đầy đau khổ, luôn luôn bị ám ảnh bởi khổ đau. Nhóm sau năng động và tích cực hơn, chỉ biết say mê với lý tưởng, bất chấp thực tế trước mắt. Thế rồi, theo thời gian trôi qua và không gian truyền bá không giống nhau, từ hai bộ phái mẹ tiếp tục nảy sinh các bộ phái con, rồi bộ phái cháu, bộ phái chắt ... Theo ghi chép của Theravada ở ngoài đảo SriLanca (Tích Lan) thì có 24 bộ phái Tiểu thừa. Theo ghi chép của Chánh Lượng Bộ ở Trung Ấn, con số bộ phái lại khác hơn nữa. Có nhiều tên bộ phái, sách này ghi những sách khác không biết, và ngược lại. Theo kết quả nghiên cứu của giáo sư Len – si – Ba- Rau (Ba ro, Phật tử người Pháp) hy sinh suốt cả một đời người đi khảo cứu di tích lịch sử Phật giáo khắp cả các nước Ấn Ðộ, Campuchia, Miến Ðiện. SriLanca và vùng Tây Vực (Tân Cương ngày nay), ông phát hiện tất cả là 37 bộ phái với đầy đủ bằng chứng cụ thể về địa phương hoằng hóa, thời gian tồn tại, số chùa, giáo nghĩa đặc biệt của từng bộ phái một (xem lịch sử bộ phái của Barau).
Về từ ngữ “Tiểu thừa” mà Ðại thừa dùng để miệt thị các phái đối lập với mình, tôi trộm nghĩ e không đúng. Nên nói họ là các bộ phái, tức các trường phái triết học lưu xuất từ Phật giáo Nguyên thủy thì mới đúng hơn. Ngược lại, khi chính họ tự xưng họ là Nguyên thủy cũng là lạm dụng mà thôi. Phật giáo Nguyên thủy đã chấm dứt từ khi có phong trào bộ phái ra đời, nghĩa là trước thời A Dục kia mà. Vì vậy, thay vì gọi họ là Tiểu thừa, ta nên công bằng mà gọi họ là Phật giáo bộ phái mới đúng với chức năng và vai trò của họ đã đóng trong dòng phát triển của tư tưỏng Phật giáo.
3.- Giáo hội Ðại thừa:
Như ta đã biết trong bài trước, tư tưởng Ðại thừa dấy khởi từ thế kỷ I trước TL với sự xuất hiện của kinh Tiểu phẩm Bát Nhã, nhưng Giáo hội Ðại thừa thì chỉ mới chính thức được thừa nhận công khai sau Long Thọ ra đời ở giữa thế kỷ II sau TL. Tiếp theo, sau Long Thọ nhiều tông phái xuất hiện, giống như các bộ phái Tiểu thừa trước kia. Trươc kia gọi là Bộ Phái, là vì phái sau thoát thai từ trong lòng phái mẹ trước, và từ bộ phái mẹ mà tách rời ra. Còn ở đây thì gọi là tông phái, là vì các phái này xuất sinh và tồn tại độc lập, theo từng tông nghĩa riêng của bộ kinh mà họ y cứ để triền khai giáo nghĩa. Như tông Tịnh độ y cứ vào kinh A Di Ðà, tông Pháp Hoa (Thiên Thai) y cứ vào kinh Pháp Hoa, tông Hoa Nghiêm y cứ vào kinh Hoa Nghiêm... mà lập tông nghĩa của mình. Một đàng là từ bộ mẹ mà ra bộ con, cho nên gọi là Bộ Phái. Một đàng là từ tông nghĩa của một bộ kinh mà lập phái, cho nên gọi là tông phái.
Từ sau Long Thọ (thế kỷ II sau TL), các Bộ Phái và các Tông Phái song song tồn tại cạnh nhau, cho đến khi Ấn độ bị Hồi giáo xâm lấn (khoảng thế kỷ VII, XI, X). Sau đó Phật giáo mất chân đứng ở Ấn độ, nhưng tỏa ra các nước bên ngoài Ấn độ rất rực rỡ, rực rỡ còn hơn khi còn ở tại sinh quán. Phong trào tràn lan khắp các nước Ðông Á như Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên và các nước Ðông Nam Á như Miến Ðiện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Malayxia, Philipin, Inđônêxia. Tại một số nước trên đây có vài nước không còn Phật giáo nữa, nhưng những di tích chùa tháp rực rỡ ngày xưa hiện còn nguyên vẹn. Chẳng hạn như ở Inđônêxia hiện đương còn một ngôi chùa cũ rất đồ sộ mà chính phủ Inđônêxia mới trùng tu lại với một ngân khoản lên tới hàng chục triệu mỹ kim. Nên biết rằng ngôi chùa đó phải như thế nào, người ta mới bỏ ra nhiều tiền như thế để tu bổ.
Nói về đường hướng truyền bá của Phật giáo ra ngoài nước Ấn độ, xưa nay người ta chia ra hai hướng: hướng tiến lên phía Bắc gọi là Bắc truyền và hướng tiến xuống phương Nam gọi là Nam truyền. Hướng Bắc đi theo đường bộ, hướng Nam đi theo đường thủy. Nhận định như vậy là rất đúng. Nhưng nói Bắc truyền chỉ có Ðại thừa và Nam truyền chỉ có Tiểu thừa thì sai, rất sai. Nên biết rằng ở Tây Vực, Trung Quốc, Nhật Bản có cả Tiểu thừa lẫn Ðại thừa, Tiểu thừa qua trước Ðại thừa qua sau. Còn như ở SriLanca, Inđônêxia... tuy nay không còn nữa, nhưng đã có một thời Ðại thừa phát triển rực rỡ tại nước đó. Bằng chứng là ngôi chùa đồ sộ ở Inđônêxia đã nói ở trên.
(Riêng ở Việt Nam ta, chỉ có ba dòng Thiền là Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Ðường mà tổng hợp là thiền Trúc Lâm. Về sau có thêm dòng Thiền Nguyên Thiều du nhập năm 1661 dưới thời Chúa Hiền. Thiền Tào Ðộng có, nhưng không đáng kể. Sau khi Thiền mất tích, ta theo Tịnh độ nhưng không được chánh truyền như ở Trung Hoa và Nhật Bản).
Hiện nay thì Phật giáo đang trên đà lan tràn rất mạnh tại các nước Âu Mỹ, nhất là Mỹ, do Nam Hàn và Nhật Bản (nhất là Nhật Bản) du nhập. Tại Mỹ hiện nau có 51 trung tâm Phật giáo lớn. Ðặc biệt tại Los Angeles có một ngôi chùa đồ sộ, dùng làm nơi quy ngưỡng chung cho toàn thể Phật giáo do người Mỹ, gọi là chùa Như Lai (Tâthgatha) chuyên theo thiền.

ÐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CỦA CÁC BỘ PHÁI TIỂU THỪA


Ðó là việc thành lập tạng A Tỳ Ðàm (Luận) hợp chung với hai tạng Kinh và Luật của Phật giáo tạo thành một nền giáo lý chân vạc Tam Tạng Kinh Ðiển (Tripikata).
a) Thượng Tọa Bộ: sưu tầm tất cả những gì Phật đã dạy trong kinh văn Nguyên thủy (Agama Nikaya) và trong Vinaya, hệ thống hóa tất cả và chia thành chương mục khác nhau và phân tích, nghiên cứu diễn giải rất chi ly. Nhưng vì trong lời Phật dạy, do nhu cầu “khế cơ” và để tránh cái lỗi “thế gian tương vi”, Ngài đã phải thái dụng một số quan điểm của Bà La Môn giáo, nhất là về thế giới quan thần thoại, mà Ngài cho rằng không gây hại chi giáo pháp trung đạo của Ngài. Ðiều này ta thấy rõ trong bộ Trung A Hàm là bộ kinh nòng cốt của giáo pháp Phật.
Về sau các bộ phái đều chi tập trung nỗ lực của họ vào đề tài nòng cốt là Tâmlý học, nhằm mục đích thuyết minh Nghiệp và Luân Hồi, đương thời họ cũng quy định các đề mục tu học đưa đến cứu cánh chấm dứt Nghiệp và Luân Hồi.
Nền tảng xây dựng của cơ sở tâm lý này triển khai từ thuyết Ngũ Uẩn và đưa vào trong các chi Thập nhị nhân duyên, đặc biệt là từ Thức đến Ái, Thủ, Hữu. Giai đoạn đầu này chỉ mới kiến tạo được một nền tâm lý học mặt tầng.
Các loại tâm sở mà Phật đã nói và đã được ghi chép rải rác trong A Hàm, nay được các bộ phái phân tích, hệ thống hóa và triển khai rành rẽ có mạch lạc hơn. Trong việc phân tích, điều làm cho họ bận tâm nhất là Tâm sở tùy miên (Anusaya – Thùy miên là nép xuống như ngũ say, chỉ khi nào bị kích thích mạnh mới xuất hiện rồi tiếp tục nằm xuống)
Về sau nữa, càng nghiên cứu về tâm hồn con người, phần hạ tầng của ý thức (subcons –cient) được dần khám phá. Nhờ đó mới thuyết minh được phần nào của hai chi vô minh và hành, đưa ra các kiến giải mới như Tế ý thức, hữu phân thức...
Từ cánh diễn giải này, về sau nữa, mới bung thành giáo nghĩa A Lại Da và thức Mạt Na của Ðại thừa Pháp tướng Duy Thức trong thế kỷ VI (sau TL) do Thế Thân thành lập.
Nên biết ông là vị luận sư lừng danh cuối cùng của Hữu bộ và chính ông là tác giả bộ Luận A Tỳ Ðàm Câu Xá rất nổi tiếng. Từ lập trường Câu Xá, ông chuyễn sang Duy Thức và xây dựng Pháp tướng của Ðại thừa.
Với Duy Thức, Thế Thân đã tiến khá sâu xuống hạ tầng của ý thức, nhưng vẫn chưa soi rõ được mặt đáy của tâm hồn con người là phần vô thức (inconscient), nội dung chân xác của hai chi vô minh và hành, phải đợi cho đến khi Luận Ðại Thừa Khởi Tín xuất hiện thì vấn đề mới dứt khoát giải quyết.
b) Ðại Chúng Bộ: song song với công tác sản xuất tạng A Tỳ Ðàm của các bộ phái thuộc Thượng Tọa Bộ, các bộ phái thuộc Ðại Chúng Bộ cũng triển khai A Tỳ Ðàm của riêng họ, nhưng đặc biệt về hai Ðế Diệt, Ðạo mà chứng minh.
Công trình nghiên cứu của các bộ phái này phần nhiều bị mất mát, và ngày nay chỉ còn tìm thấy rải rác trong một số tài liệu bút tích sơ sài không đáng kể. Lại vì họ quá chú trọng đến hai đế Diệt, Ðạo, cho nên họ nghiên cứu rất chi ly về giáo nghĩa Niết bàn.
Nhưng cái gọi là Niết bàn thì chỉ có thể thực hiện được bằng con đường tổng hợp, do tu chứng mà đạt được, chứ không do phân tích hai đế Diệt, Ðạo, họ khai triển thành “giáo nghĩa Không” đối lập với “giáo nghĩa Hữu” của Thượng Tọa Bộ Mẹ. Nhưng càng phân định bao nhiêu, cái không càng trở nên trống rỗng mà biến thành cái “ngoan Không” rùng rợn (un neant afrecuse).
Về sau khi tư tưởng Ðại thừa xuất hiện, cái “Không” của Ðại Chúng Bộ được chỉnh lý dần dần, để rồi sau đó bùng ra thnàh giáo nghĩa “chân không diệu hữu” của Ðại thừa, trong các kinh thuộc Bát Nhã hệ.

PHÁP TƯỚNG DUY THỨC (Trường phái Du Già)

- Vô Trước: Asaga


- Thế Thân: Vasubanda
Thế kỹ VI sau Tây lịch
Vô Trước mở màn với Bộ Luận Du Già Sư Ðịa Luận. Tư tưởng Du Già được hai anh em triển khai trong mười bộ luận kế tiếp, mệnh danh là Thập Chi Luận, gồm có:
1. Bách Pháp.
2. Ngũ Uẩn.
3. Hiện Ðương.
4. Nhiếp Ðại Thừa.
5. Tạp Tập.
6. Biên Trung Biên.
7. Nhị Thập Duy Thức.
8. Tam Thập Duy Thức.
9. Ðại Trang Nghiêm.
10. Phân biệt Du Già.
Trong 12 chi luận trên, sáng giá và gây ảnh hưởng lâu dài nhấtù là tập Tam Thập Duy Thức tức Duy Thức Tam Thập Tụng của Tiểu thừa.
Sau khi Thế Thân mất, mười luận sư, trong đó Hộ Pháp là đại đệ tử khai triển Duy Thức Tam Thập Tụng thành ra như sau:
1. Hộ Pháp
2. Ðức Tuệ
3. An Tuệ
4. Thân Thắng
5. Hoan Hỷ
6. Tinh Nguyệt
7. Hoa Biên
8. Thắng Huệ
9. Thắng Tu
10. Tu Nguyệt
Huyền Trang sau khi du học ở Ấn Ðộ về (nửa thế kỷ VII sau Tây Lịch) dịch Tam Thập Tụng Duy Thức và tấy cả các tác phẩm của mười đại luận sư kể trên gồm chung thành một bộ toàn thư mệnh danh là Thành Duy Thức Luận.
Khuy Cơ cao đệ của Huyền Trang, ghi chép lại những lời giảng giải của thầy mà tạo thành bộ Thành Duy Thức Luận Ký gồm có chép văn và lời giải.
Ðây là bộ toàn thư đồ sộ nhất của trường phái Duy Thức. Cũng gọi trường phái Du Già vì nguồn gốc phát xuất là Du Già Ðịa Luận của Vô Trưỡc (200 quyển do Huyền Trang dịch)
*
* *
Phê bình về hai anh em Vô Trước và Thế Thân xưa nay các học giả đều nhất trí:
- Vô Trước rất uyên thâm, và
- Thế Thân rất bác lãm
Không có một vấn đề gì trong Phật giáo mà Thế Thân không đề cập đến, kể cả vấn đề Như Lai Tạng. Chỉ vì ông thiếu phần uyên thâm cho nên toàn bộ giáo nghĩa Như Lai Tạng, phải đợi sự ra đời của Mã Minh (?) mới hoàn thành sau non một thế kỷ.
Thế Thân sáng tác Duy Thức Tam Thập Tụng lúc ông 80 tuổi. Sáng tác xong thì ông thị tịch. Thập Ðại Luận sư tiếp nối sự nghiệp của thầy.
Vô Trước và Thế Thân sinh tại Bạch Sa Nga (Peshawar ngày nay). Cả hai đều xuất gia, anh tu trong Hóa Ðịa Bộ, em tu trong Hữu Bộ. Cả hai đều xuất chúng. Anh là Ðại luận sư của Hóa Ðịa Bộ, em là Ðại luận sư của Hữu bộ.
Vô Trước chuyễn qua Ðại thừa trước, sáng tác bộ luận Du Già Sư Ðịa để thuyết minh lập trường mới của mình, rồi lôi cuốn thuyết phục em qua theo.
Tư tưởng của hai anh em là tư tưởng Tiểu thừa A Tỳ Ðàm. Vì vậy cho nên trong hệ thống tư tưởng mới của họ mặc dù đã được Ðại thừa hóa, nhưng chưa hoàn toàn lột xác. Tư tưởng của A Tỳ Ðàm còn để lại dấu vết khá đậm nét trong các tác phẩm mới của họ, nhất là trong Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân chẳng hạn. Do đó Pháp tướng Duy Thức không sánh nổi với pháp tướng của Khởi Tín. Ðó là chưa nói đến việc Khởi Tín đi xa hơn và viên mãn hơn Duy Thức. Khởi Tín tổng hợp tát cả các giáo nghĩa của tất cả các trường phái Ðại thừa, gồm chung vào một tổng thể hòa hợp và lớp lang, trong đó Tánh và Tướng hoàn toàn dung thông với nhau.
Ðối lại, giáo nghĩa Duy Thức bắt nguồn từ giáo nghĩa A Tỳ Ðàm của Tiểu thừa rồi được Ðại thừa hóa qua năng lực triển chuyễn và hóa diện của Duy Thức Tánh. Vì vậy cho nên chưa phát hiện được những đợt sóng ngầm của tâm lý mặt đáy mà dung thông với pháp Tánh Bát Nhã.

PHÁP TƯƠNG DUY THỨC

Hệ thống Pháp tướng của trường phái Duy Thức đặt căn bản trên tám thức (từ nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, cho đến Mạc Na, A Lại Da thức) chia chẻ trong các mục: Tướng, Tánh, Hành, Quả.


- Mục Tướng thuyết minh về Tam Năng biến.
- Mục Tánh nói về Tam tánh và Tam vô tánh.
Ðó là các mục đặc sắc nhất trong Duy Thức. Nhưng rõ ràng là hai hệ thống giáo nghĩa (Duy Thức và Khởi Tín) hoàn toàn sai khác nhau không thể lấy nghĩa của bên này mà giải thích cho nghĩa của bên kia được.
- Pháp tướng của Khởi Tín bắt đầu từ trạng thái sơ động của (Vô minh) Tâm mà lập thuyết.
- Trái lại, Pháp tướng của Duy Thức lập cước trên sáu tức (nhãn, nhĩ ...), triển khai từ Pháp tướng A Tỳ Ðàm của Tiểu thừa; phối hợp với tư tưởng Không của Ðại thừa, rồi tăng bổ thêm hai thức Mạc Na và A Lại Da.
Ðứng trên lập trường căn bản mà Duy Thức Tánh, trường phái Duy Thức cho rằng tất cả các pháp đều do thức biến hiện kể cả sơn hà đại địa.
Bài kệ mở đầu của Duy Thức Tam Thập Tụng nói:
Do ngã thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyễn
Bỉ ý thức sở biến
Thứ năng biến duy tâm.
Nghĩa và Pháp chỉ là cái giả lập. Thật ra, bên trong có vô vàn tướng khác chuyễn biến mà có hiện ra. Các tướng ấy là phần sở biến của Thức và nương nơi Thức mà có phát sinh. Phần năng biến gồm có ba lớp: Các bài kệ tiếp nối bề ba lớp năng biến: A Lại Da chứa các chủng tử hạt giống từ trần cảnh đưa vào, các chủng tử ấy nhào nặn với nhau cho đến khi thành thục, rồi biến hiện ra trở lại mà tạo ra trần cảnh. Ðây là cái được gọi là: “ Hiện hành huân chủng tử, chủng tử huân hiện hành”.
Ðệ nhất năng biến:
(1) Lớp sâu kín (vừa là đầu mối) là thức A Lại Da, gọi là Ðệ nhất năng biến. Thức A Lại chứa các chủng tử hạt giống từ trần cảnh và nhận diện trần cảnh. Ðây là cái được gọi là: “Hiện hành huân chủng tử, chủng tử huân hiện hành”.
Sự huân tập này diễn biến không bao giờ ngừng. Do đó mà có sự sinh khởi bất tận của vạn vật, trong thế gian.
Ðệ nhị năng biến:
(2) Từ lớp sơ năng biến này, dấy lên lớp Ðệ nhị năng biến là Thức Mạt Na sau khi sinh khởi, chụp lấy cái A Lại Da mà chấp cho là Ngã. Vì vậy thức Mạc Na (mana) gọi là Thức chấp Ngã, Mạt Na vẫn được hiểu theo nghĩa tư lương, nhưng đây là tư lương cái A Lại Da mà thôi (Lưu ý: Hoàn toàn không đồng nghĩa với tư lương trong Khởi Tín)
Ðệ tam năng biến:
(3) Hết lớp năng biến thứ hai (Mạt Na), tiếp theo là lớp năng biến thứ ba ở ngoài vào. Ðó là lục thức (nhãn, nhĩ.... tiền lục thức).
Năm thức đầu (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) chỉ phân biệt được phần thô của trần cảnh.
Muốn biết được rõ ràng (liễu biệt) phải có sự cộng tác của thức thứ sáu (ý thức).
Ý thức có hai loại:
- Ngũ câu ý thức : cộng tác với năm thức trước.
- Ðộc câu ý thức: có tác dụng phân biệt độc lập và riêng rẽ.
Theo Duy Thức, tiến trình của sự nhận thức diễn tiến hai chiều, từ ngoài vào và từ trong ra.
a) Từ ngoài vào thì đem hình ảnh các pháp gieo vào ý thức, rồi Mạt Na thức là lưu trữ trong A Lại Da thức thành chủng tử. Ðây là tiến trình chuẩn huân hành.
b) Từ trong ra là các chủng tử A Lại Da hiện ra trở lại, xuyên qua Mạt Na thức rồi ý thức và năm thức đầu, để chúng nhận diện sự vật. Ðây là thiến trình chủng huân hành.
Khác biệt giữa Duy Thức và Khởi Tín:
Qua các nét chính yếu được trình bày trong giáo nghĩa Duy Thức thì rõ ràng học thuyết Duy Thức chỉ thuyết minh tác dụng nhận thức của cái tâm. Duy Thức chưa hề nói đến bản thể của tâm và tương quan giữa Tâm và Thức như giáo nghĩa Khởi Tín.
Duy Thức và Khởi Tín tuy cũng thuyết minh về Pháp tướng nhưng lập trường và nội dung thuyết minh hai bên khác nhau. Thuật ngữ cũng khác. Trong một số trường hợp hai bên dùng thuật ngữ như nhau nhưng nội dung ý nghĩa của các thuật ngữ này không đồng nhau, chỉ giống nhau chữ dùng, mà không giống nhau ở nghĩa mà hai bên muốn nói đến.
Ðể kết luận, không thể đem giáo nghĩa của Duy Thức để giải thích giáo nghĩa của Khởi Tín.
Bất sát sinh là để thể hiện lòng từ bi.
Tiểu thừa chủ trương:
* Bất tự sát.
* Bất giáo tha sát.
Ðại thừa chủ trương:
* Bất kiến sát tùy hỷ.

NHẬN XÉT VỀ DUY THỨC TAM THẬP TỤNG

Duy Thức Tam Thập Tụng là sáng tác cuối cùng của Ngài Thế Thân khi Ngài 80 tuổi đời. Vốn là đại luận sư sáng chói bậc nhất của Hữu Bộ (Tiều thừa) với bộ luận A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá tổng kết toàn bộ tư tưởng của bộ phái này từng nổi tiếng trong 7 thế kỷ liên tiếp ở vùng Kashmira (Bắc Ấn).


Ðăc trưng của tư tưởng A Tỳ Ðạt Ma của bộ phái Tiểu thừa nói chung là chuyên thuyết minh về Pháp Tướng, tức Tâm lý học Phật giáo. Cái trục chính của môn Tâm lý học này trụ trên hoạt động của sáu thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) với sự hổ trợ của các tác dụng tâm lý phụ mệnh danh là Tâm sở, mà hình thành quá trình tâm lý của con người.
Sau khi chịu ảnh hưởng của tư tưởng Ðại thừa từ Nam Ấn và Ðông Ấn truyền qua, Thế Thân mới mở rộng Pháp tướng A Tỳ Ðạt Ma của Hữu bộ bằng cách tăng thêm hai thức mới (Mạt Na và A Lại Da) để cố gắng len sâu thêm nữa vào thế giới nội tâm. Do đó mà Duy Thức Tam Thập Tụng ra đời. Ý đồ của Thế Thân trong luận này là nhằm Ðại thừa hóa Pháp tướng Tiểu thừa, nhưng Ngài chỉ thành công nửa vời mà thôi. Cho nên Pháp tướng Duy Thức xưa nay chỉ được đánh giá là Pháp Tướng Bán Ðại thừa. Pháp tướng Ðại thừa chính hệ, phải đợi cho đến khi Luận Khởi Tín ra đời (sau đó khoảng trên dưới 30 năm) thì mới hoàn thành viên mãn. Sinh diệt môn trong Luận Khởi Tín là trụ cột của Pháp tướng chân chính Ðại thừa.
Giờ đây, ta hãy nhìn lại Pháp tướng Duy Thức trình bày trong Duy Thức Tam Thập Tụng gồm có 30 bài tụng (tức kệ) chia ra như sau:
* 19 kệ đầu nói về Duy Thức Tướng.
* 6 kệ tiếp nói về Duy Thức Tánh.
* 4 kệ tiếp nói về Duy Thức Hành.
* 1 kệ chót nói về Duy Thức Quả.
a/ DUY THỨC TƯỚNG
Trong Duy Thức Tướng, phần nói về sáu thức đầu (nhãn...) và về các tâm sở (tác dụng tâm lý phụ), nội dung lấy từ pháp tướng A Tỳ Ðạt Ma mà chuyễn qua, gần như trọn vẹn. Ðóng góp mới chỉ ở hai thức: Mạt Na và A Lại Da.
Bảo rằng A Lại Da (Alaya) là cái kho chứa chủng tử trong nội tâm sâu kín. Ðiều đó tỏ ra hợp lý và dễ được chấp nhận. Thoạt tiên A Lại Da được xếp thành thức thứ 7, đầu mối dẫn khởi sáu thức kia. Nhưng khi thuyết minh hành tướng của nó, thì thấy có chổ không ổn, cho nên mới lập thêm thức Mạt Na để gán cho nó vai trò trung gian chuyễn tiếp. Do đó, Mạt Na được gọi là thức thứ 7 và dồn A Lại Da lên làm thức thứ 8.
Mạt Na (Mana, Trung Hoa dịch là Ý). Theo định nghĩa căn bản từ thời Phật, có nghĩa là Tư Lương (tư lương nội tâm) khác với Thức (Vijnana) được định nghĩa là Phân biệt (Phân biệt ngoại cảnh). Như vậy, nếu cần có một thức Mạt Na thì thức này phải tư lương bấy cứ gì xảy ra trong nội tâm, chứ không riêng gì một cái Ngã mà thôi. Vai trò tư lương cái Ngã gán cho Mạt Na, tỏ ra không ổn vì quá gượng ép.
* Một đóng góp mới khác trong Duy Thức Tướng là ba tướng năng biến. Năng biến nghĩa là thức có công năng biến hóa sự sự vật vật và sự sự vật vật đều là đối tượng sở biến của Thức. Tướng năng biến một được gán cho thức A Lại Da, vì nhiệm vụ của Thức này là “dị thục nhất thiết chúng”. Do sức “nhào nắn”, “dị thục” của các chủng tử từ ngoại cảnh huân tập vào, rồi từ các chủng tử bị nhào nắn lẫn lộn ấy mà hiện hành ra thành hình ảnh của cảnh giới, công năng huân tập bên trong vì hiện hành bên ngoài, tạo thành hiện tượng biến hóa vô cùng phức tạp, diễn đạt bằng năm chữ “như thị như thị biến”. Công năng biến hóa của tướng năng biến hai (của thức Mạt Na) và tướng năng biến ba(của sáu thức đầu), theo tình lý mà xét, nghe có vẻ gượng gạo.
Cho nên, Duy Thức nói toàn thể sơn hà đại địa đều do thức biến hiện thì không những trái thường, mà còn nghịch lý nữa. Nghịch lý ngay cả với giáo chứng trong giáo lý Phật giáo.
Nên nhớ rằng giáo lý căn bản của Phật giáo luôn luôn xác định rằng: “tam giới duy tâm” là vì theo định nghĩa có từ nguyên thủy, Tâm là cái “tập khởi”, không phân biệt yếu tố vật chất hay phi vật chất. Hễ có sự tập hợp của các yếu tố ấy thì có hiện tượng sinh khởi ra cái mệnh danh là Tâm.
Còn thức thì chỉ có tác dụng phân biệt các pháp mà thôi. Và pháp được đình nghĩa là quỹ phạm gắn liền với sự vật, nhờ đó mà ta nhận biết ngay sự vật đó là sự vật gì. Ðối tượng phân biệt của Thức là pháp, chứ không phải tự thân của sự vật. Do công năng phân biệt của Thức (chủ thể) mà Pháp (khách thể) hiện ra. Cho nên mới nói: vạn pháp duy thức. Thức chỉ nhân diện được pháp ở nơi sơn hà đại địa, Thức không thể hóa ra sơn hà đại địa được, vì sơn hà đại địa là vật có sắc chất, hiện diện dtrong tập hợp Tâm đã nói trên.
Còn nếu viện dẫn về cảnh sơn hà đại địa hiện ra trong mộng và cảnh hiện thực trong cuộc đời khác nhau rất xa: cảnh trong mộng là hư, không có chất ngại. Cảnh hư do thức biến nhưng cảnh thực do tập khởi của tâm. Cho nên nói: Tam giới duy tâm. Phật giáo không hề nói: Tam giới duy thức. Không rõ Ngài Thế Thân y cứ vào chứng giáo và lý chứng nào mà sáng lập ra ba tướng năng biến này. nghi vấn này xin dành riêng cho các bậc cao minh nội lực thâm sâu soi sáng cho.
b/ DUY THỨC TÁNH
Sau khi trình bày xong phần Duy Thức Tướng trong 19 câu kệ đầu, Tam Thập Tụng thuyết minh về Duy Thức Tánh. Chính trong phần này và chỉ trong phần này, bộ óc siêu việt thiên tài Thế Thân mới hiện ra vô cùng sáng chói.
Nói về ba tự tánh của Thức, Ngài minh xác:
1.- Các pháp hiện ra trong thức là do y “tha” mà khởi “tự”, cho nên tánh của nó gọi là “ tánh y tha khởi”.
2.- Lại vì các tướng hiện ra là do bị chấp trước lung tung mà thành cho nên tánh của nó còn có một mặt khác nữa, là “tánh biến kế sở chấp”
3.- Như vậy, thật tánh của các pháp bị thức phân biệt là rốt ráo không có tánh (vô tánh tuyệt đối).
Theo giáo pháp Nguyên thủy, Phật ví Thức như huyễn sư chuyên bày trò ảo thuật. Trong Duy Thức Tánh nơi đây, Thế Thân khai triển thành ba tự tánh và ba vô tánh của Thức, quả thực vô cùng sáng giá. Cho nên nói tất cả tinh hoa của Thế Thân hiện ra trong phần này.
c/ DUY THỨC HÀNH
Xây dựng xong giáo nghĩa Duy Thức trong hai phần Tánh và Tướng, đến đây đương nhiên phải đưa ra phương pháp áp dụng lý thuyết nói trên. Phương thức thực hành ra sao cho ứng hợp với lý thuyết ấy, là nội dung của phần này. Duy Thức Hành là phép tu quán hợp với giáo nghĩa Duy Thức để cầu ngộ đạt cái thật tánh vô tánh đã thuyết minh.
Có thể nói mà lo sợ sau lầm rằng đây là một phép tu thiền theo giáo nghĩa của trường phái Thức. Phép Thiền này dự phóng bốn tầng quán tưởng (nói trong bốn bài kệ 26, 27, 28, 29) tầng sau nối tiếp tầng trước, tự cạn đến sâu, bắt đầu là dùng “thiền vật” làm biểu tượng cho tánh Thức mà tập quán cho đến khi biểu tượng tan biến và bỏ xa được hai thứ thùy miên (thủ kiến và thủ tướng). Bấy giờ trí hành giả hoàn toàn không có sở đắc thì thật tánh vô tánh của Thức hiện ra. Hành giả ngộ được chân không. Ðây là hiệïn tượng ngộ đạo theo trường phái Duy Thức. Cứu cánh chứng ngộ hoàn toàn giống như cứu cánh của các phép thiền khác, chỉ không giống nhau về phương thức thi hành mà thôi.
Nội dung của bốn bài kệ trong Duy Thức Hành rõ ràng là nhằm trình bày một phép tu mới. Phép tu thiền của bốn tầng bậc nói đây hoàn toàn không liên quan gì với các phép tu của Tiểu thừa với bốn địa vị: tư lương, giả hành, kiến đạo và tu tập.
Theo phép tu của Tiểu thừa, đối tượng dứt trừ là hai hoặc: kiến hoặc và tư hoặc (cũng gọi là tư hoặc, vì do tư mới trừ được). Hành giả Tiểu thừa phải tận diệt hai hoặc kiến và tư thì mới ngộ đạo và lên thành A La Hán. Ở cấp hiền, sau khi trừ xong kiến hoặc, hành giả đạt được kiến đạo vị mà chứng quả A Na Hàm. Sau đó, trải qua một thời gian tu tập rất lâu, trừ cho xong 81 phẩm tư hoặc thì mới đạt được tu đạo vị mà chứng quả A La Hán (thánh quả tối cao của Tiểu thừa).
Tiến trình quán tướng tánh Duy Thức nói trong bốn bài kệ 26, 27, 28, 29 rõ ràng không dính dáng đến mảy may gì bốn địa vị tu chứng của bốn quả Thanh văn bên Tiểu thừa. Thế mà quái gỡ thay, xưa nay các sách giải Duy Thức Tam Thập Tụng, đều đem bốn địa vị ấy ra mà làm nền để giải thích bốn bài kệ nói trên.
d) DUY THỨC QUẢ
Quả vị tu chứng sau khi thực hành mãn phép tu quán nói trong Duy Thức Hành là quả vị Phật. Ðây là nội dung của bài kệ 30. Và quả vị Phật nói đây không phải là ứng thân hay báo thân, mà là pháp thân đại tịch tịnh, đồng nhất với Chân như kia. Pháp thân đại tịch tịnh ấy được minh thị là: “Thử thị vô lậu giới, bất tư nghị thiện thường, an lạc giải thoát thân” (đó là thân giải thoát, an lạc, vui, thượng hạng, trong lành, không thể nghĩ bàn của cõi vô lậu).
Như vậy, quả vị mà Duy Thức Tam Thập Tụng nhằm đạt được là quả vị tối thượng thừa, quả vị Pháp thân đại Mâu Ni (đại tịch mịch) không liên quan gì đến bốn địa vị của Thanh văn, từ tư lương cho đến tu đạo?
Còn thêm một điểm thắc mắc nữa, nhưng chỉ thắc mắc riêng với tác giả tạo luận: không hiểu vì sao phần Duy Thức Tướng, Thế Thân nói: lên địa vị A La Hán thì xả bỏ A Lại Da. Nếu xả bỏ được A Lại Da rồi tâm đã hoàn thanh tịnh, tức đã thành Phật. Sao lại có chuyện A La Hán ở đây? Như vậy quả A La Hán và quả Phật là một ư?
Ðã bỏ Tiểu thừa mà qua Ðại thừa, thế mà Thế Thân vẫn còn bị cái hình ảnh A La Hán ám ảnh mãi, không dứt bỏ được. Ôi! Cái tập khí lâu đời khó mà trừ dứt!
1.- Ngã đối ngã: tông giáo
2.-Ngã đối nhân: Học thuật, chính trị, kinh tế, xã hội... (khoa học xã hội)
3.- Ngã đối vật: Khoa học thuần túy.




tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương