Chương IV - Có và Không theo tinh thần bát nhã
Phật Tử Việt Nam chúng ta hầu như không phân biệt tông phái về Thiền, Tịnh Độ, Mật Tông hay Pháp Hoa tông v.v.. vào cuối mỗi thời kinh đều có tụng kinh Bát Nhã.
Kinh nầy do Đức Phật nói tất cả là 22 năm trong 16 hội và ở 4 nơi khác nhau tại Ấn Độ. Sau đó Ngài Huyền Trang dịch ra tiếng Trung Quốc gồm 600 quyển vào đời nhà Đường (hơn 1.000 năm về trước) và vào đầu thế kỷ thứ 20 chư Tăng Việt Nam đã dịch bài kinh Bát Nhã gồm 260 chữ theo âm Hán Việt ấy từ đó đến nay. Nghĩa là rất thâm trầm. Tuy đã có Thầy dịch ra âm tiếng Việt; nhưng nhìn chung thì không lột hết được ý nghĩa từ văn chữ Hán, do vậy mà cho đến nay nhiều chùa Việt Nam và ngay cả các nước Phật Giáo Á Châu khác như Đại Hàn, Nhật Bản đều dùng bản 260 chữ nầy. Chỉ có tụng âm khác mà thôi. Khi Phật Giáo được du nhập vào Âu Mỹ, nhiều nước như Nhựt, Trung Hoa, Việt Nam và Đại Hàn đều cho những Phật Tử tại các địa phương nầy tụng theo âm tiếng mẹ đẻ của quê hương mình, mặc dầu kinh Bát Nhã ngày nay đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp và nhiều thứ tiếng thông dụng trên thế giới nữa.
Sau đây chúng ta đọc lại bài kinh Bát Nhã 260 chữ bằng tiếng Việt một lần nữa để được hiểu sâu sắc thêm.
---o0o---
Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa Tâm-Kinh
Quán-tự-tại Bồ-Tát, hành thâm Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn-giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-Đề tát-đõa y Bát Nhã Ba-La Mật-Đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-Bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-Ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng-đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát bà ha.
Nếu giảng nghĩa từng chữ, từng câu và từng ý nghĩa thì thiết tưởng đã có nhiều vị Pháp Sư và nhiều vị Tổ Sư đã làm rồi. Nơi đây chúng tôi chỉ đơn giản hóa một số vấn đề và ý nghĩa cũng như tư tưởng của Bát Nhã để mọi người cùng nghiên cứu, học hỏi v.v...
Chữ Bát Nhã tiếng Sanscrit gọi là Prajnà. Tiếng Trung Hoa viết theo âm là Bàng Nhược, dịch nghĩa là Trí Tuệ. Tiếng Anh gọi là Wisdom; tiếng Đức gọi Weisheit. Cả tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Việt đều dịch rất sát nghĩa chữ Prajnà bên trên. Vậy làm sao để có trí tuệ và tu pháp môn gì để hiểu biết được bằng trí tuệ ?
Nội dung của bài kinh Bát Nhã 260 chữ nầy mô tả về CÓ và KHÔNG, KHÔNG và CÓ. Người nào nhận thức được sự hiện hữu nầy không thường còn, không bất biến, luôn luôn thay đổi. Đó là cái nhìn của Bát Nhã. Ví dụ câu: "Có tức là không, không tức là có, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy". Nếu mới đọc qua, người đọc sẽ không hiểu gì cả, mà phải nghiền ngẫm, suy luận, thực hành... thì mới mong hiểu được lý Bát Nhã nầy. Tại sao có tức là không ? - Như chúng ta thấy đó, mọi vật tồn tại nơi thế gian đều không có gì chắc thật, luôn luôn thay đổi và luôn luôn biến hóa. Con người chỉ an trụ trong những phút giây ngắn ngủi, rồi quên đi, tưởng rằng chúng có thật; nhưng trên thực tế lại là không. Tuy rằng không đó; nhưng những vi trần nhỏ li ti; những biến động của gió, của không khí sẽ làm cho từ chỗ không biến thành có v.v... cho đến sự cảm nhận nơi tâm thức, tư tưởng của mỗi con người. Sự tạo tác, sự biến đổi của tâm thức cũng đều như vậy cả. Nghĩa là không có cái gì dừng lại và không có vật gì là không biến đổi. Tâm chúng ta luôn thay đổi và tư tưởng của chúng ta thì niệm niệm sinh diệt. Do vậy mà có cũng như không, không cũng như có là thế.
Ví dụ ta đứng trên một bờ hồ, chúng ta thấy thân hình của mình soi bóng xuống dưới mặt nước. Nếu ta tự hỏi. Đó là ai? Dĩ nhiên ta trả lời là ta; nhưng trên thực tế không phải là ta. Vì đó chỉ là ảnh hiện của cái ta mà thôi. Vì lẽ khi sóng dội đến, hay mặt nước bị một hòn sỏi làm cho gợn sóng thì hình hài kia không phải là của ta nữa. Do vậy mà nói có tức là không.
Đến câu hỏi thứ hai ta tự đặt ra cho mình rằng: Vậy thì ai ở dưới mặt nước đó, nếu không phải là ta ? Như thế đó. Từ cái không biến thành có và từ cái có lại biến thành không và chính những sự đổi thay nầy, làm cho tâm chúng ta bị phân biệt. Thế rồi bị rơi vào vòng ngã chấp và chấp pháp.
Một ví dụ khác cho dễ hiểu hơn. Ví dụ như sóng và nước. Nước luôn luôn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và đôi khi trên mặt nước lại gợn lên một tí sóng. Có người bảo: Sở dĩ có vậy vì nước bị gió. Có người bảo: Chẳng phải bị gió mà cũng chẳng phải tại vì có sự hiện hữu của nước. Đó chỉ là sự chấp trước của tâm thức mà thôi. Hẳn nhiên là tất cả mọi câu trả lời đều không sai; nhưng tùy theo từng đối tượng một để xác định lại việc nầy. Ta ví dụ nước như là chơn tâm và sóng là vọng tâm thì dễ hiểu hơn. Vọng và chơn thực sự ra chỉ có một chứ không có hai. Sở dĩ ta thấy sóng, vì có gió. Sóng ở đây thuộc về vọng. Còn nước thuộc về chơn. Cái tâm của ta vốn thường hằng; nhưng vì trải qua vô lượng sanh tử, do vậy ngọn gió nghiệp kia đã thay đổi chiều hướng nhiều lần, cho nên mới có vọng có chơn là vậy.
Chữ Ma-Ha có nghĩa là rộng lớn. Ý nói phải hiểu kinh nầy bằng trí tuệ rộng lớn, chứ không thể dùng trí bình thường mà phân tích được. Bát-Nhã có nghĩa là trí tuệ siêu việt. Ba-La Mật-Đa có nghĩa là rốt ráo, qua bên kia bờ. Như vậy nếu ai hành trì kinh nầy thì sẽ hiểu thấu đáo lời Phật dạy bằng trí tuệ và chính trí tuệ nầy sẽ đưa chúng sanh đến Niết-Bàn tịch tịnh và thoát ly khỏi sanh tử luân hồi.
Còn Đại Bát-Nhã 600 quyển trong Đại Tạng Kinh đã được Hòa Thượng Trí Nghiêm dịch sang Việt ngữ từ năm 1972 thành 24 quyển và đại tác phẩm nầy đã hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 âm lịch (năm 1980), Phật lịch 2524, nhân lễ vía Đức Phật A Di Đà tại Am Hoàng Trúc thuộc chùa Long Sơn, trụ sở Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Khánh Hòa, Nha Trang.
Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm cho biết rằng Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Kinh ra tiếng Việt được họp vào các ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 tại Đại Học Vạn Hạnh dưới quyền Chủa Tọa của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh cũng như Hòa Thượng Thích Minh Châu và 12 vị khác. Phần dịch sang Việt văn đại tác phẩm này do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đảm trách và Hòa Thượng Thích Thiện Siêu khảo chánh. Theo Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm thì trước Hội Nghị Hòa Thượng đã khởi dịch được 100 bộ và 500 bộ còn lại Hòa Thượng dịch từ năm 1972 đến 1980 thì xong. Đến năm 1998 đại tác phẩm nầy mới được xuất bản tại Việt Nam và chùa Viên Giác Hannover đã được một Phật Tử Việt Nam tại Úc phát tâm cúng dường.
Trong lời tựa "Thừa sự Tăng sai" trang 27 quyển một, Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã viết:
"Sáu trăm quyển phân thành 24 tập (ngoại trừ tập Mục Lục), mỗi tập có 25 quyển, mỗi quyển trung bình 40 trang. Mỗi trang 10 hàng, mỗi hàng 20 chữ. Mười trang 2.000 chữ. Bốn chục trang 8.000 chữ. Mười quyển có 80.000 chữ. Một trăm quyển có 800.000 chữ. Sáu trăm quyển tổng cộng có 4 triệu 8 trăm ngàn chữ. Chưa kể 2 bài Ngự Chế của hai Vua nhà Đường và 16 bài tựa của 16 Hội do dịch giả viết tại chùa Tây Minh, ký hiệu Huyền Tắc chớ không phải Huyền Trang. (Toàn kinh có 16 Hội. Hội thứ nhất chiếm 400 quyển có một bài tựa. Còn 200 quyển 15 Hội có 15 bài. Không như thông thường một bộ kinh là chung một tựa. Quyển Kim Cương Bát Nhã ta thường tụng thuộc Hội thứ 9 cũng riêng một tựa. Như thế bộ kinh nầy dịch ra Việt văn đầy đủ không dưới năm triệu chữ".
Quyển thứ nhất (Tiếng Việt) có 25 quyển in thành 810 trang.
Quyển thứ nhì (tiếng Việt), từ quyển 26 đến quyển 50, gồm 764 trang.
Quyển thứ ba (tiếng Việt), từ quyển 51 đến quyển 75, gồm 748 trang.
Quyển thứ tư, từ quyển 76 đến quyển 100, gồm 715 trang.
Quyển thứ 5, từ quyển 101 đến quyển 125, gồm 691 trang.
Quyển thứ 6, bắt đầu từ quyển thứ 126 đến quyển 150, gồm 651 trang.
Quyển thứ 7, từ quyển 151 đến quyển 175, gồm 716 trang.
Quyển thứ 8, từ quyển 176 đến quyển 200, gồm 737 trang.
Quyển thứ 9, từ quyển 201 đến quyển 225, gồm 764 trang.
Quyển thứ 10, từ quyển 226 đến quyển 250, gồm 775 trang.
Quyển thứ 11, từ quyển 251 đến quyển 275, gồm 763 trang.
Quyển thứ 12, từ quyển 276 đến quyển 300, gồm 735 trang.
Quyển thứ 13, từ quyển 301 đến quyển 325, gồm 778 trang.
Quyển thứ 14, từ quyển 326 đến quyển 350, gồm 759 trang.
Quyển thứ 15, từ quyển 351 đến quyển 375, gồm 776 trang.
Quyển thứ 16, từ quyển 376 đến quyển 400, gồm 783 trang.
Quyển thứ 17, từ quyển 401 đến quyển 425, gồm 784 trang.
Quyển thứ 18, từ quyển 426 đến quyển 450, gồm 799 trang.
Quyển thứ 19, từ quyển 451 đến quyển 475, gồm 795 trang.
Quyển thứ 20, từ quyển 476 đến quyển 500, gồm 798 trang.
Quyển thứ 21, từ quyển 501 đến quyển 525, gồm 845 trang.
Quyển thứ 22, từ quyển 526 đến quyển 550, gồm 823 trang.
Quyển thứ 23, từ quyển 551 đến quyển 575, gồm 846 trang.
Quyển cuối cùng là quyển thứ 24 bằng tiếng Việt, từ quyển 576 đến quyển 600, gồm 789 trang.
Như vậy tổng số trang trong 24 tập là: 18.444 trang kinh Việt ngữ và gần 5 triệu chữ. Đây là một đại tác phẩm mà Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã dày công phiên dịch gần 20 năm trời. Mỗi năm trung bình một tập hay hơn một tập để 18 năm sau (1998) được xuất bản lần đầu tiên 1.500 bộ. Trong hơn 70 triệu người Việt Nam đang sinh sống trên đất nước và hải ngoại mà chỉ có 1.500 bộ kinh, quả là con số rất khiêm nhường, mà Thư Viện chùa Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, có được một đại tác phẩm như thế, quả là điều rất hy hữu.
Tôi chưa có dịp được diện kiến Hòa Thượng. Nghe đâu Hòa Thượng năm nay (2000) vẫn còn minh mẫn, tuổi gần 90, hiện ở Nha Trang và là một trong những cột trụ của Phật Giáo Việt Nam trong cũng như ngoài nước, giới đức rất trang nghiêm, cả Tăng lẫn Ni đều luôn luôn quy ngưỡng về. Mặc dầu quê hương đất nước chúng ta đang chìm trong cơn hỏa mù của chủ nghĩa; nhưng Phật Giáo Việt Nam còn lại được những bậc tôn túc khả kính như thế, thật quý hơn vàng bạc, kim loại. Cho nên những tên gọi như: Thiền gia thạch trụ hay lương đống của Phật Pháp quả không hổ danh chút nào.
Sau đây chúng ta có thể xem lược qua Mục Lục của 600 quyển gồm 600 phẩm khác nhau của từng Hội để chúng ta có một cái nhìn khái quát về bộ Đại Bát Nhã nầy. Vì nhiều khi chúng ta chỉ được nghe, chứ chưa được thấy. Nếu muốn trì tụng, nghiên cứu chắc phải tốn đến vài chục năm mới xong đại tác phẩm nầy.
---o0o---
Mục Lục
Tựa Tam Tạng Thánh Giáo 9
Lời ký Tam Tạng Thánh Giáo 13
Tựa sơ hội kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa 17
Thừa sự Tăng sai 21
Tập 1
Quyển thứ 1
Hội thứ nhất Phẩm Duyên Khởi thứ 1-1 33
Quyển thứ 2
Hội thứ nhất Phẩm Duyên Khởi thứ 1-2 60
Quyển thứ 3
Hội thứ nhất Phẩm Học Quán thứ 2-1 96
Quyển thứ 4
Hội thứ nhất Phẩm Học Quán thứ 2-2 125
Hội thứ nhất Phẩm Tương Ưng thứ 3-1 145
Quyển thứ 5
Hội thứ nhất Phẩm Tương Ưng thứ 3-2 156
Quyển thứ 6
Hội thứ nhất Phẩm Tương Ưng thứ 3-3 186
Quyển thứ 7
Hội thứ nhất Phẩm Tương Ưng thứ 3-4 217
Hội thứ nhất Phẩm Chuyển Sanh thứ 4-1 235
Quyển thứ 8
Hội thứ nhất Phẩm Chuyển Sanh thứ 4-2 247
Quyển thứ 9
Hội thứ nhất Phẩm Chuyển Sanh thứ 4-3 276
Quyển thứ 10
Hội thứ nhất Phẩm Khen thắng đức thứ 5 306
Hội thứ nhất Phẩm Hiện tướng lưỡI thứ 6 320
Quyển thứ 11
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-1 335
Quyển thứ 12
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-2 366
Quyển thứ 13
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo daỵ trao thứ 7-3 397
Quyển thứ 14
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-4 427
Quyển thứ 15
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-5 457
Quyển thứ 16
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-6 488
Quyển thứ 17
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-7 517
Quyển thứ 18
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-7 547
Quyển thứ 19
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-9 583
Quyển thứ 20
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-10 616
Quyển thứ 21
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-11 652
Quyển thứ 22
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-12 687
Quyển thứ 23
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-13 723
Quyển thứ 24
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-14 753
Quyển thứ 25
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-15 781
Tập 2
Quyển thứ 26
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-16 9
Quyển thứ 27
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-17 37
Quyển thứ 28
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-18 68
Quyển thứ 29
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-19 98
Quyển thứ 30
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-20 129
Quyển thứ 31
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-21 159
Quyển thứ 32
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-22 189
Quyển thứ 33
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-23 220
Quyển thứ 34
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-24 249
Quyển thứ 35
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-25 279
Quyển thứ 36
Hội thứ nhất Phẩm Dạy bảo dạy trao thứ 7-26 308
Hội thứ nhất Phẩm Khuyến học thứ 8 318
Hội thứ nhất Phẩm Vô trụ thứ 9-1 335
Quyển thứ 37
Hội thứ nhất Phẩm Vô trụ thứ 9-2 341
Quyển thứ 38
Hội thứ nhất Phẩm Bát nhã hành tướng thứ 10-1 375
Quyển thứ 39
Hội thứ nhất Phẩm Bát nhã hành tướng thứ 10-3 440
Quyển thứ 40
Hội thứ nhất Phẩm Bát nhã hành tướng thứ 10-3 440
Quyển thứ 41
Hội thứ nhất Phẩm Bát nhã hành tướng thứ 10-4 467
Quyển thứ 42
Hội thứ nhất Phẩm Thí dụ thứ 11-1 500
Quyển thứ 43
Hội thứ nhất Phẩm Thí dụ thứ 11-2 529
Quyển thứ 44
Hội thứ nhất Phẩm Thí dụ thứ 11-3 559
Quyển thứ 45
Hội thứ nhất Phẩm Thí dụ thứ 11-4 590
Hội thứ nhất Phẩm Bồ tát thứ 12-1 615
Quyển thứ 46
Hội thứ nhất Phẩm Bồ tát thứ 12-2 621
Quyển thứ 47
Hội thứ nhất Phẩm Ma Ha Tát thứ 13-1 652
Quyển thứ 48
Hội thứ nhất Phẩm Ma Ha Tát thứ 13-2 680
Quyển thứ 49
Hội thứ nhất Phẩm Ma Ha Tát thứ 13-3 707
Hội thứ nhất Phẩm Áo giáp Đại Thừa thứ 14-1 721
Quyển thứ 50
Hội thứ nhất Phẩm Áo giáp Đại Thừa thứ 14-2 737
Tập 3
Quyển thứ 51
Hội thứ nhất Phẩm Áo giáp Đại Thừa thứ 14-3 9
Hội thứ nhất Phẩm Biện Đại Thừa thứ 15-1 28
Quyển thứ 52
Hội thứ nhất Phẩm Biện Đại Thừa thứ 15-2 39
Quyển thứ 53
Hội thứ nhất Phẩm Biện Đại Thừa thứ 15-3 72
Quyển thứ 54
Hội thứ nhất Phẩm Biện Đại Thừa thứ 15-4 102
Quyển thứ 55
Hội thứ nhất Phẩm Biện Đại Thừa thứ 15-5 131
Quyển thứ 56
Hội thứ nhất Phẩm Biện Đại Thừa thứ 15-6 163
Hội thứ nhất Phẩm Khen Đại Thừa thứ 16-1 183
Quyển thứ 57
Hội thứ nhất Phẩm Khen Đại Thừa thứ 16-2 196
Quyển thứ 58
Hội thứ nhất Phẩm Đại Thừa thứ 16-3 225
Quyển thứ 59
Hội thứ nhất Phẩm Khen Đại Thừa thứ 16-4 252
Quyển thứ 60
Hội thứ nhất Phẩm Khen Đại Thừa thứ 16-5 281
Quyển thứ 61
Hội thứ nhất Phẩm Khen Đại Thừa thứ 16-6 311
Hội thứ nhất Phẩm Tùy thuận thứ 17 314
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-1 322
Quyển thứ 62
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-2 343
Quyển thứ 63
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-3 369
Quyển thứ 64
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-4 397
Quyển thứ 65
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-5 424
Quyển thứ 66
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-6 455
Quyển thứ 67
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-7 484
Quyển thứ 68
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-8 513
Quyển thứ 69
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-9 543
Quyển thứ 70
Hội thứ nhất Phẩm Vô sở đắc thứ 18-10 573
Hội thứ nhất Phẩm Quán hạnh thứ 19-1 586
Quyển thứ 71
Hội thứ nhất Phẩm Quán hạnh thứ 19-2 606
Quyển thứ 72
Hội thứ nhất Phẩm Quán hạnh thứ 19-3 636
Quyển thứ 73
Hội thứ nhất Phẩm Quán hạnh thứ 19-4 660
Quyển thứ 74
Hội thứ nhất Phẩm Quán hạnh thứ 19-6 691
Hội thứ nhất Phẩm Vô sanh thứ 20-1 703
Quyển thứ 75
Hội thứ nhất Phẩm Vô sanh thứ 20-2 721
Hội thứ nhất Phẩm Tịnh đạo thứ 21-1 735
Tập 4
Quyển thứ 76
Hội thứ nhất Phẩm Tịnh Đạo thứ 21-2 9
Quyển thứ 77
Hội thứ nhất Phẩm Thiên Đế thứ 22-1 33
Quyển thứ 78
Hội thứ nhất Phẩm Thiên Đế thứ 22-2 58
Quyển thứ 79
Hội thứ nhất Phẩm Thiên Đế thứ 22-3 85
Quyển thứ 80
Hội thứ nhất Phẩm Thiên Đế thứ 22-4 113
Quyển thứ 81
Hội thứ nhất Phẩm Thiên Đế thứ 22-5 141
Hội thứ nhất Phẩm Chư Thiên Tử thứ 23-1 150
Quyển thứ 82
Hội thứ nhất Phẩm Chư Thiên Tử thứ 23-2 171
Hội thứ nhất Phẩm Thọ Giáo thứ 24-1 176
Quyển thứ 83
Hội thứ nhất Phẩm Thọ Giáo thứ 24-2 199
Quyển thứ 84
Hội thứ nhất Phẩm Thọ Giáo thứ 24-3 227
Hội thứ nhất Phẩm Rải Hoa thứ 25 246
Quyển thứ 85
Hội thứ nhất Phẩm Học Bát Nhã thứ 26-1 256
Quyển thứ 86
Hội thứ nhất Phẩm Học Bát Nhã thứ 26-2 284
Quyển thứ 87
Hội thứ nhất Phẩm Học Bát Nhã thứ 26-3 312
Quyển thứ 88
Hội thứ nhất Phẩm Học Bát Nhã thứ 26-4 339
Quyển thứ 89
Hội thứ nhất Phẩm Học Bát Nhã thứ 26-5 365
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-1 384
Quyển thứ 90
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-2 395
Quyển thứ 91
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-3 425
Quyển thứ 92
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-4 459
Quyển thứ 93
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-5 491
Quyển thứ 94
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-6 523
Quyển thứ 95
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-7 549
Quyển thứ 96
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-8 575
Quyển thứ 97
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-9 601
Quyển thứ 98
Hội thứ nhất Phẩm Cầu Bát Nhã thứ 27-10 629
Hội thứ nhất Phẩm Khen Các Đức thứ 28-1 634
Quyển thứ 99
Hội thứ nhất Phẩm Khen Các Đức thứ 28-2 656
Hội thứ nhất Phẩm Nhiếp Thọ thứ 29-1 671
Quyển thứ 100
Hội thứ nhất Phẩm Nhiếp Thọ thứ 29-2 687
Tập 5
Quyển thứ 101
Hội thứ nhất Phẩm Nhiếp Thọ thứ 29-3 9
Quyển thứ 102
Hội thứ nhất Phẩm Nhiếp Thọ thứ 29-4 35
Quyển thứ 103
Hội thứ nhất Phẩm Nhiếp Thọ thứ 29-5 61
Hội thứ nhất Phẩm So Lường Công Đức thứ 30-1 69
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |