ĐẶc san tuyên truyền pháp luật số 09/2010 chuyêN ĐỀ CÔng ưỚc của liên hợp quốC


Cơ chế thi hành Công ước và các điều khoản cuối cùng



tải về 1.24 Mb.
trang2/10
Chuyển đổi dữ liệu18.08.2016
Kích1.24 Mb.
#22026
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

4. Cơ chế thi hành Công ước và các điều khoản cuối cùng

Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước là cơ chế thi hành Công ước chủ yếu. Hội nghị các quốc gia thành viên được thành lập để tăng cường năng lực và hợp tác giữa các quốc gia thành viên nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong Công ước và thúc đẩy, kiểm tra việc thực thi Công ước. Mỗi quốc gia thành viên có nghĩa vụ cung cấp cho Hội nghị các quốc gia thành viên thông tin về chương trình, kế hoạch và hoạt động thực tiễn cũng như thông tin về các biện pháp lập pháp, hành chính để thi hành Công ước. Ban thư ký có nhiệm vụ trợ giúp Hội nghị các quốc gia thành viên, hỗ trợ hoạt động thông tin, báo cáo của các quốc gia thành viên đối với Hội nghị các quốc gia thành viên, bảo đảm sự phối hợp cần thiết với các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan.


II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ KẾ HOẠCH CỦA CHÍNH PHỦ, BỘ TƯ PHÁP TRIỂN KHAI CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ CHỐNG THAM NHŨNG
Luật phòng, chống tham nhũng đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2006 (thay thế Pháp lệnh phòng, chống tham nhũng năm 1996) và được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XII ngày 04/8/2007. Đây là một đạo luật quan trọng thể hiện quyết tâm của Đảng, nhà nước và nhân dân ta trong công cuộc chống tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng xác lập một khuôn khổ pháp lý cơ bản làm tiền đề cho việc xây dựng chiến lược toàn diện và lâu dài cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Luật phòng, chống tham nhũng đồng thời khẳng định với quốc tế rằng Việt Nam cam kết thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về đấu tranh chống tham nhũng.

Việc xây dựng Luật phòng, chống tham nhũng đã tạo dựng một khung pháp lý vững chắc góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức và công dân về công tác phòng, chống tham nhũng. Sau khi Luật phòng, chống tham nhũng ra đời, Chính phủ, các cấp, các ngành đã ra sức nỗ lực triển khai nhằm đưa Luật vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả nhất định.



1. Thực trạng về tham nhũng

1.1. Trên thế giới:

Số liệu tại en:Corruption Perceptions Index, chỉ số và xếp hạng về tham nhũng qua các năm 2001, 2002, 2003, 2005




Nước

2001

2002

2003

2005

Chỉ số

Xếp hạng

Chỉ số

Xếp hạng

Chỉ số

Xếp hạng

Chỉ số

Xếp hạng

Việt Nam

2.6

75/91

2.4

85/102

2.4

100/133

2.6

107/159

Iceland

9.2

4/91

9.4

4/102

9.6

2/133

9.7

1/159

Phần Lan

9.9

1/91

9.7

1/102

9.7

1/133

9.6

2/159

New Zealand

9.4

3/91

9.5

2/102

9.5

3/133

9.6

2/159

Đan Mạch

9.5

2/91

9.5

2/102

9.5

3/133

9.5

4/159

Singapore

9.2

4/91

9.3

5/102

9.4

5/133

9.4

5/159

Haiti





2.2

89/102

1.5

131/133

1.8

155/159

Myanma









1.6

129/133

1.8

155/159

Turkmenistan













1.8

155/159

Bangladesh

0.4

91/91

1.2

102/102

1.3

133/133

1.7

158/159

Tchad













1.7

158/159

Chi tiết xếp hạng các nước khác: Xem phụ lục



1.2. Ở Việt Nam:

Có thể nói một cách khái quát rằng, tình trạng tham nhũng hiện nay đang trong một chiều hướng phát triển và đã trở thành một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trước kia, tham nhũng chỉ dừng ở những hành vi tiêu cực của một số ít cán bộ, đảng viên hư hỏng, thoái hóa biến chất, hành vi mang tính chất nhỏ lẻ của những người trực tiếp quản lý tiền, tài sản nhà nước. Ngày nay, cùng với sự ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường, và những nguyên nhân khác, tham nhũng không còn là một hiện tượng nhỏ lẻ mà trở thành tệ nạn và được nhìn nhận như một vấn đề hệ trọng của quốc gia. Trong các văn bản của đảng cũng như nhà nước đều đánh giá tình hình diễn biến khá nghiêm trọng.

Đánh giá chung dưới góc độ kinh tế-xã hội và pháp luật, có thể khái quát ở các góc độ như sau:

Thứ nhất, mức độ tham nhũng ngày càng lớn. Qua kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét xử cho thấy các vụ việc tham nhũng có xu hướng tăng cả về quy mô lẫn số lượng tài sản nhà nước bị chiếm đoạt, lãng phí, thất thoát. Từ năm 1993 đến 2004, riêng lực lượng công an đã phát hiện hơn 9.900 vụ việc tham nhũng, gây thiệt hại hơn 7.500 tỷ đồng( riêng từ năm 2000 đến 2004, phát hiện điều tra hơn 3.300 vụ việc, làm thiệt hại hơn 2.300 tỷ đồng). Trong đó, một số vụ tham nhũng lớn làm thất thoát hàng chục tỷ đến hàng trăm tỷ đồng như: Vụ tham nhũng tại Chi cục Hải quan cửa khấu Tân Thanh( Lạng Sơn); Vụ Lã Thị Kim Oanh, giám đốc công ty tiếp thị đầu tư nông nghiệp và phát triển nông thôn; Vụ tham ô ở công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí; vụ ở công ty Xăng dầu hàng không; vụ mua bán hạn ngạch xuất khẩu hành dệt may ở Bộ Thương mại; vụ điện kế giả ở công ty điện lực thành phố HCM…

Riêng trong năm 2005, lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ đã phát hiện điều tra hơn 11.000 vụ, tăng gần 3.000 vụ so với năm 2004.

Thứ hai, tham nhũng ngày càng lan rộng, phổ biến, …“ Ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp…”( Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,tr.12). Ngoài những lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng như xây dựng cơ bản, đất đai, quản lý tài chính, thuế, hải quan… hiện nay tham nhũng đang lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, chính sách nhân đạo… Thậm chí ngay cả các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Thứ ba, tính chất tham nhũng ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, thủ đoạn tham nhũng ngày càng tinh vi. Tham nhũng ngày càng có tổ chức được cấu kết chặt chẽ, có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương, thậm chí xuyên quốc gia. Vụ công ty TNHH Thành phát (Tiền Giang), đối tượng nhận cả tòa biệt thự, tàu chở dầu trị giá hàng tỷ đồng, thông qua buôn bán xăng dưới hình thức tạm nhập tái xuất hình thành đường dây khép kín từ Xingapo vào Việt Nam sang Campuchia. Vụ Ngô Thanh Lam lợi dụng kỹ thuật máy tính để tham ô, lợi dụng thẻ tín dụng để rút tiền ở ngân hàng tại thành phố HCM, Cần Thơ, Hà Nội.

Thứ tư, sự móc nối giữa các phần tử thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước với những phần tử tội phạm bên ngoài, giữa khu vực công và tư là vấn đề nhức nhối, có xu hướng phát triển nhanh hết sức nguy hiểm. Tình trạng này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Đó là việc bảo kê, che chắn cho các hành vi vi phạm pháp luật có tổ chức của bọn “xã hội đen” như vụ Khánh Trắng, Phúc Bồ, Năm Cam…

Tham nhũng được tổng kết thường xảy ra ở những lĩnh vực chủ yếu như sau:

- Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản;

- Trong lĩnh vực quản lý đất đai;

- Tronh lĩnh vực tài chính - ngân hành và tổ chức tín dụng;

- Trong lĩnh vực tài chính sử dụng ngân sách nhà nước;

- Trong lĩnh vực thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội;

- Trong quản lý và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước;

- Trong lĩnh vực y tế, giáo dục- đào tạo;

- Trong hoạt động tư pháp và hoạt động thanh tra, kiểm tra.

Những tác hại của tham nhũng là rất lớn, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm băng hoại giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa dân tộc, đe dọa sự tồn vong của cả chế độ.

Chính vì vậy việc ban hành Luật phòng, chống tham nhũng là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, để đưa pháp luật phòng, chống tham nhũng vào đời sống thì trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc triển khai thi hành Luật một cách nghiêm túc, triệt để là một vấn đề hết sức quan trọng và có tính quyết định.
2. Tình hình thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật về chống tham nhũng

2.1. Tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về phòng, chống tham nhũng

Công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN được các bộ, ban, ngành, địa phương quan tâm thực hiện, gắn với Bước 2 Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” về chống tham ô, lãng phí, quan liêu và sửa đổi lối làm việc. Các tỉnh, thành phố đã có nhiều hoạt động tuyên truyền tích cực như: Riêng năm 2008, các Bộ ngành đã tổ chức 71.294 hội nghị tuyên truyền, 1.669 lớp tập huấn; phát hành 150.613 cuốn sách, 22.000 cuốn tạp chí, 622.560 bản tin, tờ rơi; 92 chuyên trang, chuyên mục, 9 phim; 03 cuộc thi, với 171.979 bài dự thi có nội dung về PCTN. Thanh tra Chính phủ có trang tin điện tử, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN có Bản tin và điểm báo về công tác PCTN. Nhiều tỉnh, thành phố làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về công tác PCTN .

Các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương đã chú trọng đưa tin về các hoạt động PCTN. Nhiều báo, đài đã xây dựng các chuyên đề, chuyên mục, chuyên trang, đặc san, phóng sự về công tác PCTN. Việc đưa tin về các vụ việc tham nhũng trên báo chí thời gian qua thận trọng hơn, một số thông tin được chuyển tải kịp thời như: việc phối hợp với phía Nhật Bản để giải quyết vụ việc tại Công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (PCI) liên quan đến Dự án đại lộ Đông-Tây thành phố Hồ Chí Minh; hoạt động kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X); tiến độ xử lý các vụ án tham nhũng nghiêm trọng. Đã có các bài viết về gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trong công tác PCTN; thông tin về kết quả và kinh nghiệm PCTN của các nước trên thế giới... từ đó góp phần định hướng dư luận và tạo môi trường xã hội đồng thuận hơn về công tác PCTN.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về PCTN còn thiếu chiều sâu, chưa thường xuyên, liên tục. Báo chí đưa tin chủ yếu về vụ việc, vụ án tham nhũng; còn ít tin, bài viết về các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, nhất là việc tuyên truyền các quy định cụ thể về công tác PCTN.



Về phía Bộ Tư pháp:

Tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ, biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và công chức, viên chức trong công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về phòng, chống tham nhũng nhiều Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đã nhận thức rõ hơn về công tác phòng, chống tham nhũng, từ đó có trách nhiệm và chủ động phòng ngừa tham nhũng ngay từ chính bản thân mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, mỗi người có chức vụ, quyền hạn trong các đơn vị thuộc Bộ.

Từ năm 2007 đến nay, Bộ Tư pháp đã có nhiều hoạt động tuyên truyền Luật Phòng, chống tham nhũng trên Trang thông tin điện tử Phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ Tư pháp; đăng tải thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (http://www.moj.gov.vn). Bên cạnh đó, một số đơn vị chức năng của Bộ còn cử báo cáo viên xuống địa phương phổ biến Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật khác có liên quan như Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Cục trợ giúp pháp lý.

2.2. Hoạt động rà soát, ban hành văn bản về công tác phòng, chống tham nhũng

- Cùng với việc ban hành Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đổi với công tác PCTN, lãng phí” và Luật PCTN, Chủ tịch nước đã ký phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN ngày 30/6/2009); Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 và Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược (Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009). Đến nay, đã có 28 bộ, cơ quan ở Trung ương và 59 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020.

- Các ngành, các cấp theo thẩm quyền tiếp tục trình và ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa: Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN và Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xây dựng, trình Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng có liên quan đến PCTN (Quyết định số 264-QĐ/TW ngày 12/10/2009); thực hiện Nghị quyết 1039/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 28/8/2006 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội, các cơ quan: Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế về việc phối hợp trong công tác PCTN (Quy chế số 01/QCPH ngày 15/01/2009); Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án đưa nội dung PCTN vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng (Quyết định số 137/2009/QĐ-TTg); được sự quan tâm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về tổ chức, tên gọi, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của Bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN (Quyết định số 138/2009/QĐ-TTg ngày 09/12/2009).

- Nhiều văn bản đang được triển khai xây dựng, như: Quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy khi để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; sửa đổi, bổ sung Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP của Chính phủ về minh bạch tài sản và thu nhập.

- Hệ thống các văn bản trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng được các ngành, các cấp tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới theo thẩm quyền.

Đến nay, về cơ bản hệ thống thể chế về PCTN đã được hoàn thiện, tạo cơ sở chính trị và pháp lý cho công tác PCTN trước mắt cũng như lâu dài, nhiều tổ chức và bạn bè quốc tế đã đánh giá cao nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này.



Về phía Bộ Tư pháp:

Các Vụ, Cục chức năng thuộc Bộ thường xuyên tổ chức rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý của đơn vị. Từ đó, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ các quy định không phù hợp, không chặt chẽ, hoặc sơ hở, chồng chéo có thể dẫn đến hành vi tham nhũng, đồng thời bổ sung hoặc ban hành những quy định mới để đáp ứng được các yêu cầu về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, Bộ Tư pháp đã trực tiếp hoặc tham gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản sau đây:

- Rà soát Thông tư số 522/1999/TT-BGTVT ngày 20/10/1999 hướng dẫn đăng ký, cấp biển số và kiểm tra an toàn kỹ thuật các loại xe, máy chuyên dùng thi công đường bộ; Luật về giao thông đường thủy nội địa; Nghị định số 66/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 về đảm bảo an toàn cho người và tàu đánh cá hoạt động thuỷ sản; Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. Từ đó kiến nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định số 66/2005/NĐ-CP; đồng thời kiến nghị Chính phủ xem xét đề xuất với Quốc hội sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật về giao thông đường thuỷ nội địa cho phù hợp với quy định tại khoản 7 Điều 1 Nghị định số 65/2005/NĐ-CP.

- Ban hành các Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp phù hợp với Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;

- Ban hành Thông tư số 02/2009/TT-BTP ngày 17/9/2009 quy định về chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp;

- Ban hành Quy chế làm việc mẫu của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp kèm theo Quyết định số 2377/QĐ-TP ngày 02/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

- Ban hành Quyết định số 37/QĐ-BTP ngày 12/3/2009 về phê duyệt đơn giá trang phục Chấp hành viên, công chức cơ quan Thi hành án dân sự;

- Ban hành Quyết định số 3218/QĐ-BTP ngày 10/11/2009 ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp đến năm 2020 giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2011;

- Tiếp tục xây dựng và chỉnh lý dự thảo Luật Tiếp cận thông tin;

- Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự về Cơ quan quản lý thi hành án dân sự, Cơ quan thi hành án dân sự và Công chức làm công tác thi hành án dân sự;

- Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 thay thế Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bồi thường Nhà nước;

- Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 06/2010/TTLT-BTP-BTNMT ngày 01/3/2010 Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT;

- Ban hành Thông tư số 22/2010/TT-BTP ngày 06 tháng 12 năm 2010 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án;

- Phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 11/2010/TTLT-BTP-BNV ngày 17/6/2010 hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý và sử dụng viên chức đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp

- Phối hợp với Văn phòng Chính phủ và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 192/2010/TTLT-BTC-BTP-VPCP ngày 02/12/2010 hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật;

- Phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010 hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự

- Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự;




  • Ban hành Quyết định số 254/QĐ-VP ngày 19/4/2010 vè Quy chế làm việc của Văn phòng Bộ Tư pháp;

- Ban hành Quyết định số 3218/QĐ-BTP ngày 10/11/2009 Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp đến năm 2020 giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2011

- Cho ý kiến góp ý Đề án chủ trương phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về chống tham nhũng;

- Thẩm định dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về tổ chức, tên gọi, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của bộ phận giúp việc Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về phòng, chống tham nhũng;

- Phối hợp với Bộ Tài chính và Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC ngày 24/6/2010 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 61/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại và chế độ tài chính đối với văn phòng Thừa phát lại

- Ban hành Quyết định số 109/QĐ-VP ngày 01/3/2011 về Quy chế chi tiêu nội bộ của Văn phòng Bộ Tư pháp;

- Xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung Quy trình thanh toán bằng tiền mặt, Quy trình in ấn, phát hành tài liệu, Quy trình mua sắm tài sản, dịch vụ và sửa chữa lớn tài sản cố định...


2.3. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa

Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, tập trung vào các lĩnh vực: xây dựng cơ chế chính sách, quy trình, thủ tục giải quyết công việc, gắn với cải cách thủ tục hành chính, công khai việc sử dụng ngân sách, tài sản công, kinh phí chi tiêu nội bộ, công tác tổ chức cán bộ... Nhiều bộ, ngành đã tổ chức các buổi giao lưu trực tuyến để giải quyết những vướng mắc của người dân, doanh nghiệp trong các lĩnh vực như: đất đai, tài nguyên khoáng sản, bưu chính - viễn thông, khoa học công nghệ. Hầu hết các tỉnh, thành phố đã tiến hành kiểm tra hoặc thanh tra công vụ đối với việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Đến nay, cả nước hầu hết các cơ quan, tổ chức đơn vị thực hiện các quy định về công khai, minh bạch. Điển hình như thành phố Hà Nội có 100% cơ quan, đơn vị đã thực hiện cơ chế một cửa “liên thông”; tỉnh Sóc Trăng có 100% cơ quan, đơn vị thực hiện quy định về công khai, minh bạch; Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định công khai các hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh trên cổng thông tin điện tử; tỉnh Quảng Trị 100% cơ quan, đơn vị thực hiện việc công khai trong chi tiêu nội bộ, công tác cán bộ...

Tuy nhiên, tình trạng chậm công khai trong một số lĩnh vực, như: quy hoạch, dự án, chi tiêu ngân sách...còn khá phổ biến. Một số cơ quan, tổ chức, đơn vị lạm dụng quy định về bí mật nhà nước để hạn chế công khai, minh bạch theo quy định.

Trong năm 2009, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn và quy chế chi tiêu nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng.

Các bộ, ngành Trung ương đã tiến hành hàng ngàn cuộc kiểm tra việc thực hiện chế độ định mức tiêu chuẩn, phát hiện hàng trăm vụ vi phạm, với tổng giá trị sai phạm hàng chục tỷ đồng; đã xử lý kỷ luật hàng trăm cán bộ, công chức, kiến nghị xử lý hình sự nhiều trường hợp. Một số tỉnh, thành phố làm tốt việc xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn là: thành phố Cần Thơ, Thái Nguyên, Kiên Giang, Bến Tre, Quảng Trị, Khánh Hòa, Sóc Trăng, Hậu Giang, Hà Nam...

Tuy nhiên, hiện nay nhiều quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn còn chưa sát với thực tế, chậm được sửa đổi, khó áp dụng, dẫn đến dễ nảy sinh tiêu cực

Về phía Bộ Tư pháp:

Các biện pháp phòng ngừa luôn được Bộ Tư pháp xác định là biện pháp cần thiết, quan trọng và thường xuyên trong công tác phòng, chống tham nhũng. Chính vì vậy, trong các năm qua, một loạt các biện pháp phòng ngừa đã được Bộ Tư pháp triển khai thực hiện như:

- Công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị: Các hoạt động của cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đều được thực hiện công khai, minh bạch dưới hình thức thông báo, phổ biến công khai trong các cuộc họp của Bộ và của từng đơn vị; qua việc đăng tải thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (http://www.moj.gov.vn);

Bộ Tư pháp tiếp tục áp dụng thực hiện Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trên các lĩnh vực hoạt động của Văn phòng Bộ, trong đó có công tác quản lý tài chính, tài sản;

- Tiếp tục trả lương qua tài khoản cho cán bộ, công chức cơ quan Bộ, góp phần quan trọng trong việc hiện đại hoá hoạt động của cơ quan nhà nước, đổi mới công nghệ quản lý, kiểm soát thu nhập của cán bộ, công chức và phòng ngừa tham nhũng;

- Tiến hành kê khai, đăng ký tài sản nhà nước theo quy định tại Thông tư số 35/2007/TT-BTC;

- Cục Thi hành án dân sự triển khai thực hiện việc quản lý công tác Thi hành án dân sự qua trang thông tin về Thi hành án dân sự (http://www.tha.moj.gov.vn) để khai thác và sử dụng phục vụ công việc;

- Thực hiện việc cải cách hành chính trong các cơ quan thi hành án. Đảm bảo mọi thủ tục hành chính trong công tác thi hành án phải công khai, nhanh gọn, chính xác, giảm thiểu sự phiền hà cho dân khi phải đến liên hệ, làm việc với cơ quan thi hành án;

- Thực hiện việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Tư pháp giai đoạn 2009-2010 theo Chỉ thị số 01/CT-BTP ngày 10/6/2009;

- Tổng hợp báo cáo tình hình mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thuộc phạm vi quản lý của đơn vị năm 2007 và 2008 theo yêu cầu của Bộ Tài chính;

- Tiếp tục triển khai Dự án xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hệ thống đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm nhằm tiến tới tổ chức thực hiện đăng ký qua mạng;

- Thực hiện Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước giai đoạn 2007 - 2010, Bộ Tư pháp đã hoàn tất giai đoạn thống kê thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng của Bộ. Ngày 05/8/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1875/QĐ-BTP về việc công bố Bộ thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp. Ngày 06/8/2009, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Hà Hùng Cường, Bộ Tư pháp đã tổ chức Lễ công bố Bộ thủ tục hành chính này. Việc công bố công khai các thủ tục hành chính đã đánh dấu bước phát triển quan trọng về công khai thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội tiếp cận tìm hiểu và kiến nghị về các thủ tục hành chính. Hiện tại, Bộ Tư pháp đang tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 của đề án.


2.4. Xây dựng, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và chuyển đổi vị trí công tác

Hầu hết các cơ quan Trung ương đã ban hành và thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Một số tổ chức xã hội nghề nghiệp ở Trung ương cũng đã xây dựng và thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp của hội viên như: Hội Kế toán, Kiểm toán, Hội nhà báo, Tổng hội Y dược học...; các tổ chức khác cũng đang khẩn trương xây dựng quy tắc để ban hành.

Các tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương theo Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ. Theo thống kê của 46 tỉnh, thành phố, đến nay có 10.710 cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Các tỉnh Điện Biên, Quảng Ngãi, Bạc Liêu có 100% đầu mối trực thuộc tỉnh đã thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức; tỉnh Bến Tre tổ chức cuộc thi “ứng xử trong giao tiếp hành chính năm 2009”; ở Yên Bái, 100% cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức đã ký cam kết không tham nhũng, tiêu cực; tỉnh Cao Bằng có 72% số đơn vị với 92,4% số cán bộ, công chức, viên chức ký cam kết không tham nhũng; thành phố Hồ chí Minh, Bình Phước đã triển khai thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức đến cấp xã, phường. Qua việc thực hiện Quy tắc ứng xử và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp đã xuất hiện nhiều tấm gương tốt như: ngành Công an có 30.000 lượt cán bộ, chiến sỹ không nhận hối lộ.

Các tỉnh, thành phố đã kiểm tra thực hiện tại 4.315 cơ quan, đơn vị để chấn chỉnh những sai phạm và rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện. Tuy nhiên còn nhiều người dân và doanh nghiệp vẫn còn phàn nàn về đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành công vụ; công tác kiểm tra việc thực hiện còn hạn chế.

Đến thời điểm hiện nay, có 29/38 cơ quan, tổ chức ở Trung ương ban hành danh mục các vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức cần phải chuyển đổi. Theo số liệu báo cáo của 15 bộ, ngành Trung ương, đã có 1.000 cơ quan, đơn vị thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, với 12.960 người được chuyển đổi. Các địa phương đã có 2.190 cơ quan, đơn vị thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, với 16.333 người được chuyển đổi. Nhiều bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức như: Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Xây dựng; tỉnh Bắc Giang, Gia Lai, Bến Tre, Nghệ An, Tiền Giang, Thừa Thiên - Huế, Đồng Nai, Quảng Trị, thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng... Việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ công chức, viên chức trên các lĩnh vực đã mang lại hiệu quả bước đầu trong phòng ngừa tham nhũng.

Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa ban hành được danh mục vị trí công tác phải định kỳ chuyển đổi của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. Một số địa phương có số lượng cán bộ, công chức chuyển đổi còn ít (Lai Châu, An Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bình Định, Trà Vinh...). Qua thực hiện, một số quy định về thời gian, đối tượng, vị trí cần chuyển đổi có nhiều vướng mắc cần được xem xét để có sự điều chỉnh phù hợp.

Đã có 32 bộ, cơ quan ở Trung ương và 26 địa phương hoàn thành việc kê khai tài sản, thu nhập năm 2008, trong đó có 388.404 người kê khai lần đầu, 238.455 người kê khai bổ sung. Một số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt công tác kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, có 100% số người thuộc diện kê khai tài sản, thu nhập đã kê khai như: Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông vận tải, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Gia Lai, Đà Nẵng, Khánh Hòa. Cùng với việc thực hiện kê khai tài sản của cán bộ, công chức, các bộ, ngành, địa phương cũng đã tiến hành xác minh tài sản, thu nhập đối với 11.850 trường hợp để phục vụ các yêu cầu quản lý cán bộ, công chức. Tuy còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau nhưng việc kê khai tài sản, thu nhập đã có những tác dụng nhất định trong công tác quản lý cán bộ, công chức.

Hiện nay, có nhiều địa phương còn lúng túng trong quản lý và sử dụng các bản kê khai tài sản của cán bộ, công chức; một số quy định của Đảng về công khai kết quả kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên chưa được thực hiện; có địa phương sự phối hợp của cấp ủy đảng với chính quyền trong chỉ đạo chưa đồng bộ; hiệu quả, tác dụng của việc kê khai tài sản còn rất hạn chế.

Việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện. Một số tỉnh, thành phố đã ban hành văn bản quy định cụ thể việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng.

Riêng năm 2009, các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương xử lý trách nhiệm 195 người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng. Một số bộ, ngành, địa phương có nhiều người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng bị xử lý như: Bộ Công an 9 người, Ngân hàng Nhà nước 20 người, thành phố Hà Nội 24 người, Sơn La 7 người, Bình Phước 8 người, Hậu Giang 12 người, Cao Bằng 12 người, Bà Rịa -Vũng Tàu 12 người, Tuyên Quang 12 người, Bình Thuận 16 người, Đồng Nai 18 người... Việc xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu đã có tác dụng tích cực tăng tính chủ động kiểm tra, phát hiện nhằm phòng ngừa tham nhũng ngay trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Tuy nhiên, việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu còn ít so với số vụ án tham nhũng đã xét xử. Nhiều nơi còn nhầm lẫn giữa xử lý trách nhiệm người đứng đầu với xử lý người đứng đầu khi có sai phạm; nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị còn nể nang, né tránh việc xử lý.

Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa liên thông”, áp dụng công nghệ thông tin và tiêu chuẩn ISO vào quản lý hành chính. Theo báo cáo của các địa phương, đến nay đã có 2.267 cơ quan, tổ chức, đơn vị áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO trong quản lý; 3.365 cơ quan, tổ chức, đơn vị áp dụng các hình thức khác để đổi mới công nghệ quản lý.

Thực hiện Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010, 100% các bộ, ngành ở Trung ương đã công bố bộ thủ tục hành chính của mình; 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành quyết định công bố bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp sở, ban, ngành và huyện, xã. Hiện các bộ, ngành, địa phương đang tích cực triển khai thực hiện giai đoạn 2 của Đề án. Sự chuyển biến của công tác cải cách hành chính trong năm 2009 và nhũng năm vừa qua thực sự góp phần nâng cao hiệu quả của công tác PCTN.

Về phía Bộ Tư pháp:

Trong năm 2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã Ban hành Quyết định số 468/QĐ-BTP ngày 26/02/2009 về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp và triển khai thực hiện trong toàn cơ quan; thực hiện triệt để Quy chế văn hoá công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02/8/2007.

Căn cứ vào Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp được ban hành tại Quyết định số 468/QĐ-BTP ngày 26/02/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, hướng dẫn các Trung tâm Đăng ký thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm xây dựng Quy tắc ứng xử của viên chức Trung tâm đăng ký.

Trong tháng 12/2009, Bộ Tư pháp đã tổ chức Toạ đàm việc thực hiện Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp đặc biệt là những cán bộ trẻ về văn hoá ứng xử và các phạm trù đạo đức nghề nghiệp.

Thực hiện Kế hoạch số 08-KH/BCS ngày 02/02/2009 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về việc thực hiện Hướng dẫn số 22/HD/BTCTW ngày 01/10/2008 của Ban tổ chức Trung ương thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đang tiến hành quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trên tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch.

- Thực hiện việc luân chuyển công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển công tác khác đối với các chức vụ lãnh đạo nói riêng và công chức nói chung trong cơ quan Bộ Tư pháp theo đúng quy định của pháp luật.



2.5. Phát hiện và xử lý tham nhũng

Riêng năm 2009, thông qua hoạt động thanh tra kinh tế-xã hội và giải quyết khiếu nại, tố cáo, toàn ngành Thanh tra đã phát hiện 150 vụ, 431 người có liên quan đến tham nhũng với số tiền 74,85 tỷ đồng, 10,6 ha đất. Các cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu hồi 55,2 tỷ đồng (đã thu hồi 22,78 tỷ đồng); kiến nghị xử lý hành chính 64 tập thể, 366 cá nhân; kiến nghị xử lý trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu 41 trường hợp; chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý hình sự 68 vụ việc với 84 người.

Thực hiện Nghị quyết số 722/NQ-UBTVQH12 ngày 02/01/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Đoàn giám sát “Tổ chức thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và việc phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng của các cơ quan có thẩm quyền trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng”, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giám sát các cơ quan Thanh tra, Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án và Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN tại các tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Đồng Nai, Khánh Hòa, Quảng Ninh, Quân khu 7; làm việc với các cơ quan có thẩm quyền trong công tác PCTN để nghe các báo cáo về việc tổ chức thực hiện công tác đấu tranh PCTN. Kết thúc đợt giám sát đã ban hành Báo cáo về kết quả giám sát việc tổ chức thực hiện công tác đấu tranh PCTN và việc phát hiện xử lý hành vi tham nhũng của các cơ quan có thẩm quyền trong công tác đấu tranh PCTN. Trong Báo cáo, Đoàn giám sát đã đưa ra những đánh giá về tình hình tham nhũng thời gian qua, phân tích những nguyên nhân của tình hình tham nhũng và kiến nghị một số biện pháp PCTN với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền.

Tại một số địa phương, các Đoàn đại biểu Quốc hội đã làm việc, giám sát chuyên đề và kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý, chấn chỉnh những bất cập trong việc quản lý tài sản quốc gia, sử dụng đất công, xây dựng sân golf...

Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, tính đến ngày 30/11/2009, Kiểm toán Nhà nước đã triển khai 133 cuộc kiểm toán, đạt 97,8% kế hoạch năm 2009. Trong đó đã kết thúc 99 cuộc, ban hành 77 báo cáo kết quả kiểm toán; kiến nghị xử lý về tài chính với tổng số tiền hơn 6.565 tỷ đồng. Kiểm toán Nhà nước cũng đã phối hợp cùng Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đôn đốc các cơ quan chức năng thực hiện 7 kết luận kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.

Theo báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, trong 12 tháng qua (từ ngày 01/12/2008 đến 30/11/2009), các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước đã:



- Khởi tố: 289 vụ/631 bị can (so với cùng kỳ năm 2008 tăng 2,48% số vụ và 1,45% số bị can). Trong đó, tội: Tham ô tài sản chiếm 52,9% số vụ và 50,3% số bị can; Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản chiếm 22,5% số vụ và 13,9% số bị can; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ chiếm 12,4% số vụ và 19,3% số bị can; các tội danh khác chiếm 12,2% số vụ và 16,5% số bị can.

- Truy tố: 321 vụ/ 819 bị can (so với cùng kỳ năm 2008 giảm 18,53% số vụ và 10,39% số bị can).

- Xét xử sơ thẩm: 308 vụ/718 bị cáo (so với cùng kỳ năm 2008 giảm 8,33% số vụ và 8,54% số bị cáo).

Một số địa phương trong năm 2009 đã phát hiện, khởi tố được nhiều vụ tham nhũng là: Hà Nội 39 vụ/ 93 bị can, Kiên Giang 12 vụ/ 16 bị can, Quảng Ngãi 11 vụ/ 22 bị can, Quảng Ninh 11 vụ/ 116 bị can, Bắc Ninh 11 vụ/ 40 bị can, Phú Yên 13 vụ/ 17 bị can, Bình Thuận 16 vụ/ 34 bị can, Bắc Giang 21 vụ/ 36 bị can.

17 vụ án Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN theo dõi, chỉ đạo đến nay, 06 vụ đã xét xử và xử lý; 11 vụ kết thúc điều tra.

- Tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng được tiến hành khẩn trương hơn; việc chấp hành các quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục cơ bản được bảo đảm.

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng được thường xuyên và mang lại hiệu quả thiết thực.

- Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng đã được phát hiện và xử lý; một số vụ án tồn đọng từ nhiều năm được tập trung giải quyết (Vụ Công ty Xăng dầu Hàng không, vụ Công ty Cao su Phú Riềng, vụ Cảng Thị Vải, vụ Đặng Nam Trung).

Tuy nhiên, so với yêu cầu của nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng, công tác điều tra, truy tố, xét xử còn nhiều hạn chế như:

- Một số vụ án nghiêm trọng, phức tạp do chất lượng điều tra trước đây còn hạn chế và sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến thời gian xử lý kéo dài.

- Một số địa phương việc phát hiện và xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng còn ít, chưa tương xứng với tình hình tham nhũng thực tế.

Về phía Bộ Tư pháp:

Bộ Tư pháp rất chú trọng đến công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Kế hoạch công tác thanh tra của Bộ cũng như của các Sở Tư pháp đã được xây dựng tập trung vào một số lĩnh vực công tác dễ dẫn đến có những sơ hở hoặc nhũng nhiễu làm nảy sinh hành vi tham nhũng như: Đầu tư xây dựng cơ bản; Thi hành án dân sự; luật sư, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các trường hợp tham nhũng cần được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Các đơn tố cáo cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng đều được Bộ Tư pháp xác minh, làm rõ.

Công tác kiểm tra, thanh tra được thực hiện trên cơ sở Kế hoạch công tác năm đã được Bộ trưởng phê duyệt. Các đơn vị thuộc Bộ thường xuyên kiểm tra các hoạt động thu chi theo định kỳ. Xây dựng chế độ chịu trách nhiệm của cán bộ, công chức trong Bộ, nhất là những cán bộ công chức trực tiếp liên quan đến việc giải quyết các công việc của dân và đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ Lãnh đạo đối với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan đơn vị mình.
2.6. Tổ chức, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng

Các chủ trương, Nghị quyết của Đảng cũng như các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng đều được Lãnh đạo Bộ quán triệt, phổ biến kịp thời. Đã có sự phân công trong Ban cán sự Đảng, trong Lãnh đạo Bộ về chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, phân công cơ quan giúp việc cho Lãnh đạo Bộ về công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, đã có sự phối hợp, phát huy vai trò của các tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong Bộ như Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với công tác phòng, chống tham nhũng.

Cụ thể, ngày 28/11/2007, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành quyết định số 1900/QĐ-BTP về việc kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ của Bộ Tư pháp. Theo đó Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ do 01 Thứ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban và các thành viên đều là người đứng đầu các đơn vị, tổ chức có liên quan. Quyết định số 04/2006/QĐ-BTP ngày 12/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động phòng, chống tham nhũng của ngành Tư pháp. Ngoài ra, hàng năm, Bộ Tư pháp thường xuyên có các văn bản chỉ đạo, nhắc nhở các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương về các vấn đề liên quan đến đấu tranh phòng, chống tham nhũng như chế độ thông tin, báo cáo, công tác rèn luyện đạo đức, xử lý vi phạm...

2.7. Việc xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch của Bộ Tư pháp về thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.

Theo hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ tại Công văn số 1411/TTCP-C.IV ngày 30/6/2009 hướng dẫn xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, ngày 10/11/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 3218/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp đến năm 2020, giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2011 và đang bước đầu triển khai thực hiện tới các đơn vị thuộc Bộ.



2.8. Nhận xét, đánh giá về việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp

Nhìn chung, trong các năm qua, Bộ Tư pháp đã thực hiện nghiêm túc các nội dung cơ bản của Chương trình hành động phòng, chống tham nhũng của Chính phủ cũng như của ngành Tư pháp. Qua đó góp phần vào công cuộc chung của cả nước đưa Luật phòng, chống tham nhũng vào cuộc sống; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn này.

Có được kết quả trên, trước hết là do công tác phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp luôn được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và coi đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng của ngành nhằm kịp thời phát hiện những sơ hở trong công tác quản lý, điều hành để sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế và xử lý thật nghiêm những trường hợp có vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức cơ quan Bộ cũng như trong ngành Tư pháp đều ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác này, nên các nhiệm vụ của công tác phòng, chống tham nhũng khi triển khai đều được thực hiện nghiêm túc, có chất lượng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác PCTN năm qua còn có một số hạn chế, yếu kém như sau:

- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về PCTN tuy đã được tổ chức thực hiện có trọng tâm, trọng điểm nhưng chưa thường xuyên, liên tục, thiếu chiều sâu, nhất là ở cấp cơ sở. Thông tin mới chỉ quan tâm tới việc đưa tin về các vụ việc tham nhũng cụ thể, chưa chú trọng việc tuyên truyền về các giải pháp phòng ngừa và các điển hình tốt trong PCTN để kịp thời nhân rộng.

- Do lực lượng cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về PCTN còn mỏng nên công tác thanh tra phát hiện những vi phạm chưa được tiến hành thường xuyên.

- Hiệu quả thực hiện một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn thấp, như: kê khai tài sản, thu nhập; chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức...

- Tình trạng nhũng nhiễu của một số cán bộ, công chức trong việc giải quyết công việc có liên quan tới người dân và doanh nghiệp còn diễn ra.



2.9. Phương hướng

Ngày 10/11/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 3218/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp đến năm 2020, giai đoạn 2009-2011.

Theo đó năm 2010, 2011, Bộ Tư pháp tập trung thực hiện các nhiệm vụ của công tác phòng chống tham nhũng sau:

- Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật và thực hiện các quy định về phòng, chống tham nhũng; công khai, dân chủ và minh bạch trong mọi hoạt động mà chủ yếu là công tác tài chính, kế toán;

- Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ có các quy định không còn phù hợp, không chặt chẽ, hoặc sơ hở, chồng chéo có thể dẫn đến hành vi tham nhũng;

- Hoàn thiện Dự thảo Quy chế phối hợp trong giải quyết khiếu nại tố cáo giữa các đơn vị thuộc Bộ và Quy chế phân cấp trong hoạt động thanh tra giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở;

- Tập trung hoàn thiện, kết thúc các vụ việc thanh tra, xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo đã tiến hành năm 2009;

- Thực hiện việc tiếp công dân, xử lý đơn thư theo đúng quy định;

- Tiếp tục triển khai Kế hoạch thanh tra năm 2009 và thanh tra đột xuất theo đơn khiếu nại, tố cáo để kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng nếu có;

- Tiếp tục triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng của Bộ Tư pháp đến năm 2020, giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2011;

- Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của Bộ Tư pháp;

- Tiếp tục tham gia quá trình đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm phòng ngừa tham nhũng.


Каталог: Uploads
Uploads -> -
Uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1

tải về 1.24 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương