ĐỨc tin của ngưỜi công giáo imprimatur sài Gòn, ngày 25-9-1992 +Phaolô Nguyễn Văn Bình



tải về 1.13 Mb.
trang7/11
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.13 Mb.
#38028
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

KẾT LUẬN
HẬU QUẢ

CỦA MẦU NHIỆM NHẬP THỂ

Hai tính trong một Ngôi: đó là mầu nhiệm nhập thể.
Thánh Gioan diễn tả chân lý ấy như sau: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”( Ga 1,14).
Và thánh Phaolô: “Đức Giêsu Kitô có bản tính Thiên Chúa, Ngài không giữ cho mình sự ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng Ngài tự hạ mình nhận lấy bản tính tôi tớ và trở nên giống mọi người khác” (Phil 2,6-7).
Hậu quả của hai bản tính trong một Ngôi Vị Con Thiên Chúa là tất cả những gì là nhân loại trong Đức Giêsu Kitô đều có thể quy về Con Thiên Chúa: chính Con Thiên Chúa đã ăn, ngủ, nói và đau khổ.
Vì vậy chúng ta gọi Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta kính Trái Tim Chúa Giêsu , vì trái tim là biểu hiện của tình yêu.
Đàng khác, chúng ta được chuẩn bị để hiểu dễ dàng hơn mầu nhiệm Cứu Chuộc: Nhờ bản tính nhân loại mà Chúa Kitô đã chịu chết trên cây thánh giá. Nhưng Đấng đã chịu chết ấy lại là Con Thiên Chúa, nên hậu quả của cái chết này là một hậu quả của Thiên Chúa : trả lại sự sống cho loại người; loài người có thể trở nên “con nuôi” của Thiên Chúa .


KẾT LUẬN THỰC HÀNH
NGƯỜI KITÔ VÀ CHÚA GIÊSU KITÔ
Chính Chúa Kitô đã nói rõ địa vị Ngài phải chiếm trong đời sống các người Kitô, đồ đệ của Ngài, khi Ngài tuyên bố trước các tông đồ, ngày thứ Năm Tuần Thánh: “Ta là Đàng, là Chân lý và là Sự sống” (Ga 14,6).
Ta là Đàng: Nghĩa là đường phải theo từ đây để đi tới Chúa Cha. “Không có ai tới Chúa Cha mà không qua Ta” (Ga 14,6). Nhờ sự nhập thể của Ngài . Ngài trở nên Đấng trung gian, nghĩa là, giây nối Chúa Cha (mà Ngài là Chúa Con từ đời đời) và loài người (mà Ngài nhập thể đã trở nên người anh).
Bởi đó, chúng ta có những mối liên lạc mới với Thiên Chúa:


  • liên lạc con cái với Cha chúng ta trên trời,

  • liên lạc yêu đương với Chúa Kitô người anh của chúng ta ,

  • liên lạc thân ái với Chúa Thánh Thần , ân huệ mà Chúa Cha ban cho chúng ta bởi Chúa Con.

Từ đây Ơn Thánh từ Chúa Cha đến với chúng ta qua Chúa Con và tất cả kinh nguyện của chúng ta cũng phải qua Chúa Con mà lên tới Chúa Cha : “Nhờ Chúa Kitô , Chúa chúng tôi”.


Ta là Chân lý : Chúa Kitô đến mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và tất cả các chân lý Thiên Chúa cần thiết để làm nền tảng cho đời sống của chúng ta. “Ta đến thế gian này để làm chứng cho chân lý, Kẻ nào thuộc về chân lý thì nghe lời Ta” (Ga 18,37).
“Ta là ánh sáng thế gian: Ai theo Ta không đi trong bóng tối nhưng sẽ có ánh sáng sự sống (Ga 8,12).
Đối với người Kitô, Phúc âm dẫn đường soi lối cho biết phải tư tưởng và phải sống thể nào. Từ đây, chúng ta chỉ có Một Thầy là Chúa Kitô (Mt 23,10).
Ta là Sự sống: “Ta đến, Chúa Giêsu nói, để ban sự sống, và ban dồi dào” (Ga 10,10).Sự sống đây chính là sự sống Thiên Chúa của ơn thánh sủng. Nhờ cái chết của Ngài trên thập giá, Ngài đến để trả lại sự sống cho chúng ta. Ngài đến Phục hưng kế hoạch Thiên Chúa về con người mà tội Adong đã làm ngăn trở: Mầu nhiệm tình thương, mầu nhiệm sự sống, mà chúng ta gọi là mầu nhiệm Cứu Chuộc.
Mầu nhiệm này sẽ được chiêm ngưỡng với cả các chi tiết trong các bài học sau đây, để chúng ta hiểu rõ hơn địa vị Chúa Kitô phải có trong đời sống con người và người Kitô hữu của chúng ta, đời sống được tóm kết trong câu bất hủ của thánh Phalô: “Đối với tôi, Chúa Kitô là đời sống tôi” (Phil 1,21).

CHƯƠNG III
SỰ SỐNG ĐƯỢC TRẢ LẠI

CHO CHÚNG TA NHƯ THẾ NÀO?

SỰ CHẾT CỦA CHÚA KITÔ

TRÊN THÁNH GIÁ

I. LỄ TẾ CỦA CHÚA KITÔ


Tội Adong đã cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa : bằng một hành động tự do, thụ tạo đã muốn giải thoát mình khỏi ách phục tùng Tạo Hoá.
Chúa Kitô xuống thế để tái lập giao hoà giữa loài người với Thiên Chúa. Ngài đã tự hiến mình làm lễ vật để cứu chuộc loài người.
Lễ tế Chúa Kitô được hoàn tất bằng hai giai đoạn sau:
a) Nhờ cái chết của Ngài trên thánh giá…
Ngài tự hiến mình nhân danh loài người, các em Ngài, trong một hành động yêu thương trọn vẹn và hoàn toàn phục tùng Chúa Cha.
b) Nhờ sự sống lại và lên trời của Ngài .
Ngài đã sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, Đấng đã ưng nhận lễ tế của Ngài và đã tôn vinh Ngài .
Hai giai đoạn cuộc tế lễ Chúa Kitô làm mầu nhiệm Cứu chuộc.
II. SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÁI CHẾT CỦA CHÚA KITÔ TRÊN THÁNH GIÁ
Bốn Phúc âm đều thuật lại rằng Chúa Giêsu, sau 30 năm sống ở Nazareth, và 3 năm đi rao truyền Phúc âm và làm nhiều phép lạ trong xứ Galilê , Samaria và Giuđêa, thì bị Giuđa một trong 12 tông đồ, nộp bán cho quân dữ, là bọn biệt phái và Saducêô, Ngài bị toà án Do thái xét xử và bị Philatô đại diện chính quyền Lamã kết án tử hình. Cuối cùng Ngài bị đóng đinh vào thập giá trên đồi núi Sọ, gần thành Jêrusalem.
Đó là những sự kiện.
Người vô tín ngưỡng cho đó là một vụ án một người vô tội, thế thôi.
Nhưng đối với người Kitô, cái chết của Chúa Kitô trên thánh gía kết thúc mầu nhiệm nhập thể là hành động tối cao tái lập sự giao hoà giữa con người và Thiên Chúa.
III. CÁI CHẾT CỦA CHÚA KITÔ: NHÌN VỀ PHÍA CHÚA KITÔ
Lễ tế chủ yếu trước hết là một sự hiến dâng bên trong biểu lộ bằng một lễ vật bên ngoài dâng lên Thiên Chúa để nhìn nhận quyền tạo hoá của Người, tạ ơn Người về những ân huệ Người đã ban và xin Người các ơn hoặc đền tội đã phạm.
Theo nghĩa trên, một kinh nguyện, một việc làm, một giọt nước mắt của Con Thiên Chúa làm người đủ để cấu thành một sự dâng hiến hoàn hảo, nghĩa là một lễ tế trọn vẹn.
Nếu lễ tế của Ngài được thực hiện dưới hình thức của một sự hiến sinh, chính là vì, sau tội Adong làm gián đoạn giao hoà giữa loài người với Thiên Chúa, tế lễ cần có một yếu tố đau khổ và phô diễn bằng một tình yêu lớn hơn, sự cố gắng của con người để được Thiên Chúa thứ tha.
Trước Chúa Kitô, tất cả mọi dân tộc và mọi tôn giáo cũng đã dùng những của vật chất, súc vật hoặc cả đến mạng sống người nữa, tế lễ dâng lên Thiên Chúa. Nhưng đây chỉ là những tế lễ không hoàn hảo, và lễ vật cũng không hoàn hảo.
Ngược lại, ngày mà Chúa Kitô tự hiến dâng mình làm lễ vật, lễ tế hoàn hảo đã được thực hiện: Đấng dâng và kẻ được dâng, Đấng tế lễ và của lễ, chính là Con Thiên Chúa, lễ tế Ngài đã chắc chắn làm đẹp lòng Chúa Cha và có những hiệu quả nhất định, uyên thâm, vượt hẳn các hiệu quả các tế lễ bất toàn trước.
Lễ tế Chúa Kitô trên thánh giá là:
a) Một hành động tự do Ngài muốn.
Ngài đã nói: “Không ai cất sự sống Ta, chính tự ý Ta, Ta hiến dâng. Ta có quyền cho và có quyền lấy lại. Đấy là lệnh của Cha Ta đã ban cho Ta” (Ga 10,18).
Người chăn chiên nhân lành hy sinh mạng sống mình cho các chiên mình (Ga 10,11).
Trên thánh giá, Ngài nhấn mạnh Ngài chết một cách tự do: “Lạy Cha, Con phó linh hồn trong tay Cha” (Lc 23,46).
b) Một hành động yêu thương hoàn toàn
Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu cuả kẻ hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13).
Đọc bài trường thuật sự Thương khó, chúng ta cảm động trước tình yêu Chúa bao la đành chịu mọi tố cáo nhục nhã, chịu đánh đập tàn nhẫn, chịu đau khổ và chịu chết, và như thế, Ngài không than phiền, kêu ca, phản kháng, chứng minh Ngài vô tội. Mỗi một người trong chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Ngài đã yêu tôi và đã phó mình vì tôi” (Gl 2,20).
IV. CÁI CHẾT CỦA CHÚA KITÔ: NHÌN VỀ PHÍA CHÚA CHA
Chúa Cha đã nhìn trong cái chết của Con Người không phải là những đau khổ mà cái chết ấy đã gây ra, nhưng cường độ của tình yêu mà những đau khổ ấy đã đòi hỏi Ngài .
Nếu Thiên Chúa không muốn cái chết của người tôi lỗi, nhưng mà sự sống nó (Ed 18,23), thì trông thấy Con Chúa vô tội đau đớn chịu chết, làm sao mà Chúa Cha vui lòng được?
Trước mặt Chúa Cha , đều đã đền tội Adong một cách dư dật, ấy là thái độ của tâm hồn vâng phục và yêu thương của Chúa Kitô.
Tội Adong với những hậu quả đáng buồn là một tội kiêu căng một sự từ chối không vâng phục quyền Chúa.
Cái chết của Chúa Kitô với những hậu qủa diễm phúc, đối với Chúa Cha, là một hành động khiêm tốn hoàn toàn và vâng phục trọn vẹn của con người trước thánh ý Chúa.
Chúa Kitô, đầu của nhân loại, trở nên “Adong mới” để trả lại sự sống mà Adong thứ nhất đã làm mất (Rm 5,19).
V. CÁI CHẾT CỦA CHÚA KITÔ: NHÌN VỀ PHÍA LOÀI NGƯỜI
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, chắc chắn sẽ không chết, nếu không có người đã gây ra. Nhất là những người biệt phái đã âm mưu giết Ngài, Juđa đã nộp Ngài cho họ, Anna và Caipha, các thầy cả thượng phẩm, đã kêu nài đến quyền bính La Mã, Philatô đã kết án Ngài tử hình và quân lý hình đã đóng đinh Ngài trên thập giá.
Không phải việc chúng ta xét đến trách nhiệm mỗi người trên đây trong vụ án Chúa Kitô. Chúng ta phải quả quyết rằng tất cả những người ấy đã hành động một cách tự do.
Vậy làm sao mà hoà giải được phần tích cực của những người đã gây ra cái chết Chúa Kitô và Chúa Kitô chết cho loài người.
Chúng ta gặp đây vấn đề nan giải về sự Chúa biết trước về sự tự do của con người.
Chúng ta đã nói vấn đề hiện thời nan giải và chúng ta đành phải quả quyết rằng Thiên Chúa có kế hoạch trên con người và con người vẫn tự do, khi thực hiện kế hoạch đó.
Trước vụ Juđa và các thủ phạm khác về cái chết của Chúa Kitô, chúng ta sẽ quả quyết hai điều có vẻ chống đối nhau sau đây:
- Những người đã đóng đinh Chúa Kitô đều có ý hành động như vậy.
- Chúa Giêsu , một cách tự do, đã muốn chịu nạn chịu chết.
VI. HIỆU QUẢ CỦA ƠN CỨU CHUỘC
Cái chết của một người bị án thường chỉ đem đến hậu quả nói lên tiếng nói cuối cùng cho công lý, tội nặng đáng hình phạt nặng, đó là công bằng và như thế sẽ làm gương cho kẻ khác sợ mà xa tránh tội ác.
Trong trường hợp Chúa Kitô , không có vấn đề công lý nhân loại đòi phạt tội ác đã phạm, vì nhân cách Con Thiên Chúa và tất cả những gì mà chúng ta biết về đời sống Ngài đủ để biện chứng rằng Ngài vô tội; hai bằng chứng mà các kẻ nghịch Chúa đưa ra lúc kiện Ngài : “Nó tự xưng mình là Con Thiên Chúa” và “Nó tự xưng là Vua”, đáng lý buộc phải tha Ngài , vì Ngài đã nói thật.
Hiệu quả cái chết của Chúa Kitô , khác hẳn hiệu quả thuộc phạm vi nhân loại. Hiệu quả cái chết của Chúa Kitô là trả lại cho cả nhân loại Sự sống Thiên Chúa . Thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được hoà giải với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Người” (Rm 5,10) và nơi khác: “Ngài chết để xoá tội của giao ước thứ nhất, để những kẻ được chọn nhận lãnh gia tài vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa” (Dt tin 9,15).
Chính là cũng một chân lý mà thầy cả phô diễn ở thánh lễ, lúc ngài đọc: “Lạy Chúa Giêsu , vì ý Chúa Cha với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần , Chúa đã chịu chết để cho thế gian được sống”.
Nhờ cái chết của Chúa Kitô , Con Thiên Chúa , chúng ta đã được lại sự sống Thiên Chúa mà tội Adong đã làm mất.
Chúng ta lại được quyền làm con Thiên Chúa : trên thế gian bằng cuộc đời ơn Thánh, và mai sau bằng cuộc đời vinh quang trên trời.
Nhờ cái chết trên thánh giá, Chúa Giêsu đã mở cửa thiên đàng lại.
“Anh em đã được cứu chuộc bằng một giá rất cao” (Cr 6,20).
VII. MỰC ĐỘ CỦA ƠN CHUỘC
Trong ý Chúa Kitô , ơn cứu chuộc là cho hết mọi người.
“Chúa Kitô đã chịu chết cho mọi người không trừ ai”
“Chúa Cứu Thế muốn cho mọi người được cứu rỗi.
Ngài đã tự hiến dâng chịu chết đền tội cho mọi người (Tin Mừng 2.46). “Ngài chết cho mọi người” (2 Cr 5,15).
Sự thật, như vậy thì hết mọi người có được cứu rỗi không?

Chúng ta phải trả lời là không. Chúa Giêsu , phần Ngài , đã làm tất cả những gì tuỳ Ngài, nhưng con người vẫn còn tự do, và Thiên Chúa đã dựng con người tự do, thì kính trọng luôn luôn sự tự do của con người.


Mỗi người muốn được cứu rỗi thì phải tự do đặt mình vào tình trạng cần thiết để thụ hưởng ơn cứu chuộc.

Phương thế thứ nhất Chúa muốn là Phép Rửa Tội (Rửa bằng nước cho những kẻ có thể chịu được, hay bằng máu hoặc bằng ước muốn).


Vả lại, mỗi người bằng đời sống cá nhân mình phải được thụ hưởng đời sống Chúa Kitô đã trả lại. Như thế, đời sống ân sủng đối với mỗi người chúng ta, vừa là một ân huệ Thiên Chúa ban nhờ Chúa Kitô , vừa là một sự chinh phục riêng của chúng ta .
VIII. KẾT LUẬN: NGƯỜI KITÔ HỮU VÀ THÁNH GIÁ
Trong thời cổ La Mã, thánh giá biểu hiện sự nhục nhã vì nó là hình phạt cho những tội nhân lớn nhất. Thánh giá giờ đây đối với người Kitô trở nên biểu hiệu vinh quang của sự cứu chuộc mình, dấu hiệu của sự sống đã được trả lại, nhắc nhở cho mọi người giá cứu chuộc của sự đau khổ biết nhận nó như Chúa Kitô xưa.
Dấu phân biệt người Kitô là dấu thánh giá, mà chúng ta làm với sự cung kính và biết ơn.
Trong gia đình chúng ta , thánh giá phải để chỗ trọng nhất để trông nom những vui buồn của cuộc đời.
Phụng vụ dạy làm dấu thánh giá nhiều lúc, nhất là lúc làm các phép bí tích và thánh lễ.
Tất cả những dấu hiệu cung kính của người Công giáo đối với thánh giá thừa nhận vai trò quan trọng thánh giá trong mầu nhiệm cứu rỗi thế giới.


CHƯƠNG IV
SỐNG LẠI VÀ LÊN TRỜI

I. CHẾT VÀ SỐNG LẠI


Nếu cuộc đời trần gian của Chúa Giêsu kết thúc ở cái chết của Ngài, chúng ta có thể nói được đấy là một sự thất bại: Đấng đến cứu chuộc loài người đã bị thua vì loài người.
Trái lại sự sống lại của Chúa Kitô đã làm cho sự chết của Ngài trở nên một sự thành công hoàn toàn và chắc chắn: Chúa Kitô thắng được sự chết là chứng tỏ Ngài thắng tội lỗi (1 Cr 15,14).
Sự lên trời của Chúa Kitô sống lại đóng ấn và kết thúc công việc cứu chuộc: Chúa Cha đón nhận Con Chúa trong vinh quang chứng nhận rằng lễ tế trên núi Sọ đã được Người thừa nhận và sự sống Thiên Chúa đã được trả lại cho nhân loại.
Chúa Giêsu, người đầu tiên vào đời sống mới mà Ngài đã lấy máu mình mà chiếm được, làm cho đời sống nhân loại đặt tới sự hoàn thành ấy là đạt tới mục đích của sự sáng tạo: Sự chiếm hữu Thiên Chúa và sự kết hợp các con cái Chúa trong “Nhà Cha”.
II. CÁC SỰ KIỆN
Bốn Phúc âm (Mt 27,6; Mc 15;46; Lc 23,53; Ga 19,38) đều quả quyết rằng sau khi chết, Chúa Giêsu được đặt vào một mộ mới do Joseph d’Arimathie, một trong các môn đệ dâng.

Mộ thì khoét trong tảng đá, và theo thói quen thì một hòn đá nặng đắp cửa mộ.


Để bảo đảm cuộc chiến thắng, các tư tế trưởng và biệt phái đặt người canh mộ, và cửa mộ được đóng ấn cẩn thận. Nhưng, sáng ngày thứ ba, các bà đạo đức, Phêrô và Gioan đi tới mộ và gặp thấy mộ không, hòn đá đẩy cửa mộ lăn ra một bên.
Một sứ thần ở cửa mộ loan tin: “Các ngươi tìm Giêsu Đấng đã bị đóng đinh, Ngài không còn ở đây nữa, Ngài đã sống lại, như Ngài đã phán trước”.
Sự thực, Chúa Giêsu đã tỏ ra mình sống lại, suốt 40 ngày, Ngài nói chuyện với các tông đồ , chỉ cho các Đấng xem những vết thương của Ngài, Ngài ăn uống với họ, ban bố những Huấn dụ cuối cùng và cho họ những quyền hành cần thiết để thiết lập Giáo hội của Ngài.
Sau cùng, 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu trước sự hiện diện của các tông đồ và của cả một đám đông dân chúng, Ngài lên trời, xa khuất mắt họ: Chúa Kitô trở về cùng Cha của Ngài .

Đó là những sự kện mà các tài liệu lịch sử là các Phúc âm thuật lại.


Người không tín ngưỡng, trước một biến cố lạ lùng như thế và nặng nhiều hậu quả quan trọng, bị cám dỗ quả quyết trước mặt các tiên thiên rằng, biến cố như thế không thể có được, và sau đó mới tìm cách tranh luận về những nền tảng chắc chắn của biến cố.
Còn người Kitô, bắt đầu quan sát cẩn thận những sự kiện và kết luận: Chúa Kitô đã sống lại.

III. SỰ KIỆN THỨ I: CHÚA GIÊSU ĐÃ NHIỀU LẦN NÓI TRƯỚC NGÀI SẼ SỐNG LẠI


Chúng ta hãy chọn trong Phúc âm những đoạn đặc sắc.
1) Sau khi đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ: Chúa Giêsu phán cùng người Do thái rằng: “Hãy phá đền thờ này đi, Ta sẽ xây lại trong ba ngày”. Người Do thái đáp lại: “Người ta xây đền thờ này mất 46 năm, mà ông xây nó lại trong ba ngày sao?”. Nhưng Chúa Giêsu nói về xác Ngài. Chỉ sau khi Chúa Giêsu chết rồi sống lại, các môn đệ Ngài mới nhớ đến những lời trên…(Ga 2,19-23)…..
2) Điềm Jonas: Một nhóm Luật sĩ và biệt phái hỏi Chúa rằng: “Lạy Thầy, chúng tôi muốn xem một dấu hiệu của Thầy”. Chúa Giêsu đáp: “Dòng dõi hung ác gian dâm xin dấu lạ; song, ngoài phép lạ Giona tiên tri ra, nó chẳng được xem phép lạ nào khác”. Như xưa Giona ở trong bụng cá lớn ba ngày ba đêm thể nào, Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy (Mt 12,38-41).
3) Sau khi biến hình: Xuống núi, Chúa Giêsu dặn các tông đồ đừng nói cho ai sự lạ họ vừa thấy, cho đến khi Con Người từ kẻ chết sống lại (Mc 9,9-10).
4) Báo tin cuộc tử nạn: Ngài đem 12 tông đồ đi với, và nói với họ: “Này, chúng ta lên Jêrusalem và tất cả những lời các tiên tri nói về Con Người sẽ được trọn: Ngài sẽ bị nộp cho lương dân, họ sẽ nhục mạ Người. Nhưng ngày thứ 3 Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-34).
5) Tại bữa tiệc ly: Vậy Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ : “Tất cả chúng con sẽ vấp ngã về Thầy đêm nay… nhưng, sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ tới Galilê trước chúng con” (Mt 26,31).
Người ta hiểu lời Sứ thần nói với các bà đạo đức ngày sống lại: “Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán trước” (Mt 29,6).
IV. SỰ KIỆN THỨ II: CHÚA GIÊSU THẬT SỰ ĐÃ BỊ GIẾT CHẾT.
Thánh Gioan, người đã mắt thấy, làm chứng:
“Các lính đến đập gãy ống chân hai người cùng bị án tử hình. Đến Chúa Giêsu, thấy Ngài đã chết rồi, chúng không đập gãy ống chân Ngài, nhưng một tên lính lấy đòng đâm thâu cạnh Ngài …” (Ga 19,32).
Chúng ta còn có bằng chứng công khai của người Do thái:
“Giuse d’Arimathie đến xin Philatô tỏ ra ngạc nhiên rằng Ngài đã chết rồi; ông cho hỏi viên sĩ quan canh gác và khi đã biết Ngài đã chết, liền giáo xác Ngài cho Giuse” (Mc 15,43-46).
Chúng ta thêm hai bằng chứng giá trị:
1) Không có ai bị người ta ghét như Chúa Giêsu bị ghét do quân nghịch của Ngài , không bao giờ bọn biệt phái bỏ rơi Chúa Giêsu, trước khi biết chắc Ngài đã chết.
2) Không ai được yêu mến như Chúa Giêsu được các môn đệ Ngài yêu. Không bao giờ môn đệ Ngài lại chôn Ngài trong mộ đá, nếu Ngài còn sống .
Và 100 cân thuốc thơm ướp xác Chúa Giêsu cũng đủ Ngài chết ngạt.
V. SỰ KIỆN THỨ III: MỘ ĐÃ TRỞ NÊN TRỐNG KHÔNG.
Các phụ nữ, Phêrô và Gioan đến mộ và đã gặp mộ trống không, đá cửa mộ đã lăn qua một bên…
Ai đã lấy trộm xã Chúa Giêsu .
- Các địch thù của Chúa Giêsu?
Nhưng chúng cẩn thận đóng ấn mộ và canh gác xung quanh, chúng còn xin Philatô cho lính gách “kẻo sợ môn đệ đến lấy xác rồi phao tin: Ngài sống lại chăng” (Mt 27,64).
Thái độ những tư tế trưởng đối với bọn lính canh chứng tỏ họ đã thất bại: “Chúng cho lính canh nhiều tiền bạc và nói: “các anh hãy phao tin rằng môn đệ nó đến ban đêm trong lúc các anh ngủ và đã lấy trộm xác” (Mt 28,12).

Cũng lạ thật, lính canh lại ngủ được!


- Các môn đệ Chúa Giêsu ?
Không thể được, vì người Do Thái đã canh giữ cẩn thận, đàng khác khó tin, nếu chúng ta thấy các phụ nữ khi tới mộ đều sợ hãi, và Madalena đã khóc lên vì trông thấy mộ trống không. Và chính 11 tông đồ không tin khi nghe các bà nói Chúa đã sống lại, nhất là Thôma (Mc 16,3; In 24,11; Ga 20,2-10).
VI. SỰ KIỆN THỨ IV: CHÚA GIÊSU HIỆN RA, SỐNG VỚI CÁC TÔNG ĐỒ 40 NGÀY NỮA.

Chúa Giêsu sống lại hiện ra cùng Maria Madalena, cùng hai môn đệ thành Emmau, cùng 11 tông đồ, trên bờ hồ Tiberiade, cho các tông đồ đánh được nhiều cá, và sau cùng gần Bêthania ngày lên trời.


Thánh Phaolô sau này làm chứng nữa: “Tôi truyền lại cho anh em giáo lý căn bản mà chính tôi đã học rằng: Chúa Kitô đã chết, để chuộc tội chúng ta, theo Thánh kinh, Ngài đã được táng trong mộ, Ngài đã sống lại ngày thứ 3 cũng theo Kinh Thánh , Ngài hiện ra cùng Cephas (Phêrô) đoạn cùng 12, rồi cùng hơn 500 anh em một lượt mà số đông còn sống hôm nay, Ngài còn hiển ra với Jacôbê và hết thảy các tông đồ” (1Cr 15,3-9).
Chúng ta lưu ý, hơn một lần, Chúa Giêsu khi hiện ra với các tông đồ, Ngài đã làm chứng rằng chính thật là Ngài chứ không phải là ma.
“Chúng con hãy nhìn tay chân Thầy. Chính Thầy đây. Hãy sờ Thầy và xem. Một thần linh không có xương có thịt như chúng con thấy Thầy có” và để các tông đồ tin hơn, Ngài ăn một miếng cá nướng (Lc 24,38) (Vụ thánh Thôma – cf. Ga 20, 27).
VII. SỰ KIỆN THỨ V: CÁC TÔNG ĐỒ ĐÃ CHỨNG KIẾN NHỮNG VỤ CHÚA KITÔ HIỆN RA, NÓI VỀ NGÀI LUÔN LUÔN NHƯ MỘT KẺ SỐNG.
Công vụ Tông đồ đầy những bằng chứng như vậy.
1) Bài diễn thuyết của Phêrô sau lễ Hiện xuống… “Chính Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã làm cho sống lại, chúng tôi tất cả làm chứng Ngài” (Cv 2,29).
2) Sau vụ một người què được chữa lành. Phêrô nói: “Anh em đã từ chối đấng Thánh… anh em đã xin tha một đứa sát nhân, anh em đã giết chết tác giả sự sống, đấng mà Thiên Chúa làm cho sống lại, từ kẻ chết, chúng tôi làm chứng” (Cv 3,14).
3) Sau khi các tông đồ bị bắt, Phêrô và Phaolô trả lời: “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người. Thiên Chúa các tổ tiên chúng ta đã cho Đức Giêsu Kitô sống lại, Giêsu mà các ngươi đã giết treo trên thập giá… Còn chúng tôi, chúng tôi làm chứng các điều ấy” (Cv 5,29).
4) Thánh Phêrô ở Cesarê. Phêrô nói: “Chúng tôi làm chứng những điều Chúa Giêsu đã làm trong nước Do thái tại Jêrusalem.
Họ đã giết Chúa Giêsu, treo Ngài trên thập giá, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại ngày thứ 3 và Ngài đã hiện ra không phải cùng toàn dân, nhưng cùng những chứng nhân Chúa đã chọn, cùng chúng tôi là những người đã ăn uống với Ngài sau khi Ngài đã bởi kẻ chết sống lại” (Cv 10,39-42).
VIII. LẠI CÒN SỬ GIA BỐI RỐI
Renan lúng túng trước sự kiện Chúa Kitô đã sống lại. Ông gọi các đoạn Phúc âm thuật lại sự kiện ấy là “thần thoại”. Nhưng Renan không đưa ra một bằng chứng nào để biện hộ lập trường của ông. Chúng ta có đủ tài liệu lịch sử của các Phúc âm chứng tỏ rõ ràng Chúa Kitô đã sống lại.
KẾT LUẬN: CHÚA KITÔ HẰNG SỐNG
‘Chúa Kitô , một lần đã từ kẻ chết sống lại, không chết nữa, sự chết không còn quyền hành trên Ngài nữa” (Rm 6,9).

Các người danh tiếng của lịch sử đã chết và mộ họ chỉ còn giữ lại được nắm tro tàn.


Còn Chúa Kitô, Ngài luôn luôn sống, sống “có xương có thịt” trên trời, nơi Ngài đã lên ngày Thăng Thiên, để dọn cho chúng ta một chỗ gần Chúa Cha, và Ngài còn sống trong mỗi nhà tạm của chúng ta .
Vậy thì chúng ta nói với một Người sống, khi ngày nay chúng ta cầu nguyện với Ngài .
Chính là cuộc đời và những lời giáo huấn của một người sống mà chúng ta đọc trong Phúc âm ngày nay.
Chính là một người sống mà chúng ta làm cho kẻ khác biết và yêu mến, khi chúng ta cố gắng tưởng nhớ và sống theo lý tưởng mà Ngài đem đến cho chúng ta.

Chính là một người sống mà chúng ta làm cho kẻ khác biết và yêu mến, ngày nay nữa khi chúng ta làm tông đồ của Ngài bằng gương mẫu, lời nói và việc làm của chúng ta.


~~~~~~~(+)~~~~~~~

PHẦN THỨ NĂM
TRUYỀN ĐẠT SỰ SỐNG
Mở đầu: Giáo hội là gì?
A. GIÁO HỘI: LỊCH SỬ GIÁO HỘI
Chương I: SỰ KIỆN CHÚA GIÊSU KITÔ SÁNG LẬP GIÁO HỘI
Chương II: “PHÉP LẠ CỦA GIÁO HỘI” TRẢI QUA CÁC THỜI ĐẠI
B: GIÁO HỘI: BẢN TÍNH CỦA GIÁO HỘI
Chương III: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH YẾU
Chương IV: GIÁO HỘI “MÌNH MẦU NHIỆM CHÚA KITÔ”
C: GIÁO HỘI: VAI TRÒ CỦA GIÁO HỘI
Chương V: PHƯƠNG DIỆN KHÁC NHAU CỦA SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI
Chương VI: “ NGOÀI GIÁO HỘI CÓ ĐƯỢC CỨU RỖI KHÔNG?

Con là Đá, và trên đá này

Ta sẽ xây Giáo hội Ta” (Mt 16,18).

MỞ ĐẦU
GIÁO HỘI LÀ GÌ?

I. GIÁO HỘI ĐỂ LÀM GÌ?


Đời sống Thiên Chúa của ơn Thánh sủng làm cho loài người trở nên con Thiên Chúa (nghĩa là con người được Thiên Chúa hoá để hưởng mặt Chúa đời đời), đã được trả lại cho nhân loại nhờ lễ tế của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Trên nguyên tắc đời sống Thiên Chúa được trả lại cho nhân loại.
Nhưng thực sự ? Mỗi người làm thế nào để được hưởng đời sống ấy?
- Bằng cách gia nhập Giáo hội. Chúng ta hãy nói rõ: “Chúa Giêsu Kitô có thể tự Ngài ban ơn cứu rỗi trực tiếp cho tất cả nhân loại: Nhưng Ngài đã muốn dùng Giáo hội hữu hình làm trung gian, dùng một Giáo hội gồm những con người và họ sẽ cộng tác với Giáo hội ban phát các hiệu quả ơn cứu chuộc”. Piô XII (Thông điệp Mystici Corporis, tội tổ tông 9-10). Như vậy trong Giáo hộinhờ Giáo hội , ngày nay chúng ta nhận đời sống ơn Thánh, đời sống con cái Chúa.
Sau thảm kịch ở núi Sọ, đời sống Thiên Chúa không chỉ còn là một sự phong phú cá nhân. Đời sống Thiên Chúa trở nên một công cuộc tập thể (việc làm tập hợp).
II. GIÁO HỘI LÀ GÌ?

Giáo hội là cộng đồng hữu hình và có thể tổ chức mà Chúa Kitô đã sáng lập để lưu tồn sự hiện diện của Ngài trên trần gian và tiếp tục thực hiện hai sứ mệnh của Ngài là giảng dạy chân lý và thông ban sự sống.
A) GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG HỮU HÌNH
Giáo hội trên thế gian gồm tất cả mọi người kitô hữu được kết hợp lại:
- Bằng cũng một Đức tin của Chúa Kitô .
- Bằng cũng một sự vâng phục Đức Giáo hoàng, là người đại diện hữu hình của Chúa Kitô.
- Bằng một sự tham dự sống động vào các phép bí tích Chúa Giêsu đã lập.
Tất cả hợp thành một khối duy nhất trong Chúa Thánh Thần, làm nên một dân tộc mới của Thiên Chúa , như Công đồng Vatican II đã nhắc lại:
“Những ai tin kính Chúa Kitô, đều được tái sinh không phải bởi mầm mống hay hư nát, nhưng do mầm mống bất diệt nhờ lời Thiên Chúa hằng sống, không phải bởi xác thịt, nhưng bởi nước và Thánh Thần , và cuối cùng trở thành một dòng giống được tuyển chọn, một hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh, dân tộc đã được Thiên Chúa thu phục, trước kia không phải là một dân mà nay là Dân của Thiên Chúa” (Hiến chế về Giáo hội, số 9…).
B) GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG CÓ TỔ CHỨC
Giáo hội gồm một hàng giáo phẩm: Đức Giáo hoàng và các Giám mục là những thủ lãnh dẫn dắt giáo dân.
C) GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG LƯU TỒN SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA KITÔ
Chúa Kitô hiện diện trong mỗi người giáo dân và trong mỗi người thủ lãnh của Ngài .
Ngài làm cho các phần tử nhiệm thể mà Ngài là Đầu được sống nhờ Thần khí và ơn thánh Ngài .
“Giáo hội chính là Chúa Kitô được truyền ra và thông đạt” (Bossuet).
“Giáo hội là sự nhập thể thường trực của con Thiên Chúa”. (Suhard).
D) GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG TIẾP TỤC CHÚA KITÔ CHÂN LÝ VÀ SỰ SỐNG
Nghĩa là Giáo hội là một cơ quan lưu truyền, phân phát và tiếp tế. Giáo hội tiếp tục công việc Chúa Kitô bằng cách gìn giữ nguyên vẹn giáo lý của Ngài, phổ biến giáo lý Ngài trong khắp thế giới và thông đạt đời sống Thiên Chúa của ơn Thánh sủng cho tất cả mọi người.
III. YẾU TỐ THIÊN CHÚA VÀ YẾU TỐ NHÂN LOẠI TRONG GIÁO HỘI
Giáo hội là Chúa Kitô kéo dài, yếu tố Thiên Chúa và yếu tố nhân loại được kết hợp rất khăng khít với nhau, cũng như trong Chúa Kitô , tính Thiên Chúa và tính nhân loại được kết hợp với nhau mặc dầu khác nhau.

Giáo hội (thuộc về Thiên Chúa) là thần linh, bởi vì Giáo hội là Chúa Kitô, bởi vì Giáo hội tiếp tục việc Chúa Kitô, bởi vì Giáo hội chắc chắn được Chúa Kitô luôn luôn giúp đỡ.
Giáo hội là nhân loại, bởi vì Giáo hội được thành lập cho loài người, bởi vì Giáo hội gồm có loài người, bởi vì Giáo hội có con người làm thủ lãnh.
Vì vậy chúng ta hiểu Giáo hội vừa là thực tại vô hình vừa là xã hội hữu hình, vừa là hoàn toàn vừa là chưa thành tựu, vừa thánh thiện, vừa không trọn lành, vừa siêu phàm, vừa thế tục.
Vì vậy trải qua lịch sử, Giáo hội có hai mối lo: luôn luôn trung thành với sứ mệnh thần linh giữa những rối loạn nhân loại và cương quyết thích nghi với những nhu cầu cần thiết của thời đại.

______(-|-)_____




tải về 1.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương