ĐỨc tin của ngưỜi công giáo imprimatur sài Gòn, ngày 25-9-1992 +Phaolô Nguyễn Văn Bình



tải về 1.13 Mb.
trang8/11
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.13 Mb.
#38028
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

A- GIÁO HỘI: LỊCH SỬ GIÁO HỘI
CHƯƠNG I
CHÚA KITÔ SÁNG LẬP GIÁO HỘI NGÀI - SỰ KIỆN LỊCH SỬ

MỞ ĐẦU
Trước hết phải ghi nhận sự kiện lịch sử: Chúa Kitô thật sự đã sáng lập trên trần gian Giáo hội này, cần thiết để lưu truyền chân lý và sự sống Ngài .
Chúng ta hãy mở Phúc âm.
Chúng ta gặp sự này:
Chúa Kitô, lúc sinh thời, đã muốn và đã sáng lập:
- một xã hội hữu hình,

- được dẫn dắt do những thủ lãnh,

- dưới quyền một thủ lãnh tối cao.
Xã hội này được gọi trong Phúc âm lúc thì bằng chính danh hiệu: “Nước Trời” hoặc “Nước Thiên Chúa”, lúc thì bằng chính danh từ “Giáo hội” (Mt 16,18 và 18,17).
I. CHÚA GIÊSU KITÔ, TRONG LÚC GIẢNG DẠY, ĐÃ TRÌNH BÀY GIÁO HỘI NGÀI DƯỚI PHƯƠNG DIỆN MỘT XÃ HỘI HỮU HÌNH
Đành rằng, trước mặt Philatô, Ngài đã long trọng quả quyết rằng Nước Ngài “không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Nhưng nói như thế Ngài có ý nhấn mạnh rằng không phải là vua theo lối loài người, nhưng Nước Ngài là Nước các linh hồn.
Trong nhiều đoạn Phúc âm khác chúng ta gặp nhiều ví dụ, nhiều sự so sánh chứng tỏ ý Ngài muốn lập một xã hội hữu hình trên trần gian. Xã hội ấy tiếp tục công việc truyền bá chân lý và thông ban sự sống Ngài cho loài người: Nước Thiên Chúa được trình bày như một thực tại bên ngoàicụ thể, có thể tăng thêm và mở rộng.
Chúng ta hãy nêu ra vài thí dụ:
Mt 13,24-43: So sánh với đồng ruộng có lúa và cỏ lùng.
Mt 13,31-32: So sánh với hạt cải bé tí ám chỉ sự Giáo hội lớn lên dần.
Ga 10,16: Chuồng chiên dưới quyền một mục tử độc nhất.
II. THỰC SỰ, CHÚA GIÊSU KITÔ ĐÃ ĐẶT NHỮNG THỦ LÃNH CÓ QUYỀN THẾ LÀM ĐẦU CÁC TÍN HỮU NGÀI.
a) Chính Ngài đã chọn các thủ lãnh
“Đến sáng, Ngài gọi các môn đệ và Ngài chọn 12 người mà Ngài gọi là tông đồ …” (Lc 6,12-17).

“Không phải các con chọn Ta, nhưng chính Ta chọn các con để các con đi và mang lại hoa quả” (Ga 19,16).


b) Chính Ngài huấn luyện các thủ lãnh.

Ngài muốn họ trở nên những “nhà đánh cá người” (Mt 4,19).


Ngài giáo huấn họ bằng cách riêng: Ngài giải thích cho các đấng ấy ý nghĩa một số dụ ngôn (Mt 13,36).
Ngài dặn dò nhắn nhủ cách riêng (Mt 10, 5-23).
c) Ngài đã uỷ thác cho các thủ lãnh ấy một sứ mệnh.
Sau khi sống lại, Ngài hiện ra cùng với 11 tông đồ trên núi Galilêa và tuyên bố long trọng: “Tất cả mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta. Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Và này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18).
Những bản văn trên quả quyết chẳng những là sứ mệnh của các tông đồ và hàng giáo phẩm trong Giáo hội mà còn sứ mệnh của những đấng nối nghiệp họ cho đến tận thế và trong “khắp thế gian”.
d) Ngài đã ban cho các thủ lãnh ấy những quyền phép đặc biệt. “Tất cả những gì các con cầm buộc trên thế gian thì cũng bị cầm buộc trên trời, tất cả những gì các con tha trên trần gian thì cũng được tha trên trời” (Mt 18,28).
“Hãy nhận Chúa Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai, thì họ được tha”.
Ai nghe các con, là nghe Ta.

Ai khinh các con là khinh Ta (Lc 10,16).


Hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 28,29).

“Hãy làm sự này để nhớ đến Ta” (Lc 22,19).


III. THỰC SỰ CHÚA GIÊSU KITÔ ĐÃ BAN CHO CÁC TÍN HỮU VÀ CÁC THỦ LÃNH NGÀI MỘT THỦ LÃNH TỐI CAO, ĐỘC NHẤT:
a) Ngài đã hứa đặt Phêrô làm đầu các tông đồ khác: “Con có phúc, Simon con Gioan, bởi vì không phải máu mủ đã tỏ sự ấy cho con nhưng Cha Ta trên trời. Còn Ta, Ta bảo con là Đá và trên đá này, Ta sẽ xây Giáo hội Ta và các cửa hoả ngục không làm lay chuyển được. Ta ban cho con chìa khoá Nước Trời; và tất cả những gì con cầm buộc trên trần gian sẽ bị cầm buộc trên trời và tất cả những gì con tháo mở trên trần gian, thì cũng sẽ tháo mở trên trời”.
Chúng ta phải ghi nhớ rằng: trong bản văn trên đây không những quyền riêng và độc nhất Chúa hứa ban cho Phêrô mà còn cả câu “Giáo hội Ta” câu này đủ để nói rõ ý Chúa Kitô muốn sáng lập một xã hội sống động tiếp tục công cuộc cứu độ của Ngài trên trần gian.
Chúng ta cũng nên ghi nhớ luôn rằng những quyền phép ban cho Phêrô sẽ được lưu truyền cho các đấng kế tiếp Phêrô: Giáo hội Chúa Kitô không thể giới hạn cho một thời đại, sự tranh đấu giữa Giáo hội Chúa Kitô và các cửa hoả ngục “kéo dài mãi cho đến tận thế”.
b) Thật sự Chúa Kitô đã ban cho Phêrô địa vị tối cao mà Ngài đã hứa.
Ngài đặt Phêrô làm đầu Giáo hội : sau khi sống lại, Ngài hiện ra gần hồ Tiberiade và sau phép lạ cho bắt được nhiều cá, hai lần Ngài phán cùng Phêrô: “Hãy chăn dắt các chiên Ta”, rồi thêm: “Hãy chăn dắt các chiên mẹ của Ta. Như vậy, Ngài ban cho Phêrô quyền riêng trên các chiên Ngài, nghĩa là chẳng những trên các giáo dân mà còn trên các mục tử khác” (Ga 21,15).
IV. TỪ NHỮNG THẾ KỶ ĐẦU, CHÚNG TA NHẬN THẤY CÓ MỘT GIÁO HỘI, ĐƯỢC TỔ CHỨC VỚI CÁC THỦ LÃNH, CÁC GIÁM MỤC, KẾ NGHIỆP CÁC TÔNG ĐỒ VÀ THỦ LÃNH TỐI CAO LÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG, ĐẤNG KẾ VỊ THÁNH PHÊRÔ.
Chúng ta hãy kể ra đây một ít bằng chứng lịch sử:
a) Công vụ các tông đồ của Thánh Luca:
Chúng ta gặp bài tường thuật Công đồng thứ nhất Jêrusalem, ở đấy các tông đồ hội họp dưới quyền Thánh Phêrô, lấy những quyết định theo phương thức danh tiếng “Chúa Thánh Thần và chúng tôi quyết định”. (Năm 50 sau Chúa Cứu Thế ) (Cv 15,28).
b) Thánh Clément thành Rôma, môn đệ trực tiếp Thánh Phêrô và Phaolô tông đồ và Giáo hoàng thứ IV, Ngài viết lối 96-98 sau Chúa Cứu Thế : “Các tông đồ được Chúa Kitô phái đến, mang Phúc âm lại cho chúng ta, và Chúa Kitô cũng là đấng được Thiên Chúa sai đến. Vậy Chúa Kitô là đại sứ của Thiên Chúa; các tông đồ là thừa sai của Chúa Kitô”.
c) Thánh Ignace thành Antioche: viết cuối thế kỷ I: “Tất cả những kẻ thuộc về Thiên Chúa và Đức Kitô Giêsu thì hiệp nhất với Giám mục”. Chỗ khác Ngài viết: “Giám mục ở đâu, dân chúng phải ở đấy, cũng như Chúa Kitô ở đâu, Giáo hội Công giáo cũng ở đấy”.
KẾT LUẬN: Chúa Kitô đã muốn rằng chân lý và sự sống mà Ngài đem đến cho nhân loại được lưu truyền nhờ một xã hội sống động và có phẩm trật.
Vậy ai muốn được chân lý hoàn toàn và sự sống Thiên Chúa, phải qua Chúa Kitô để đến Thiên Chúa, phải qua Giáo hội để đến Chúa Kitô.

--------------////-------------



CHƯƠNG II
PHÉP LẠ GIÁO HỘI

THEO DÒNG THẾ KỶ

MỞ ĐẦU
Chúa Giêsu đã uỷ thác cho các thủ lãnh Giáo hội Ngài sứ mệnh giảng dạy và rửa tội “mọi dân tộc”, Ngài nói thêm: “Này Ta ở cùng các con cho tới tận thế” (Mt 28,20).
Từ đây lời hứa long trọng này đã được thực hiện: Ngày nay Giáo hội luôn luôn đứng vững, sau 20 thế kỷ lịch sử, trải qua thời gian ấy, Giáo hội hầu như luôn luôn phải đương đầu với những cuộc tấn công bên trong và bên ngoài. Mặc dầu có những cuộc khủng hoảng trong đó, hơn một lần, theo mắt trần, tình trạng Giáo hội hình như nguy ngập và có khi tuyệt vọng, Giáo hội với ơn Chúa giúp đã duy trì được nguyên vẹn sự độc lập và sức sống của mình.
Một vài nét đại cương về những cuộc tranh đấu mà Giáo hội phải đương đầu từ ngày được sáng lập cho đến ngày nay sẽ làm cho chúng ta nhận thấy điều mà người ta gọi không chút phóng đại : “Phép lạ Giáo hội”.
Chúng ta chia đoạn này ra làm 2 phần:
a) Mặc dầu những nguy cơ bên ngoài, Giáo hội Công giáo đã gìn giữ được nguyên vẹn sự kiên cố lịch sử của mình.
b) Mặc dầu những nguy cơ bên trong, Giáo hội Công giáo đã giữ gìn nguyên vẹn sự kiên cố giáo lý của mình.

I. SỰ KIÊN CỐ LỊCH SỬ CỦA GIÁO HỘI, BẤT CHẤP NHỮNG NGUY NGẬP BÊN NGOÀI


1) Nguy cơ Do Thái (thế kỷ I).
Vừa ra đời, Giáo hội đã phải giải quyết một vấn đề quan trọng mà sự giải quyết đả động đến cả nền tảng của mình: có buộc phải đòi hỏi như một điều kiện để được rửa tội là phải qua những lễ nghi tôn giáo Do Thái trước không?
Các thủ lãnh đầu tiên của Giáo hội là những người Do thái, họ có thể bị quyến rũ đặt một ách nặng trên những kẻ trở lại đầu tiên.
Nhưng thánh Phaolô tự đặt mình làm biện hộ cho sự độc lập và theo ngài, tại Công đồng Jêrusalem năm 56, các tông đồ dứt bỏ những nghi lễ Do Thái, vì sứ mệnh DoThái đã hết và từ nay Giáo hội Chúa Kitô thay thế.
2) Những cuộc bắt đạo do La Mã (3 thế kỷ đầu).
Từ đầu, Giáo hội bị quyền bính La Mã xem như là một sự mới lạ nguy hiểm, và sau lại bị coi như là một thế lực làm trở ngại cần phải tiêu diệt.
Các hoàng đế khủng bố Giáo hội một cách kịch liệt. Họ dùng mọi hình khổ để bắt các tín hữu bỏ đạo: trục xuất, đày ra các cù lao, bắt làm việc khổ sai trong các mỏ, chặt đầu, đóng đanh, thiêu đốt, bỏ cho thú vật ăn, không kể mất các chức tước và bị tịch thu tài sản.
Sau 3 thế kỷ, bị bắt bớ gần như không ngừng, Giáo hội lại trở nên mạnh mẽ hơn khi nào hết.
Năm 313, đời hoàng đế La Mã Constantinô, các Kitô hữu được tự do bình an (Sắc chỉ Mi Lan) và năm 337 Hoàng đế tự xin rửa tội.
3) Những cuộc xâm lăng man di (thế kỷ thứ 5).
Nguy cơ mới: Giáo hội nương tựa trên ngai các vua Chúa có thể sẽ đồng số phận với đế quốc La Mã suy đồi và chết dưới lực lượng các cuộc xâm lăng man di.
Tràn xông vào đế quốc La Mã và chiếm thành Roma để đặt Odoacre, một người của họ lên ngôi, quân man di ghét cả đế quốc lẫn Giáo hội.
Nhưng Giáo hội cũng thoát khỏi được cơn thử thách nay vẫn nguyên vẹn và lớn thêm: không chịu liên đới trách nhiệm với dĩ vãng, Giáo hội bảo giản quay về tương lai và Giáo hội không khiếp sợ còn tính chuyện khai hoá cả bọn man di. Không run sợ, Giáo hội nhất định làm cho dân man di trở lại. Thánh Rémi rửa tội cho Vua Clovis tại thành Reims năm 496 và thánh Giáo hoàng Grégerio sai truyền giáo cho dân Anglo Saxon, đấy là những ngày thánh lịch sử đáng ghi nhớ trong khúc quanh này của Giáo hội.
KẾT QUẢ. Không đầy 3 thế kỷ, tất cả các dân tộc Nhật Nhĩ man đã trở lại đạo Công giáo.
4) Mưu toan áp chế Giáo hội thời phong kiến (thế kỷ 10 tới 14).
Vài thế kỷ sau, một nguy cơ mới đe doạ Giáo hội : chính quyền phong kiến vượt qua khu vực mình, mưu toan áp bức Giáo hội, muốn dùng Giáo hội như một dụng cụ dễ bảo. Các vua tự chọn các Giám mục và cả Giáo hoàng. Họ đặt những người của họ làm đầu coi sóc các xứ và các tu viện. Đấy là vụ “tranh quyền phong chức”, một cuộc chiến tranh thật giữa Nhà nước và Giáo hội. Trong vụ này, Giáo hội lại cũng thắng: Đức Giáo hoàng Lêô IX nhờ sự hiền từ của Ngài , và Đức Giáo hoàng Grégerio VII nhờ sự cương nghị đã quả quyết sự ưu thế thiêng liêng của Giáo hội chống lại các hoàng đế và các vua chúa.
Cuối cùng Hoàng đế nước Đức chấp nhận và ký Hiệp Ước Worms năm 1122. Ở Pháp, vua Philiphê le Bel (1285-1314) hai thế kỷ sau, chống lại Đức Giáo Hoàng Boniface VIII: vua muốn bắt Giáo hội lệ thuộc quyền đời, vua đặt ngai Giáo hoàng tại Avignon. Nhưng năm 1377, sau 69 năm lưu đày, quyền Giáo hoàng độc lập, trở về Roma.
5) Những cuộc tranh đấu hiện đại chống Giáo hội.
Thế kỷ 16 và 17 những nguy cơ của Giáo hội phần lớn lại từ bên trong xảy ra (thuyết tin lành và Jêrusalem (sẽ nói sau.)
Nhưng thế kỷ 18 cuộc xung đột bên ngoài khởi sự lại.
Ở Pháp cách mạng cố tìm tiêu diệt Giáo hội (Hiến pháp dân sự của hàng giáo phẩm, bắt bớ các linh mục, đóng cửa các nhà thờ, tôn thờ thần Lý trí) Rồi chính Napoleon bỏ tù Đức Giáo hoàng Piô VII tại Fontainebleau. Ở Đức, trong 90 năm đầu thế kỷ 19, người ta ghi nhận một cuộc chống đối Công giáo kịch liệt. Bismarck mưu toan lập Giáo hội quốc gia Đức, vin lẽ rằng để phản đối tín điều Đức Giáo hoàng không thể sai lầm được, tuyên bố tại công đồng Vaticano năm 1870. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, ở Pháp hội Tam Điểm (bè nhiệm) lại chống Giáo hội (Gambetta, Jules, Ferry, Combes): họ đặt các luật về ly dị, về học đường, về các hội đoàn, và tách Giáo hội khỏi chính quyền.

Ngày nay, Giáo hội hưởng thụ 20 thế kỷ tranh đấu và thắng trận, còn luôn luôn đứng vững, sống động khắp nơi, và mặc dầu những chống đối và thù ghét, Giáo hội còn có thể tiếp tục công việc chân lý và bác ái của mình trong một thế giới xáo trộn và mất thăng bằng vì chiến tranh.


II. SỰ KIÊN CỐ GIÁO LÝ CỦA GIÁO HỘI

Mặc dầu có những nguy cơ bên trong, sự kiên cố về giáo lý của Giáo hội lại càng lạ lùng kỳ diệu hơn nữa. Giáo hội vẫn giữ được đức tin mình nguyên vẹn tinh tuyền không bị bụi đời làm hoen ố, mặc dầu những mối tà thuyết, theo thường lệ, có lẽ đã làm sụp đổ hết đức tin và luân lý của Giáo hội .


Có những lạc giáo (chỉ tin một số tín điều mình chọn), và ly giáo (không phục quyền Giáo hoàng) nổi dậy trong lòng Giáo hội trải qua các thế kỷ.
Chúng ta kể qua ra đây:
1) Duy trí (= Trực quan thuyết) chủ nghĩa (Gnosticisme) (thế kỷ 2)
Phái thuyết này quả quyết rằng trong vũ trụ có hai nguyên lý: sự lành là Thiên Chúa , sự dữ là vật chất. Một hậu quả thần học do thuyết này gây ra là: thân xác thuộc về vật chất, nguyên lý xấu. Vậy Chúa Kitô chỉ mặc “hình dáng thân xác”, như thế thuyết này chối Mầu nhiệm nhập thể.
2) Arianisme (thế kỷ thứ 4):
Một thế kỷ rưỡi sau, Giáo hội lại phải đương đầu với một cuộc tranh luận thần học nữa. ARIUS, linh mục thành Alexandria, chống lại bản tính Thiên Chúa của Chúa Kitô. Arius cho rằng Con không đồng nhất thể với Cha và không tin Con cũng bằng Cha.
Thánh Athanase chống lại tà thuyết Arius, công đồng Nicée (325) và Constantinope (318) kết án nó. Tà thuyết Arius chỉ biến dần trong lãng quên và theo người đời, người ta không thể hiểu được làm sao Giáo hội chỗi dậy sau một cơn khủng hoảng như vậy.
3) Cảnh giáo và độc tính thuyết (Nestorianisme và Monophysisme). Thế kỷ V, Nestorius lại chủ trương rằng trong Chúa Giêsu chẳng những có hai tính mà còn có hai ngôi. Vì vậy Đức Mẹ Maria chỉ là Mẹ của con người Giêsu.
Thánh Cyrilie, giám mục thành Alexandria, tại công đồng Ephêsô năm 431 kết án tà thuyết Nestorius và quả quyết rằng Đức Maria thật là Mẹ Thiên Chúa. Eutyches, tu sĩ ở Constantinope, ngược lại, nói rằng trong Chúa Giêsu chỉ có một bản tính, Bản tính Thiên Chúa.
Công đồng Chalcedo năm 451 kết án tà thuyết này và tuyên bố long trọng Chúa Giêsu có hai tính: tính Thiên Chúa và tính loài người kết hợp trong một “ngôi”: ngôi Con Thiên Chúa .
4) Pélagianisme (thế kỷ 4 và 5).
Pélagiô, một tu sĩ, chống lại tín điều ơn Thánh. Ông quả quyết rằng loài người tự sức mình không cần ơn Chúa giúp, cũng được rỗi linh hồn.
Thánh Augustinô, thế kỷ thứ 5, bênh vực ơn Thánh chống lại tà thuyết Pélagiô.
5) Ly giáo Đông phương (thế kỷ 9 và 11). Ly giáo Hy Lạp ra đời dựa trên nguyên tắc này rằng: Giám mục thành Constantinope phải có quyền ưu tiên ngay liền sau Giám mục thành Roma: như thế là bắt hàng giáo phẩm các Giáo hội lệ thuộc vào hiến pháp nhà nước chứ không bắt nguồn từ các tông đồ. Bởi vậy Giám mục thành Constantinope tự cho mình chức tước “thượng phụ” và làm chủ quyền trong cả Đông phương.
Công đồng Constantinope năm 381 chấp nhận nguyên tắc trên đây nhưng Đức Thánh Cha khong đồng ý và kết án tà thuyết ly giáo Đông phương.
Photius (857) và Cerrulaire, (1054) chống lại tỏ tường với Đức Giáo hoàng và ly khai với Roma.
Ly giáo của Giáo hội Hy Lạp gọi là “chính thống” lôi theo ly giáo Nga sô – Ly giáo Nga sô nhìn nhận chỉ có giáo quyền là quyền Nga hoàng.
Ngày nay, các tín hữu các Giáo hội Đông phương tách biệt Roma làm thành những công đồng độc lập, bao nhiêu quốc gia bấy nhiêu Giáo hội : Giáo hội : Nga, Hy Lạp, Rumani…
6) Tà thuyết Albigeoise (thế kỷ 12 và13)
Đời Trung cổ tà thuyết nguy hiểm nhất là tà Albigoeise, bên Pháp. Bè rối này quả quyết có hai thần: thần sự lành và thần sự dữ. Các tín hữu chia ra làm hai lớp: lớp người trong sạch hay trọn lành sống trong sự nhiệm nhặt và không kết hôn. Lớp người thường sống theo tình dục họ.
Tà thuyết này kết thúc một cách đẫm máu do đoàn Nghĩa binh Albigeoise.

7) Phong trào Phục hưng (cuối thế kỷ 15 và 16).
Sự trở lại với nguồn cảm đời thượng cổ đánh dấu thời Phục hưng. Tự nó, tốt lắm. Nhưng đồng thời nó gây nên cả trong Giáo hội một sự trở lại đời sống ngoại giáo tai hại với những chủ trương : lý trí độc lập, bỏ tất cả quyền hành hay luật luân lý, chủ trương khoái lạc. Giáo hội dễ bị lây phải. Thánh Phanxicô đệ Salêsiô chứng tỏ rằng người ta có thể lấy những cái hay cái tốt trong thời cổ mà không cần phải bỏ lý tưởng Kitô giáo (nhân văn chủ nghĩa Kitô giáo).
8) Phong trào “Cải cách” Tin lành:
Thật là một cơn bão táp lớn nhất cho Giáo hội. Không phải chỉ một tín điều nọ tín điều kia bị đả kích nhưng chính vấn đề giải thích Kinh Thánh và sự cần thiết của Giáo hội hữu hình bị đả động.
Thệ phản hay Tin lành ra đời thế kỷ 16.
Ở thế kỷ này có những lạm dụng, những tệ tập đã xảy ra trong Giáo hội, cần phải có một sự cải thiện. Một tu sĩ, Martin Luther (1283- 1546), tự đề xướng thực hiện cải cách ngoài Giáo hội và chống lại Giáo hội. Ông chống đối ra mặt với Đức Giáo hoàng về vấn đề ân xá, và tội tổ tông , về sự giải thích Kinh Thánh, về sự độc thân của các linh mục.
Với sự giúp đỡ các hoàng đế Đức, Luther xúi giục một phần lớn nước Đức chống lại Roma và đoạn tuyệt với Giáo hội Roma.
Chúng ta hãy thêm rằng: Giáo hội cũng đã thực hiện cải cách của mình: Công đồng Tridentinô (1545-1563) đã đem lại cho giáo lý những tia sáng cần thiết để cải chính những sự sai lầm và đem lại cho lề luật nhiều điều luật cần sửa đổi các thói xấu, nhất là về vấn đề đào luyện hàng giáo sĩ.
Ở Thụy Sĩ, Zwingle, một đệ tử của Luther (1484- 1564) phổ biến lý thuyết tin lành, lấy Genève làm kinh đô cho Giáo hội cải cách.
Ở Pháp, dưới ảnh hưởng của Calvin, những cuộc tranh luận tôn giáo, được chính trị nuôi dưỡng, phân chia các tâm hồn thành hai bè chống nhau, suốt 30 năm.

Đấy là chiến tranh tôn giáo.


Ở Anh quốc, phong trào cải cách đầu tiên chỉ là một ly giáo do vua Henri VIII (1509-1547) gây ra. Henri VIII đoạn tuyệt với Roma, chỉ vì Đức Giáo hoàng Clément VII năm 1527 từ chối không tuyên bố rằng cuộc hôn nhân nhà vua không thành. Những vua kế tiếp vua Henri VIII nhất là vua Edouard VI và hoàng hậu Elizabeth lập giáo phái Anh quốc.
Ngày nay, ba ngành Tin lành (Luther, Calvin và giáo phái Anh quốc) được chia ra nhiều phái.
CHÚ Ý: Kể chung, Tin lành tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Nhưng họ khác chúng ta ở những điểm chính sau đây:


  • Không vâng phục Đức Giáo hoàng.

  • Tự do giải thích Kinh Thánh.

  • Lý thuyết về tội tổ tông và tiền định.

  • Quan niệm bên ngoài về sự công chính hoá.

  • Không tin Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể.

  • Chủ trương không có luyện ngục.

  • Không tin Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

  • Bỏ sự tôn sùng các Thánh và ảnh tượng thánh.

  • Bỏ các ơn xá.

9) Tà thuyết: Dương thân chủ nghĩa (Janséneus) thế kỷ 17 (đạo đức khắc khổ nghiêm nhặt).
Bàn lại vấn đề rỗi linh hồn, Jansénius, giám mục thành Ypres và các đệ tử rơi vào tà thuyết ngược hẳn lại tà thuyết Pélagiô xưa.
Pélagiô chủ trương: Loài người tự sức mình là có thể được rỗi linh hồn, chứ không cần ơn Chúa.

Jansénius quả quyết: “Sự rỗi linh hồn chỉ là việc của Chúa. Con người được tiền định lên Thiên đàng hay xuống hoả ngục, con người tự mình không thể làm gì được hết”.


Tà thuyết Janséneus bị Giáo hội kết án, đã đầu độc một số đông linh hồn. Ngày nay ảnh hưởng còn chưa tắt.
10) Vô tín ngưỡng đời nay: thế kỷ 18 và 20.
Vô tín ngưỡng, từ thế kỷ 18, chống lại chính nguyên tắc của tín ngưỡng tôn giáo và tuyên bố tự do tư tưởng.
Ở Đức, có những lý thuyết mới ra đời với Karl Marx (1818- 1883), ông tổ chủ nghĩa xã hội và Frederic Nietzche (1844-1990), tác giả thuyết siêu nhân.
Ở Pháp, ba nhân vật đều toa rập tấn công đã phá Giáo hội , đức tin và luân lý:
Voltaire: (1694-1778): suốt đời chế diễu tôn giáo và các đấng trong giáo phẩm.
Reman: (1823-1892), một nhà văn lỗi lạc, bề ngoài có vẻ kính trọng Chúa Kitô, nhưng sự thực đã tìm cách tiêu diệt đức tin trong các linh hồn.

Anotole France: (1844-1924): Nhà văn ham khoái lạc và sắc sảo mỉa mai tất cả những gì là đáng kính.
Ngày nay, song song với một mùa xuân Công giáo trong văn chương Pháp mà Paul Claudel là nhân vật danh tiếng nhất, một số nhà văn băn khoăn về vấn đề tôn giáo: André Gide, Montherlant, Camus.
Một số nhà văn khác, với Jean Paul Sartre và trường của ông, cố xây dựng một triết lý có mạch lạc: thuyết hiện sinh vô thần.
Lịch sử Giáo hội tiếp tục, trong một thế giới lạc hướng đang tìm đường…
KẾT LUẬN: Chúng ta mượn tư tưởng của Pascal để kết luận:
Cái điều kỳ diệu và hoàn toàn thần linh, là tôn giáo này luôn luôn bị đả kích, vẫn tồn tại. Ngàn lần, sắp bị tiêu diệt toàn diện, và mỗi lần trong tình trạng này, Thiên Chúa dùng quyền năng Người đã cho đứng dậy. Pascal lại thêm: “Tôn giáo này được duy trì và không bị lay chuyển, đó là bằng chứng tôn giáo này của Thiên Chúa”. Trước sức sống lạ lùng này, chúng ta cũng sẽ nói chỉ có Thiên Chúa mới có thể gìn giữ Giáo hội Người được như vậy.
Đàng khác, Chúa Giêsu lại chẳng hứa rằng với ơn Ngài giúp, lực lượng hoả ngục không làm lay chuyển Giáo hội xây trên Đá đó ư?


B. GIÁO HỘI: BẢN TÍNH CỦA GIÁO HỘI
CHƯƠNG III
ĐẶC TÍNH CỐT YẾU

CỦA GIÁO HỘI

MỞ ĐẦU
Ngày nay, sau 20 thế kỷ chiến đấu và thắng trận, mà chúng ta đã tường thuật, Giáo hội Công giáo La Mã tự phô bày trước mắt chúng ta như là cơ quan cần thiết, Chúa Kitô đã muốn và sáng lập, để truyền đạt và phổ biến trong thế giới chân lý Thiên Chúa và đời sống Thiên Chúa.
Muốn bênh vực một yếu sách như vậy, và nhận thức một sứ mệnh như thế, Giáo hội phải kêu gọi đến dĩ vãng và hiện tại để qủa quyết với đủ bằng chứng rằng ở thế kỷ thứ 20 này cũng như các thế kỷ đầu, trong tổ chức, trong giáo lý và trong đời sống mình, Giáo hội có những đặc tính mà Chúa Giêsu Đấng sáng lập muốn cho Giáo hội Ngài.
Đây là những đặc tính chính:

  • Duy nhất

  • Thánh thiện

  • Công giáo

  • Tông truyền.

Đó là những đặc tính chúng ta tuyên xưng khi chúng ta hát trong kinh Tin Kính: Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.


I. CHÚA GIÊSU ĐÃ MUỐN GIÁO HỘI NGÀI DUY NHẤT: GIÁO HỘI ROMA LÀ ĐỘC NHẤT:
a) Chúa Giêsu chỉ muốn có một Giáo hội:
Giáo hội “của Chúa Giêsu” phải duy nhất dưới ba phương diện:
- Duy nhất trong giáo lý mà Giáo hội dạy, bởi vì sẽ mâu thuẫn nếu có nhiều chân lý nghịch nhau. Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ: “Hãy dạy các dân tộc và dạy họ giữ điều răn của Ta” (Mc 28,19-20).
- Duy nhất trong quyền hành: “Chỉ có một đoàn chiên và một đấng chăn” (Ga 10,16).
- Duy nhất trong đời sống: “Con cầu cho những kẻ tin Con để họ được nên một như Cha trong Con và Con trong Cha, để họ nên một trong Chúng Ta” (Ga 17,20-21).
b) Giáo hội Roma là duy nhất.
1) Trong giáo lý. Thánh Phaolô viết: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một đức tin” (Êph 4,6).
Nếu ai, cả đến Thánh Thần, giảng cho anh em một Phúc âm khác, người đó sẽ bị trục xuất (Gl 1,8).
Ngày nay, Giáo hội Công giáo Roma cũng có thể nói như vậy.
Tất cả mọi tín hữu trong khắp thế giới học cùng một giáo lý, hát cùng một kinh Tin Kính và tin hoàn toàn cùng những chân lý như nhau.

2) Duy nhất trong quyền hành.
Giáo hội Công giáo Roma chỉ có một thủ lãnh, thay mặt Chúa Giêsu trên trần gian: ấy là Đức Giáo hoàng - Đức Giáo hoàng chọn các giám mục và đặt các ngài làm đầu các địa phận, các giám mục hợp nhất với Đức Giáo hoàng.

Các giáo dân và các linh mục trong thế giới phải vâng lời Đức Giáo hoàng.


3) Duy nhất trong đời sống.
Các phép Bí tích phân phát trong cả Giáo hội đều như nhau: “Chỉ có một phép rửa tội” (Ep 4,5).
Ngày nay, trẻ em Việt nam, trẻ em Trung Hoa, trẻ em Pháp, trẻ em Phi châu, trẻ em Mỹ châu cũng đều chịu một phép rửa tội như sau.
Các người Công giáo khắp năm châu tất cả đều cùng chịu phép bí tích Thánh Thể, các bí tích Giải tội, Hôn nhân, Xức dầu thánh. Các linh mục không kể nòi giống đen, trắng hay vàng đều chịu cùng một phép bí tích Truyền chức.
Sau hết, mặc dầu có những lễ nghi bên ngoài khác nhau, cũng một thánh lễ đuợc cử hành trên khắp hoàn cầu, cũng một sự thờ phượng mà mọi người tín hữu của Giáo hội Công giáo dâng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô.
II. CHÚA GIÊSU ĐÃ MUỐN GIÁO HỘI NGÀI THÁNH THIỆN: GIÁO HỘI ROMA LÀ THÁNH THIỆN.
a) Chúa Giêsu đã muốn Giáo hội Ngài thánh thiện.
Ngài phán: “Ta đến để ban sự sống và ban sự sống dồi dào” (Ga 10,10).
Chúng ta đã nói trước đây Chúa Kitô đã đến để trả lại cho chúng ta đời sống Thiên Chúa của ơn sủng mà Adong đã làm mất. Và Ngài đã sáng lập Giáo hội Ngài để lưu truyền sự sống ấy. Trong ý của Chúa Kitô , mọi người đều có thể trở nên thánh được. Sự thánh thiện sẽ là một đặc tính của Giáo hội Chúa Kitô, nếu thực sự người ta luôn luôn thấy nơi tín hữu, nhiều gương thánh thiện rạng ngời, chứng tỏ rằng một linh hồn có thể lên đến đâu khi linh hồn ấy thực hiện hoàn toàn lý tưởng của sự thánh thiện Kitô.
b) Giáo hội Roma là thánh thiện
Nhờ giáo huấn mà Giáo hội ban bố cho tín hữu, nhờ những điều răn và lời khuyên bảo, nhờ các bí tích mà Giáo hội phân phát cho họ, mọi người có thể nên thánh. Nếu có những phần tử trong Giáo hội đã xa lý tưởng thánh thiện, lỗi là ở chỗ họ đã lạm dụng tự do của họ mà không nghe lời Giáo hội dạy bảo, không giữ giới răn, cũng không chịu các bí tích.
Nhưng thực sự, suốt lịch sử mình, Giáo hội Công giáo đã hãnh diện nêu lên vô số gương thánh thiện anh hùng. Trải qua mọi thời đại, thuộc mọi giống nòi, mọi giai cấp, có những bằng chứng sống động làm sáng tỏ sự thánh thiện của Giáo hội. Có những thánh hiện đại như: Cha sứ Ars, thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu, thánh Bernadetta, Catherine Labouré, v.v…
III. CHÚA GIÊSU ĐÃ MUỐN GIÁO HỘI NGÀI LÀ CÔNG GIÁO: GIÁO HỘI ROMA LÀ CÔNG GIÁO
a) Chúa Giêsu đã muốn Giáo hội Ngài là Công giáo

Danh từ “Công giáo” nghĩa là “phổ quát”, là chung cho hết mọi người.


Chúa cứu chuộc hết mọi người, Giáo hội phải thông ban ơn cứu chuộc cho mọi người chẳng trừ ai. Chúa Giêsu đã phán: “Phúc âm này sẽ được rao giảng khắp hoàn cầu cho mọi dân tộc” (Mt 24,14).
“Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Phúc âm cho mọi loài” (Mt 16,15). Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy… khắp cùng trái đất” (Cv 1,8).
b) Giáo hội Roma Công giáo:
Nói rằng Giáo hội Roma là công giáo nghĩa là tự bản tính Giáo hội là phổ quát, đời sống mà Giáo hội mang phải được tràn lan khắp nơi, và Giáo hội được sáng lập cho cả nhân loại, vì vậy bao lâu chưa được đạt tới toàn thể nhân loại, Giáo hội còn phải cố gắng chinh phục hết những phần tử còn ở ngoài Giáo hội.
Trong 20 thế kỷ, Giáo hội đã chứng tỏ rằng Giáo hội có thể biến đổi tất cả mọi hình thức văn hoá và trong mỗi một văn hoá tất cả mọi sinh hoạt, tất cả mọi tuổi và mọi hoàn cảnh, và trong mỗi một người, mọi phương diện hoạt động của con người: trí thức, gia đình, nghề nghiệp, xã hội, công dân, quốc tế. Bởi Giáo hội đạt tới trong con người cái gì là thâm sâu, là phổ quát, đồng thời, Giáo hội chứng tỏ có thể kết hợp tất cả mọi người trong một cộng đồng bác ái không phân biệt màu da nòi giống (ngoài ra, Giáo hội là công giáo còn có nghĩa là giáo lý và đời sống do Giáo hội ban ra, có thể thoả mãn mọi nhu cầu, mọi ước vọng chính đáng của con người).
Các cuộc truyền giáo (và nói chung, tất cả các việc tông đồ của Giáo hội) nói lên một cách sống động đặc tính Công giáo này và đồng thời là bằng chứng hiệu quả của đặc tính ấy.
IV. CHÚA GIÊSU ĐÃ MUỐN GIÁO HỘI NGÀI LÀ TÔNG TRUYỀN: GIÁO HỘI ROMA LÀ TÔNG TRUYỀN:
a) Chúa Giêsu đã muốn Giáo hội Ngài là tông truyền, nghĩa là nối liền với các tông đồ, bắt nguồn với các tông đồ .
Ý Chúa Kitô lúc uỷ thác cho các tông đồ sứ mệnh giảng dạy và rửa tội là một đàng các đấng kế tiếp các tông đồ được nối liền với họ bằng một sự kế thừa hợp pháp và không gián đoạn và một đàng giáo lý mà các đấng kế vị giảng dạy là giáo lý mà chính Ngài đã dạy cho các tông đồ. “Thầy ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt 28,20).
b) Giáo hội Roma là tông truyền
Nếu người ta quan sát sự kế tiếp các thủ lãnh hữu hình của Giáo hội (Đức Giáo hoàng và các Giám mục) người ta nhận thấy Giáo hội lên tới các tông đồ bằng một sợi dây liên lạc không gián đoạn (Piô XII - 258, Gioan 23-259, Paul VI - 260). Chúng ta có một danh sách tất cả các Giáo hoàng từ thánh Phêrô là đấng thay mặt Chúa đầu tiên, đến Đức Phaolô VI là đấng thứ 260, Gioan- Phaolô I- 261, và Gioan Phalô II- 262.
Nếu người ta quan sát giáo lý, giáo lý ngày nay nguyên vẹn là giáo lý mà các tông đồ để lại cho chúng ta. Đành rằng có những tiến triển nhưng không phải trong sự khởi thảo những tín điều mới, mà chính là trong sự hiểu biết và giải thích giáo lý Phúc âm sâu xa hơn.
Lời chú thích lịch sử
Sự ly giáo Tây phương (1377-1418) phân chia Giáo hội về vấn đề hợp pháp về quyền giáo hoàng không làm tổn thương nào đến sự tông truyền của Giáo hội. Chỉ có một giáo hoàng hợp pháp, giáo hoàng thành Roma được chọn trước nhất. Như thế, sự kế tiếp của các giáo hoàng với thánh Phêrô không bị gián đoạn.

tải về 1.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương