Caåm nang troàng caây chuøm ngaâY (Moringa oleifera) Chòu traùch nhieäm noäi dung vaø xuaát baûn: trung taâm khuyeán noâng thaønh phoá hoà chí minh



tải về 104.89 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích104.89 Kb.
#30853


SÔÛ NOÂNG NGHIEÄP VAØ PHAÙT TRIEÅN NOÂNG THOÂN TP. HOÀ CHÍ MINH

TRUNG TAÂM KHUYEÁN NOÂNG

*****


CAÅM NANG
TROÀNG CAÂY CHUØM NGAÂY


(Moringa oleifera)
Chòu traùch nhieäm noäi dung vaø xuaát baûn:

TRUNG TAÂM KHUYEÁN NOÂNG THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH


Năm 2011
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3

1. Giới thiệu 5

1.1. Đặc điểm hình thái 5

1.2. Đặc điểm phân loại 5

1.3. Đặc điểm phân bố 7

1.4. Đặc điểm sinh thái 7

1.5. Thành phần hóa học 8

1.6. Thành phần dinh dưỡng 9

2. Công dụng 11

3. Kỹ thuật gieo ươm và trồng 16

3.1. Gieo ươm 16

3.2. Giâm cành 19

3.3. Trồng 20

3.4. Một số sâu bệnh hại chính 23

4. Thu hoạch lá 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO 24


LỜI NÓI ĐẦU

Như chúng ta đã biết vấn đề ô nhiễm môi trường ở các đô thị nước ta hiện nay đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tuổi thọ của mỗi người. Khoa học và công nghệ đã đem nhiều lợi ích cho nhà nông, giúp họ tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; nhưng, cũng không tránh khỏi một số sản phẩm chưa đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Sản xuất và sử dụng sản phẩm nông nghiệp an toàn, sạch là một hướng đi đúng đắn mà ngành nông nghiệp luôn phải gắn đến.

Cây chùm ngây (Moringa oleifera Lamk.) thuộc họ Chùm ngây (Moringaceae); có mặt ở Việt Nam từ lâu đời (mọc hoang nhiều ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận) nhưng vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập. Lá ăn được như rau, quả dùng làm bột cà ri; dầu từ hạt ăn được. Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamin, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics. Ngoài ra, chùm ngây còn cung cấp một hỗn hợp pha trộn nhiều hợp chất như zeatin, quercetin, beta-sitosterol và kaempferol, rất hiếm gặp tại các loài cây khác.

Chùm ngây dễ trồng (trồng bằng hạt hoặc giâm cành), phát triển nhanh, từ vùng biển, đồng bằng và rừng núi cho đến độ cao 500m đều trồng được. Có thể trồng đại trà hoặc trồng làm hàng rào, dọc đường đi hoặc trồng xen những nơi “đầu thừa, đuôi thẹo”... Có thể khai thác lá non (trồng dọc hàng rào lên cao khỏi đầu người thì chặt bằng, cách mặt đất độ 1,5m, để khai thác lá non); khai thác trái (trồng thành đám); trồng thành rừng vừa phủ đất vừa thu hoạch trái hay khai thác dược liệu. Hạt khô rang ăn (như đậu phộng); dầu hạt chùm ngây lâu khô có thể dùng làm mỹ phẩm hay tá dược.... Hiện chùm ngây được 80 quốc gia trên thế giới sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng.

Chính vì những tác dụng đa năng trên của cây chùm ngây, và để người dân có một số thông tin và cách trồng, Trung tâm Khuyến nông TP. HCM biên soạn cuốn Cẩm nang “Trồng cây chùm ngây”. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý độc giả để tài liệu được hoàn chỉnh hơn trong lần tái bản sau.
TS. Trần Viết Mỹ
1. Giới thiệu

1.1. Đặc điểm hình thái

Cây chùm ngây thuộc loại cây gỗ trung bình, cao 5 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc, không lông, dài 1,3 - 2cm, rộng 0,3 - 0,6cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 25 - 30cm, rộng 2cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. Cây trổ hoa vào các tháng 1 – 2.



1.2. Đặc điểm phân loại

Chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, tên khoa học Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterygospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small.


Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau:

Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree

Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique

Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum

Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom

Tiếng Ý: Been, Bemen.

Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan).

Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro.

Tiếng Tây Ban Nha: Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico).
Tiếng Nga: Моринга олейфера.

Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun.

Tiếng Nhật: Wasabi no ki.

Tiếng Khmer: Daem mrom.

Tiếng Indonesia: Kelor, Kalor.

Tiếng Malaysia: Moringa, Muringa, Sigru.

Tiếng Ấn Độ: Sobhan jana.

Tiếng Tamil: Murungai.

Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya.

1.3. Đặc điểm phân bố

Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malaysia và Philippines.

Tại Việt Nam cây được trồng tại các tỉnh phía Nam từ Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận vào đến Kiên Giang và tại đảo Phú Quốc.

1.4. Đặc điểm sinh thái

Cây có khả năng sống từ vùng cận nhiệt đới khô ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô.



1.5. Thành phần hóa học

Trong rễ chứa Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl glucosinolate (1%) sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate. Glucotropaeolin (0.05%) sẽ cho benzyl isothiocyanate.

Trong hạt chứa Glucosinolates (như trong rễ), có thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo. Các acid loại phenol carboxylic như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate. Dầu béo (20-50%): phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%), stearic acid (3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và lignoceric acid.

Lá chứa các hợp chất loại flanonoids và phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside.



1.6. Thành phần dinh dưỡng

Bảng phân tích hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột lá khô cây chùm ngây

STT

THÀNH PHẦN
DINH DƯỠNG/100gr


TRÁI TƯƠI

LÁ TƯƠI

BỘT LÁ KHÔ

01

Nước %

86,9

75,0

7,5

02

Calories

26

92

205

03

Protein (g)

2,5

6,7

27,1

04

Chất béo (g)

0,1

1,7

2,3

05

Carbohydrate (g)

3,7

13,4

38,2

06

Chất xơ (g)

4,8

0,9

19,2

07

Chất khoáng (g)

2,0

2,3

_

08

Ca (mg)

30

440

2003

09

Mg (mg)

24

25

368

10

P (mg)

110

70

204

11

K (mg)

259

259

1324

12

Cu (mg)

3,1

1,1

0,054

13

Fe (mg)

5,3

7,0

28,2

14

S (g)

137

137

870

15

Oxalic acid (mg)

10

101

1,6

16

Vitamin A - Beta Carotene (mg)

0,11

6,8

1,6

17

Vitamin B - choline (mg)

423

423

-

18

Vitamin B1 - thiamin (mg)

0,05

0,21

2,64

19

Vitamin B2 -
Riboflavin (mg)

0,07

0,05

20,5

20

Vitamin B3 -
nicotinic acid (mg)

0,2

0,8

8,2

21

Vitamin C -
ascorbic acid (mg)

120

220

17,3

22

Vitamin E -
tocopherol acetate

-

-

113

23

Arginine (g/16gN)

3,66

6,0

1,33 %

24

Histidine (g/16gN)

1,1

2,1

0,61%

25

Lysine (g/16gN)

1,5

4,3

1,32%

26

Tryptophan (g/16gN)

0,8

1,9

0,43%

27

Phenylanaline (g/16gN)

4,3

6,4

1,39 %

28

Methionine (g/16gN)

1,4

2,0

0,35%

29

Threonine (g/16gN)

3,9

4,9

1,19 %

30

Leucine (g/16gN)

6,5

9,3

1,95%

31

Isoleucine (g/16gN)

4,4

6,3

0,83%

32

Valine (g/16gN)

5,4

7,1

1,06%

Nguồn: Báo cáo của Campden and Choleywood Food Research Association in Conjunction ngày 17/7/1998.



Hình 1, 2: Hoa


Hình 3, 4: Trái
2. Công dụng

2.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao.

2.2. Hoa chùm ngây có thể dùng làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước phương Tây sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horsradish. Vì thế, chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa".

2.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn/ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phộng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế, chùm ngây có tên là "Ben-oil tree".

2.4. Lọc nước; hạt chùm ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa làm trong nước. Kết quả thử nghiệm lọc nước: Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml-1, khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml-1. Dùng hạt chùm ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tủa, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..). Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo…và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn Độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).

2.5. Nhiều bộ phận của cây chùm ngây được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau.

Theo y học cổ truyền cành lá luộc ăn hay sắc uống kích thích tiêu hóa, trị tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phổi. Rễ giả đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Moutarde trị thấp khớp. Ở Senegal, người ta dùng cành, lá sắc uống trị còi xương, viêm cuống phổi, phù nề, thấp khớp…. Cây Chùm ngây chứa nhiều dược tính như chất moringinin, athonin, spirochin, pterigospermin..

* Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, chữa trị các khối u. Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. Vỏ, lá và rễ được dùng tăng cường tiêu hóa. Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; còn hạt dùng trị trướng bụng. Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu lão hóa da. Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao.

* Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml.

* Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin.

* Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy.



2.6. Về ứng dụng công nghiệp; gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho công nghệ giấy và còn được dùng để sản xuất chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp tanin, nhựa dầu và sợi thô. Do cây tăng trưởng nhanh, thân tròn thẳng, tán lá thưa nên nó được sử dụng làm nọc sống cho cây tiêu.

2.7. Về khả năng phòng hộ; cây chùm ngây sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cây cảnh.

3. Kỹ thuật gieo ươm và trồng

3.1. Gieo ươm

Thời vụ thích hợp gieo ươm từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10.

a. Chuẩn bị: Túi bầu PE 11 x 20cm hoặc chậu cây cảnh đựng hỗn hợp ruột bầu. Thành phần ruột bầu gồm 80% đất mặt tầng AB + 20% phân hữu cơ đã hoai. Đất làm ruột bầu được đập sàn nhỏ trộn đều với phân và đổ vào bầu thật đầy, sau đó xếp thành luống có chiều ngang 0,8 – 1m, chiều dài tùy ý, khoảng cách giữa 2 luống 0,4m.

b. Xử lý hạt: Ngâm hạt chùm ngây với nước ấm 600C (2 sôi, 3 lạnh) trong 24 giờ, sau đó đem gieo.

c. Gieo ươm:

+ Gieo trực tiếp: Dùng túi bầu PE hoặc chậu nhựa có lỗ thoát nước, đựng hỗn hợp ruột bầu. Sau đó đặt hạt sâu khoảng 25mm dưới lớp đất xốp, phủ và nén đất nhè nhẹ, tưới nước cầm chừng không để khô quá hoặc ướt quá. Sau 3 - 6 ngày hạt nẩy mầm, và cây sẽ ló ra khỏi mặt đất sau chừng 1 tuần, tiếp tục giữ ẩm không để quá khô, tuyệt đối không để úng nước và để trong mát.

+ Ươm vào túi bầu PE hoặc chậu: Có 2 cách

Cách 1: Ngâm hạt trong nước ấm 600C (2 sôi, 3 lạnh) 24 giờ, hạt sau khi ngâm, vớt ra trộn với cát, ủ trong bao tải, hoặc rơm rạ mỗi ngày tưới một lần, 3 - 6 ngày sau hạt nẩy mầm, đem hạt ươm vào túi bầu PE hoặc chậu nhựa chứa đất tơi xốp có khoét lổ rút nước, tưới nước vừa đủ ẩm, tránh úng nước, khoảng 1 tuần sau cây nhú lên, chờ 6 - 8 tuần cây khỏe.

Cách 2: Đầu tiên, pha nước ấm 600C (2 sôi, 3 lạnh), ngâm hạt chùm ngây trong 24 giờ. Lấy khăn bọc hạt chùm ngây lại và để trong tối; vì, ánh sáng khuyếch tán có lợi cho cây xanh, nhưng cưỡng bức quá trình nẩy mầm. Đặc biệt là thành phần quang phổ màu xanh trong phổ ánh sáng trắng. Mỗi ngày, nhúng bọc hạt chùm ngây vào nước mưa, trở qua trở lại. Sau đó, vẩy nhẹ để đừng ứ nước bên trong. Làm cẩn thận vì có thể làm hư mầm non bên trong. Bổ sung nước cũng như tránh ẩm mốc cho hạt. Vài ngày sau, hạt nẩy mầm. Đem ươm vào chậu hoặc túi bầu PE có hỗn hợp ruột bầu, lưu ý là cả chậu hoặc túi bầu PE đều cần khoét lổ để thoát nước.



Hình 5: Hạt Hình 6: Hạt nẩy mầm


Hình 7,8: Bầu ươm cây con


Hình 9, 10: Cây con 1 – 2 tuần tuổi

3.2. Giâm cành

- Chọn cành giâm: Chọn những cành bánh tẻ hoặc các nhánh từ cành chính trên những cây khỏe mạnh, lấy đoạn từ gốc đến hết phần bánh tẻ, không lấy phần ngọn. “Gốc cành được ngâm trong nước tránh cho cành khỏi mất nước”.

- Cắt cành giâm: Chọn các đoạn thân cành có đường kính từ 2 – 3 cm, cành được cắt với chiều dài từ 10 – 15 cm, mang 2 – 3 cặp lá, cắt bớt phiến lá. Các vết cắt nên cắt xéo, sắc ngọt và tránh bầm dập.

- Ngâm cành giâm vào thuốc trị nấm: Sau khi cắt ra từng đoạn cành, nhúng cành giâm vào thuốc trị nấm như: Rovral….. liều lượng sử dụng có ghi trên bao bì các loại thuốc. Thời gian ngâm vào thuốc diệt nấm bệnh từ 20 – 30 phút.

- Nhúng gốc cành vào thuốc kích thích ra rễ, như NAA, IBA và NAA + IBA (tỷ lệ 1:1), nồng độ kích thích tố thích hợp từ 2.000 – 3.000 ppm, và giâm ngay vào bầu hoặc líp ươm đã soi lổ.

- Cắm cành giâm vào bầu đất líp ươm: Hỗn hợp gồm tro trấu (25%), cát sông (75%), hạt cát thô, hỗn hợp được trộn đều và cho vào bầu hoặc líp. Bầu đất, líp giâm cành, cần được đặt trong nhà polyetylen có hệ thống phun sương không liên tục, 1 giờ phun 2 phút trong 2 tuần đầu, sau 15 ngày tưới 5-6 lần/ ngày đảm bảo ẩm độ thường xuyên trên 80 % trong tuần lễ đầu, sau 45 ngày có thể cho cây ra trồng trong chậu hoặc thay bầu đất nuôi cây.

- Chăm sóc cành giâm: Trước khi chuyển cây ra bầu đất nên tưới nước ướt đẫm, xới nhẹ, lấy cành giâm cắm trên líp ươm vào bầu đất hoặc bầu đất giâm cành xé bỏ vỏ bầu và cắm vào bầu đất mới. Thành phần bầu đất gồm: tro trấu, đất mặt, phân chuồng. Bầu đất cần được tưới đủ ẩm trước khi cắm cành giâm đã có rễ vào bầu, líp đặt bầu ươm cành giâm cần được che nắng trong thời gian đầu, dần dần cho cành giâm tiếp xúc với nắng nhẹ, sau đó tăng dần lượng chiếu sáng để cành giâm ra rễ mạnh hơn và đưa dần cành giâm ra ánh sáng hoàn toàn. Khi cành giâm đã phát triển mạnh có thể bón phân pha loãng để giúp cây sinh trưởng tốt hơn.

3.3. Trồng

Trồng cây

Cây ươm trồng bằng cây con hoặc bằng cành giâm trong chậu hoặc túi bầu PE được 6 - 8 tuần lễ, đã đâm rễ và cây cứng cáp, cao 10 - 20cm có thể đem trồng.

Trồng phân tán cây cách cây từ 1,5 - 2,0m, trồng tập trung cây cách cây 2m hàng cách hàng 3m (mật độ 1.666 cây/ha).

Đào hố rộng 30 x 30cm, sâu 30cm, mỗi hố đào cách nhau 1,5 - 2m. Hố được đào trước khi trồng 7 - 10 ngày. Tiến hành bón lót phân NPK (15-15-15) từ 100-200gr/hố hoặc phân hữu cơ sinh học từ 1-1,5kg/hố. Sau khi bón phân xong phủ một lớp đất mịn dày 1-2cm.

Trước khi bỏ cây xuống hố phải xé túi bầu, lưu ý không để phạm vào rễ cái. Cho cây vào giữa hố, giữ cây thẳng, dùng tay vun lớp đất mịn xung quanh vào gốc cây. Vừa vun, vừa nén chặt gốc, lấp đất cao hơn cổ rễ từ 2-3cm, giữ ẩm 2 - 3 tuần cây sẽ sống khỏe, đến lúc đó không cần phải thường xuyên tưới nước.


Hình 11: Mô hình trồng cây tập trung




Hình 12: Mô hình trồng cây phân tán



Chăm sóc

Sau khi trồng 3-4 tuần, tiến hành kiểm tra và trồng dặm ngay những cây bị chết.

Làm cỏ vun gốc 1 tháng sau khi trồng.

Chăm sóc định kỳ 2 lần/năm, gồm phát dọn thực bì, làm cỏ, bón phân, vun gốc cây rộng 1m và bón phân cho cây, chăm sóc lần 1 lượng phân bón 100gr- 200gr NPK/lần bón. Bón liên tục trong 3 năm đầu.

Cây chùm ngây dễ trồng, tăng trưởng nhanh sau 01 năm trồng có thể cao từ 4 – 5m, đường kính cổ rễ từ 5 – 6cm, và ra hoa kết trái ngay trong năm đầu tiên.

Nếu chỉ để thu hoạch lá và hoa, có thể trồng ngay trên luống đất xốp bằng cách ươm hạt sâu 25mm và cách nhau 40cm như trồng ớt.



3.4. Một số sâu bệnh hại chính

Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại như: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus



4. Thu hoạch lá

Cây chùm ngây sau khi trồng 3 tháng, đạt chiều cao khoảng 60cm. Tiến hành cắt ngọn và tỉa cành.

Sau khi trồng 6 tháng, cây cao khoảng 2m, đây là thời kỳ thu hoạch chính, trung bình cây có thể cho từ 500 – 900gr lá tươi/cây/tháng.

Sau khi thu hoạch lá, tiến hành bón phân và cắt tỉa. Những tược non phát triển tiến hành cắt tiếp, cắt chỉ chừa lại khoảng 10cm.



TÀI LIỆU THAM KHẢO


  1. Trần Viết Mỹ, 1997, Kỹ thuật trồng chùm ngây, Tập san Khuyến Nông, TP.HCM

  2. Nguyễn Hữu Thành, Cây chùm ngây, www. khuyennongtphcm.com.

  3. http://www.moringatree.co.za/analysis.html

  4. http://www.tfljournal.org/images/articles/20051201124931586_3.pdf

  5. http://en.wikipedia.org/wiki/Moringa_oleifera

  6. http://khoahocphothong.com.vn/?mag=Ng==&nid=MjYwNw==&act=dmlld2RldGFpbA

  7. Handbook of Medicinal Herbs (J. Duke)

  8. http://niengiamnongnghiep.vn/index.php?self=article&id=2306

  9. http://www.tin247.com/chua_benh_tu_cay_chum_ngay-10-122370.html




Каталог: uploads
uploads -> -
uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1

tải về 104.89 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương