Cố Mục Sư Nguyễn Duy Xuân LỜi tác giả. Mục đích tôi viết quyển sách làm chứng này


ƠN CHÚA NGĂN TRỞ CHÚNG TÔI LÁI XE QUA ĐỒI…



tải về 1.82 Mb.
trang8/8
Chuyển đổi dữ liệu02.06.2018
Kích1.82 Mb.
#39274
1   2   3   4   5   6   7   8

ƠN CHÚA NGĂN TRỞ CHÚNG TÔI LÁI XE QUA ĐỒI…

Nhớ lại, tối thứ 7, ngày 18/12/71, lúc 8 giờ 30 tối, tôi lái xe đưa hai con và vài thanh niên Pháp đi nhóm thanh niên vào buổi tối thứ 7, tại nhà thờ Tin lành Tự do ở số 4, đường Montoyol. Khi đến trước cửa nhà thờ, thì các con tôi mới nhớ lại tuần trước đó, Mục sư P. Tessier có mời thanh niên đến họp tại nhà của ông đêm ấy, ở số 19, đường Imprimerie (cách nhà thờ độ 4 cây số).

Xe ngừng trước cửa nhà thờ ít phút, vì tôi hơi nhức đầu nên lưỡng lự không muốn đi. Các con cũng như các bạn thanh niên thúc giục tôi lái đi, vì chẳng những nhóm họp mà cũng sẽ có bữa ăn sau giờ họp. Nhưng tôi đưa tay lên trán mấy lần vì nghe đầu hơi ê nhức. Đoạn tôi lái xe ra khỏi đường nhà thờ, nhưng cũng chưa quyết định đi hay không? Các con tôi đinh ninh là tôi sẽ đưa chúng đi. Nhưng khi đến đường lớn, tức là chổ rẽ đi nhà Mục sư Tessier hay trở về, thì tôi lại có một quyết định bẻ lái trở về. Các con tôi cũng như các thanh niên tiếc quá la lên: “Ô, Ba lái trở về rồi.” Khi về vừa tới nhà (đoạn đường đi chừng vài cây số) thì xe thắng không được. Sau khi coi lại thì dầu thắng đã khô cạn hết.

Thật cảm tạ ơn Chúa, sự thương xót của Ngài thật lớn biết bao. Vì đường đến nhà Mục sư P. Tessier phải leo lên đồi cao và xuống hết dốc mới tới nhà. Nếu trường hợp xe lên đồi hoặc xuống dốc mà không thắng được thì sự nguy hiểm đến tánh mạng cả 5 người là điều cầm chắc. Mỗi khi tôi nhớ lại việc nầy, lòng tôi vẫn còn thấy ghê rợn, miệng không quên cảm tạ ơn Chúa là Đấng biết trước mọi sự nguy hiểm có thể xảy ra nên can thiệp đúng lúc để giúp chúng tôi khỏi bị lâm nạn! Thật cảm tạ ơn Chúa.



CẦU NGUYỆN CHO MỘT THẦY DÒNG BỊ BỊNH

Ngày kia, chúng tôi đến thăm một gia đình bán tiệm ăn (restaurant). Khi bước vào thì gặp một ông khách đang ngồi đó. Bà chủ nhà liền giới thiệu: “Đây là cậu… học ở nhà dòng, gần lên chức Cha, nhưng bị bịnh nên không làm Cha được.” Thấy người có vẻ lờ đờ, ít nói chuyện. Chúng tôi bắt đầu làm quen và sau đó, nói chuyện về quyền phép lớn lao của Chúa Jê sus, cùng mở Kinh thánh chỉ dẫn cho người về Đạo Tin lành là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu người tin. Sự chết của Chúa Jesus trên Thập tự giá, huyết Ngài đã đổ ra là để cứu rỗi linh hồn; nhưng việc bị hành hạ và đánh đập trên thân thể mà Chúa Jesus phải chịu, là để cứu thân thể của con người bị bịnh tật, như sách Êsai đã nói: “Nhưng người (Jesus) đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người, chúng ta được lành bịnh.” (Êsai53:5)

Sau gần 1 giờ, người ngồi nghe chăm chú, thỉnh thoảng người có hỏi một vài câu. Kế đó, người quỳ xuống giữa phòng ăn và nói: “Xin Mục sư cầu nguyện cho tôi được chữa lành bịnh nhức đầu.” Tôi liền dặt tay lên đầu người và cầu nguyện, xin một phép lạ của Cứu Chúa Jesus cứu người khỏi bịnh nhức đầu, để người thấy rỏ quyền năng và phép lạ của Chúa mà trở lại với Đạo Tin lành đúng theo chính giáo của Chúa để linh hồn được cứu rỗi.

Sau một tuần, chúng tôi trở lại thăm thì hết sức ngạc nhiên, thấy người nói chuyện lanh lẹ và hoạt bát như không đau chi cả, người đem Kinh thánh ra thảo luận rất vui vẻ, và sau đó người hợp tác với một vị mục sư Pháp để lo truyển giảng cho sinh viên. Cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ! Ước mong người thắng hơn những bắt bớ, tiếp tục trung tín với Chúa Jesus để thân thể được khỏe mạnh và được Chúa dùng để mang đến sự cứu rỗi cho nhiều người.



CẦU NGUYỆN CHO MỘT NGƯỜI BỊ MA QUỈ ÁM ẢNH KHUẤY PHÁ.

Ngày kia, có một người đến nhà để bán một chiếc xe đạp gắn máy cho con chúng tôi. Sau khi xong việc mua bán, tôi liền chia sẻ về tình yêu thương Chúa Jesus cho người. Người rất chú ý nghe và sau đó người xin tôi cầu nguyện giúp người tin Chúa Jesus.

Qua ngày hôm sau, vừa sáng sớm, người đến nhà chúng tôi, tay xách một giỏ trái cây để biếu. Chúng tôi từ chối không nhận vì việc chúng tôi giúp cho mọi người biết Tin lành để tin Chúa là một việc làm nhưng không; nên không dám nhận tiền hay quà bánh chi hết. Người yêu cầu chúng tôi nhận cho người một lần để người kể chuyện. Sau đó người kể: “Tôi đã bị một con quỉ theo ám ảnh và khuấy phá gần 5 năm, ban đêm là nó hiện ra để khuấy phá, gỏ cửa và ngồi gần đầu giường nói chuyện rù rì, trải qua mấy năm. Tôi phải dọn nhà nhiều lần, thử xem có hết không, nhưng vô hiệu quả, đành chịu đựng số phận, nên ban đêm tôi để đèn thật sáng mà ngủ. Tôi thường đi nhà thờ Công giáo để cầu nguyện vào lúc sáng sớm, mặc dù trời đổ tuyết, tôi cũng cố gắng đến đó cầu nguyện, mong lập công quả để Chúa thương xót đuổi quỉ lánh xa. Nhưng nó vẫn theo tôi. Có lần tôi cũng đã đến Lourde đề cầu nguyện nhưng cũng vô hiệu. (Lourde là một chổ mà người Công giáo cho biết là nơi có xảy ra nhiều phép lạ của bà Mari, nên từ khắp các xứ Âu châu người hay đến đó nguyện cầu). Hôm qua Mục sư đã cầu nguyện cho tôi tin Jesus và về nhà tôi ngủ suốt đêm chẳng còn nghe thấy gì nữa như những đêm trước.”

Thật cảm tạ ơn Chúa rất diệu kỳ! Ngài có thương xót một NẠN NHƠN của “THẾ GIỚI TỐI TĂM”. Và từ ấy đến nay đã hơn 4 năm, người vẫn một lòng tin Chúa và chẳng còn một lần nào bị ma quỉ đến khuấy phá nữa. Cảm tạ ơn điển và quyền năng thật lạ lùng của Chúa!



VÀI LỜI KẾT LUẬN CHO PHẦN NẦY

Đồng bào thân mến! Ước vọng chính của tôi khi được Chúa thúc giục viết ra quyển sách nhỏ nầy, là mong nó được tới tận tay đồng bào là người chưa tin Chúa Jesus, để khi có dịp đọc qua thì được biết ít nhiều về NIỀM TIN mà chúng tôi đặt nơi Chúa Jesus, và hiểu rằng Chúa Jesus là Đấng đã ban ơn phước trên chúng tôi bởi NIỀM TIN ấy.

Dù phải trải qua những lúc gặp khó khăn, hoạn nạn, gia dình bị đau yếu, bịnh tật, có lúc bị bắt bớ hăm dọa… Nhưng trong mọi hoàn cảnh ấy, chúng tôi luôn hướng về Chúa Jesus mà cầu xin, thì được Ngài nhậm lời và đáp ứng sự cầu xin bằng những sự cứu giúp kịp thời và lạ lùng của Ngài. Đúng như lời Kinh thánh đã chép: “Chúa Jesus phán: các ngươi nhơn danh Ta mà cầu xin đều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho.” (Giăng 14:13) “Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói Ta đã nghe rồi.” (Êsai 63:24). “Khi ngươi cầu, Ta ứng,” (Êsai 58:9). “Khi dân Ngài bị khốn khó, thì chính Ngài cũng khốn khó và Thiên sứ trước mặt Ngài đã cứu họ rồi.” (Êsai 63:9). “ Đức Chúa Trời ở gần mọi người cầu khẩn Ngài, tức là ở gần mọi người có lòng thành thực cầu khẩn, Ngài sẽ nghe tiếng kêu cầu của họ và giải cứu họ, vì Đức Chúa Trời bảo hộ kẻ yêu mến Ngài.” (Thi thiên 145:18-20).

Vậy, đồng bào muốn được phước đời nầy và đời sau, muốn được cứu rỗi linh hồn, hãy mau mau tin nhận Cứu Chúa Jesus làm Cứu Chúa duy nhất của mình, để tội được tha và linh hồn được cứu. Còn trái lại, không chịu tin Chúa Jesus mà vẫn đi tìm đạo lý nầy, tôn giáo kia; thì không thể nào được cứu như Kinh thánh đã nói: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có Đấng nào khác ban cho loài người, để chúng ta nhờ đó mà được cứu rỗi.” (Sứ đồ 4:12). “Hễ ai tin Chúa Jesus thì được tha tội vì Danh Ngài.” (Công vụ các Sứ-đồ 10:43). “Chỉ nhờ Ngài mà anh em được cứu. Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội theo sự dư dật của ân điển Ngài.” (Êphêsô 1:7). “Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin Lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, cùng đứng vững vàng trong đạo ấy, và nhờ đạo ấy, anh em được cứu rỗi, miễn là anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho; bằng không, thì anh em dầu có tin cũng vô ích.” (I Cô rinh tô 15:1-2). “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Rô ma 8:1).

Riêng về phần tôi là tác giả quyển sách nhỏ nầy, tôi muốn ôn lại những ơn phước của Chúa trong thời quá khứ để rút kinh nghiệm dùng làm bài học cho hiện tại và tương lai, hầu khả dĩ tiếp tục đóng góp ít nhiều cho công việc Chúa trên đường phục vụ Ngài nơi Hải ngoại. Chúng tôi đã quyết định rằng, dầu giàu hay nghèo, dầu đau hay mạnh, dầu may mắn hay không, dầu được quý trọng hay khinh thường, dầu khi giảng Tin lành có nhận được trợ cấp hay không, chúng tôi quyết tâm tiếp tục nhiệm vụ hầu việc Chúa, mong đáp đền ơn muôn một với Chúa Jesus, là Đấng ban ơn xuống phước không kể xiết trên chúng tôi, ấy là lo “rao truyền Tin lành, không phải để đẹp lòng loài người, nhưng để được đẹp lòng Đức Chúa Trời” (I Têsalônica 2:4)

VÀI LỜI TÓM TẮC:

Chúng tôi muốn nói lên:

“ƠN THƯỢNG ĐẾ ĐÃ NHẬN LỜI CẦU NGUYỆN” như đầu đề quyển sách đã nêu ra. Thử hỏi: Nếu không có Đức Chúa Trời yêu thương, nếu không có Đức Chúa Trời phù hộ, nếu không có Đức Chúa Trời dẫn dắt người tin, nếu không có Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện, thì mấy mươi năm qua Đấng nào đã cứu giúp chúng tôi qua những biến cố và hoàn cảnh đã kể qua trong sách nầy? Há không phải Đức Chúa Trời hay sao? Phải! Dù quí vị có tin hay không thì chúng tôi bao giờ cũng chỉ có một câu trả lời là: “Phải!” Chính Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng hay ban ơn và nhậm lời cầu nguyện của con cái Ngài. Nhờ NIỀM TIN chắc chắn trong Chúa Jesus nên lòng chúng tôi luôn vui vẻ và thường ngâm lên bài thơ mà tôi đã sáng tác để tạ ơn Thượng đế, là Đấng đã nhậm lời cầu nguyện như dưới đây:

ÂN THƯỢNG ĐẾ

Ân Thượng đế đã nhậm lời cầu nguyện,

Ân ban từ Việt nam đến Cao miên,

Ân cứu sinh thật rộng lớn vô biên,

Nguyện cung hiến tấm lòng thành cho Chúa.

Rời đất Nam Vang lòng vui chan chứa!

Sang xứ người, đất Pháp Chúa dẫn đưa.

Biết bao nhiêu cơn thử thách nắng mưa!

Cùng gia quyến, Tou-lou đồng thẳng tiến.

Sống, thác, đói, no chẳng màng nguy biến!

Quyết dâng đời hầu việc Chúa Jesus.

Phú quí trời Tây, lòng quyết chối từ.

Dâng, Hồn, Linh, Thể lên cho Cha Thánh.

Lòng tự nguyện suốt đời dù ấm lạnh!

Đem đạo Trời gieo rắc khắp nơi nơi,

Giảng Tin lành, truyền Ân Sủng cứu đời,

Chờ hột giống, một ngày kia nẩy nở!

Các bạn đồng lao và anh chị em tín hữu thân mến! Chúng tôi tình nguyện hầu việc Chúa ở nơi phương trời Tây xa xôi và lạnh lẽo nên chức vụ thêm phần khó khăn. Nhưng chúng tôi cố gắng làm một vài công việc cho Chúa trước ngày Chúa chúng ta gần trở lại, mong góp phần với các nhà truyền giáo ở khắp thế gian ít nhiều theo tài hèn sức mọn của chúng tôi hiến lên cho Chúa.

Ước mong quí vị nào có dịp đọc qua quyển sách nhỏ nầy, xin ủng hộ chức vụ của chúng tôi bằng sự cầu nguyện, để Chúa ban ơn nâng đỡ công cuộc truyền giáo Tin lành cho kiều bào tại Pháp được sâu rộng, nhứt là đến những địa phương có đông kiều bào chúng ta trú ngụ. Xin thành thật cám ơn.

Viết xong mùa Nô ên năm 1976, tại Toulouse.

Mục sư Nguyễn Duy Xuân

Tái bút: Hẹn sẽ tiếp tục viết thêm để hoàn thành xong quyển sách nhỏ làm chứng nầy trong những năm còn hầu việc Chúa với hội thánh Toulouse, để kính dâng lên cho Chúa lòng biết ơn và cảm tạ.

THÀNH LẬP HỘI THÁNH TOULOUSE.

Nhớ lại, trong 7 năm hoạt động hầu việc Chúa tại Toulouse (Pháp), thỉnh thoảng, chúng tôi cũng có đi những vòng truyền giáo cho kiều bào tại Luân đôn, Paris, Lyon, Bordeaux, Monperlier và Marseille. v.v… Công việc Chúa tuy không kết quả như sở nguyện, nhưng cũng thâu lượm được ít nhiều thành quả. Thật cảm tạ ơn Chúa.

Đến tháng mười, năm 1976, Cụ Giào sĩ George Irwin đến Toulouse thăm hội thánh và đề nghị chúng tôi hợp tác trở lại với Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp. Chúng tôi nghĩ rằng: Sau hơn 20 năm hợp tác với Hội truyền giáo Phúc âm thì nay trở lại cũng chẳng có gì trở ngại, nên chúng tôi liền chấp nhận đề nghị ấy.

Nhận thấy hơn 7 năm qua, chúng tôi đã hợp tác với hội thánh Tin lành Tự do (Eglise Évangélique Libre) tại Toulouse; hôm nay chúng tôi trở lại với Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, thì lẽ tự nhiên chúng tôi phải lo lập Hội thánh riêng cho mình.

Sau khi chúng tôi trình bày mục đích quan trọng ấy cho Mục sư P. Tessier, thuộc HTTLTD, thì Mục sư ấy rất vui lòng và tích cực ủng hộ, nên chúng tôi khởi sự nạp đơn tại Tòa Đô chính để xin thành lập Hội thánh. Cám ơn Chúa, sau hơn 4 tháng nạp đơn, đến ngày 31 tháng Giêng năm 1977, tờ Công Báo tại Toulouse đã đăng lên tên Hội mà chúng tôi đã xin: “Mission Évangélique Vietnamienne en France” (Hội Truyền giáo Tin lành Việt nam tại Pháp).

Nhớ lại, mặc dù chưa có giấy phép chính thức, nhưng dưới sự bào trợ của Mục sư P.Tessier, thuộc Hội Thánh Tin lành Tự do, nên chúng tôi cố gắng mướn một cái nhà, sửa lại để làm nhà giảng và trụ sở cho Hội. Mọi việc xong, đến ngày 17-10-76 thì chúng tôi treo bảng lên làm lễ khai hội. Trong ngày khai hội có sự hiện diện của Mục sư P. Tessier, Giáo sĩ George Irwin và Mục sư Nguyễn Văn Bình, cùng khá đông các vị quan khách, nên buổi lễ khai hội được long trọng, đáng qui vinh hiển Danh Chúa.

(* Ghi chú thêm của Mục sư Nguyễn Duy Tân: Hội Thánh Việt Nam tại Toulouse sau đó được giao lại cho Giáo sĩ G. Irwin chăm sóc, và tiếp theo có một số tôi tớ Chúa, trong đó có Mục sư Đặng Đức Tín, tiếp tục quản nhiệm. Tạ ơn Chúa, công việc Chúa vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển tại Toulouse cho đến ngày nay. Những hạt giống do Cố Mục sư Nguyễn Duy Xuân gieo ra tại đó trong 7 năm đã tiếp tục sanh bông trái tốt đẹp cho Nhà Chúa. Thật như Lời Chúa nói: “…Vì biết rằng, công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.” - I Côrinhtô 15:17).

ĐƯỢC KÊU GỌI ĐẶC BIỆT SANG MỸ.

Cám ơn Chúa đã ban cho chúng tôi có cơ hội hợp tác với Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp để truyền giáo được tốt đẹp. Nhưng chúng tôi chưa được thỏa lòng vì thấy kiều bào ở Toulouse rất ít oi và khó tiếp xúc với họ để truyền giáo vì đời sống quá bận rộn của họ. Chúng tôi lại nghe rằng bên Mỹ đồng bào đã qua đó rất đông sau năm 1975 nên ước nguyện xin Chúa mở đường cho qua Mỹ để truyền giáo. Vả lại, công việc Chúa ở Toulouse lúc đó có thể giao lại cho Giáo sĩ George Irwin đảm trách vì cụ giảng được bằng tiếng Việt rất thông thạo.

Chúng tôi đặt vấn đề cầu nguyện để xin qua Mỹ hầu việc Chúa. Nhưng sau khi tìm hiểu, thì được biết là không phải dễ gì cho người Pháp sang được Mỹ quốc. Đầu vậy, chúng tôi cứ cầu nguyện và tin rằng Chúa là Đấng toàn năng làm được mọi sự như Chúa phán cùng Ápraham rằng: “Há có điều chi khó cho Giê hô va Đức Chúa Trời chăng?” (Sáng 18:14)

Đến tháng 7, năm 1977, tôi có cơ hội sang dự Hội đồng Giáo hạt Bắc Mỹ tại Los Angeles. Tôi gặp cụ Mục sư Phạm Văn Năm cho biết cụ sắp đổi đi khỏi Hội Thánh Chicago mà chưa có người thay thế, nếu tôi muốn qua đó hầu việc Chúa, thì gởi đơn cho Ban Chấp Hành Giáo Hạt.

Sau 2 ngày cầu nguyện để biết ý Chúa. Tôi liền viết đơn đưa cho BCH GH để xin hầu việc Chúa tại Mỹ. Ban Chấp hành Giáo hạt sẵn lòng chấp thuận và đồng thời cho tôi chứng thơ để xin chiếu khán qua Mỹ.

Sau khi từ Hội đồng trở về Toulouse, Chúng tôi liền đến nạp đơn tại Tòa Đại sứ Mỹ ở Bordeaux để xin qua Chicago truyền giáo. Cám ơn Chúa, sau 5 tháng thì giấy thông hành và chiếu khán đươc cấp xong. Chúng tôi chuẩn bị và thu xếp hành trang cần yếu, còn nhà cửa thì giao lại cho sở quản lý. Mọi việt xong xuôi, chúng tôi cùng với 2 con nhỏ tuổi nhất đáp xe lửa lên Paris và tạm trú tại nhà người cháu vài ngày để chờ ít hôm lên máy bay đi Chicago. Đột nhiên, có điện thoại từ Mỹ của Mục sư Trương Văn Tốt, Giáo hạt Trưởng, cho hay rằng vì Hội Thánh Chicago và tư thất được Hội truyền Giáo sắp bán lại cho một Hội Thánh khác, nên yêu cầu chúng tôi hoãn lại cuộc hành trình. Chúng tôi hơi bối rối và cảm thấy quá tiếc! Phải chi Mục sư Giáo Hạt Trưởng gọi điện thoại sớm hơn vài ngày là chúng tôi đã ở lại Toulouse hầu việc Chúa. Nhưng thực ra, ý Chúa muốn chúng tôi qua Mỹ hầu việc Chúa, nên hoàn cảnh nào xảy ra đều là đúng thời điểm và theo ý thánh của Ngài. Chúng tôi không còn ngã nào thối lui lại Toulouse nên cứ phó thác mọi việc và tương lai cho Chúa. Chúng tôi đến hãng máy bay điều đình trả thêm tiền để đi đến Los Angeles. Mọi việc thu xếp xong, sáng ngày 5 tháng Tư năm 1978, chúng tôi và 2 con là: Quang và Tuyết Mai lên máy bay qua Los Angeles. Chúng tôi để lại 4 con lớn trên 21 tuổi đang làm việc tại Pháp, vì theo luật không thể đem theo được, nhưng chúng tôi hy vọng khi qua tới Mỹ sẽ tìm cách đoàn tụ gia đình.

Cám ơn Chúa, đến 12 giờ khuya ngày 6 tháng Tư, thì máy bay đáp xuống phi trường quốc tế Los Angeles cách an toàn. Có ông bà Mục sư Trương Văn Tốt, Giáo Hạt Trưởng, ông Mục sư Samuel Ông Hiền, và một số anh em tín hữu ra phi trường đón rước rất nồng hậu và đưa về nhà nghỉ ngơi.

Chúng tôi được Ông Bà Mục sư Hiền cho tạm trú tại nhà Ông Bà được vài tuần, kế đó chúng tôi nhờ ơn Chúa chỉ dẫn mướn được một cái nhà và dọn đến nhà mới. Sau khi trú ngụ tại đây được 4 tháng, chúng tôi được BCH GH đề ngị đến Miami mở Hội Thánh mới, nhưng đến đầu năm 1978 mới có phụ cấp. Chúng tôi nhận thấy hoàn cảnh hiện tại rất khó khăn, ở lại Los Angeles 5 tháng nữa cũng chẳng làm chi! Nên chúng tôi chấp nhận sự sắp đặt của Giáo hạt và đến ngày 9 tháng 8 năm 1978 thì cả gia quyến lấy máy bay sang Miami để nhận chức vụ mới, hầu việc Chúa tự túc. Khi đến Miami, có gia dình Ông Bà Hồ Phiên, một tín hữu trụ cột tại đây ra Phi trường tiếp đón về tạm trú tại nhà ông bà ít ngày. Ông bà tiếp đãi chúng tôi rất nồng hậu, lo cho chỗ nghỉ ngơi và ăn uống. Sau đó vài tuần, Chúa cho mướn được một cái nhà gần đó nên chúng tôi dọn đến nhà mới, và mọi việc cũng tạm yên. Sau gần một tháng hoạt động thăm viếng tín hữu và đồng bào để làm quen với môi trường xã hội mới tại đây, chúng tôi cũng bắt đầu quen biết ít nhiều về tình hình dân trí và dân sinh trong khu vực. Nhận thấy căn nhà đang ở nằm trong xóm không được an ninh, nên chúng tôi ước ao tìm mướn hoặc mua một căn nhà nơi khác được an toàn hơn.



SỰ TIẾP TRỢ ĐÚNG LÚC

Biết rằng: đã trải qua gần 5 tháng bị thất nghiệp tại Mỹ, mà không có nhận được trợ cấp từ một cơ quan nào, số tiền túi chúng tôi mang theo đã chi tiêu gần hết. Hôm nay lại đến Miami hầu việc Chúa tình nguyện, anh em tín hữu thấu hiểu hoàn cảnh nên đề nghị và khuyến khích chúng tôi đi tìm việc làm như các Mục sư khác ở Mỹ đã làm việc trong khi Hội Thánh chưa đủ cung nhu.

Nghĩ rằng: Chúng tôi cả 2 đều đã gần 60 tuổi thì dễ gì kiếm được việc làm. Thực ra, chúng tôi đã hầu việc Chúa hơn 30 năm, chẳng từng làm việc chi khác, nên chỉ muốn có đủ thì giờ dể hầu việc Chúa mà thôi. Nay nghe người đề nghị tìm việc làm, thì lòng chúng tôi hơi chua xót và ngỡ ngàng! Vả lại, đã lãnh nhiệm vụ mở Hội Thánh mới mà lại đi làm việc kiếm ăn, thì công việc Hội Thánh biết ngày nào mới được phát triển? Nếu vậy, tốt hơn ở lại Pháp chớ qua đây làm chi?

Nghĩ vậy, chúng tôi cầu nguyện đặc biệt, xin Chúa cho biết phải xoay sở bằng cách nào trong hoàn cảnh nầy, để có cơ hội phục vụ Chúa và đồng bào. Đồng thời, chúng tôi báo tin cho các con ở bên Pháp biết hoàn cảnh để cầu nguyện.

Sau một tháng cầu nguyện và tiếp tục lấy đức tin di hầu việc Chúa, chúng tôi tiêu phí gần hết, đến đồng dollar cuối cùng. Nhớ lại buổi chiều kia, vợ tôi cho hay trong bốp chỉ còn có 2 đô rưỡi mà thôi. Người đề nghị nên đi mượn một số tiền của tín hữu xài đỡ. Tôi khẳng định “Không.” Đã là Mục sư, không nên mượn tiền của bất cứ ai, nhất là của tín đồ. Vả lại, Mục sư mới mở Hội Thánh, anh em tín hữu chưa biết mình là người như thế nào, nay lại đi mượn tiền, sợ bị họ đánh giá không đúng về mình.

Cám ơn Chúa, thật Chúa là Đức Giê hô Va Di rê (Đức Chúa Trời Sắm sẵn). Sự tiếp trợ Ngài luôn đúng lúc. Chiều hôm sau, là ngày 15 tháng 9, năm 1978, chúng tôi nhận được thơ và ngân phiếu của các con là Duy Tân và Ân Huệ ở Pháp gởi qua trợ giúp, và chúng nó hứa sẽ tiếp tục gởi tiền qua mỗi tháng để chúng tôi có phương tiện hầu việc Chúa. Thật sự tiếp trợ của Chúa rất diệu kỳ và đúng lúc. Hơn thế nữa, các con chúng tôi vì muốn qua Mỹ sinh sống nên tiếp tục chuyễn ngân qua, nhờ đó chúng tôi khả dĩ tạm mượn để mua một căn nhà. Đúng như lời tác giả Thi thiên đã nói: “Sư tử tơ bị thiếu kém, và đói; Nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu của tốt gì. Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, Và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy.” (Thi thiên 34:10; 37:5)



MUA CÁI NHÀ CHÚA ĐÃ SẮM SẴN

Chúng tôi bắt đầu cầu nguyện cho kế hoạch mua nhà, dĩ nhiên rất là khó có thể tìm được căn nhà nào giá rẽ vừa với số tiền nhỏ của mình thi mới mua được. Cảm tạ ơn Chúa, sáng ngày 19/9/1978, tôi xách dù ra đi lang thang để tìm nhà. Khi ra sân, tôi còn nói với vợ tôi: “Hôm nay chắc mua được nhà.” Thật đúng như vậy! Ngày hôm đó, tôi đi hết xóm nầy qua xóm khác, lúc đến ngã tư kia, gặp một người Cuba đang sửa xe. Anh ta chào tôi: “Good morning!” Tôi chào lại “Good morning!” Ông ta hỏi tôi: “Đi dạo chơi?” - “Tôi đi kiếm mua nhà” - “Đằng kia có căn nhà bán rẻ lắm! Hãy lại mua đi.” Tôi còn phân vân chưa biết ở đâu? Ông ta lên xe cho máy nổ, và chở tôi đến ngay căn nhà có để bảng bán và bảo tôi vào coi. Tôi không vào nhà mà chi biên số điện thoại của sở địa ốc mà thôi. Khi trở về nhà, tôi liền gọi đến hỏi giá. Họ cho biết căn nhà đó bán 23 ngàn đô. Chúng tôi còn lưỡng lự, thì chiều lại, sở địa ốc kêu cho biết giá đã nói lúc sáng là giá cũ; bây giờ bà chủ nhà muốn bán gấp, chỉ đòi 13.500 đô thôi! Nghe giá quá rẻ, chúng tôi yêu cầu cho vào xem nhà liền.

Đúng giờ hẹn, chúng tôi đến căn nhà và gặp nhân viên địa ốc cùng bà chủ nhà. Sau vài phút nói chuyện để làm quen. Tôi tự giới thiệu là Mục sư ở từ bên Pháp qua đây để hầu việc Chúa tại Hội Thánh Việt nam. Bà chủ nhà có thái độ nhã nhặn và vui vẻ. Chúng tôi yêu cầu bà bớt cho 1.500 đô để trang trải sở phí sang bộ. Bà nhận lời ngay, thế thì giá căn nhà chỉ còn 12.000 đô. Bà còn hứa sẽ cho tất cả đồ đạc trong nhà như: Lò điện, tủ lạnh, bàn ghế, tủ, giường và nhiều đồ lặt vặt; ngoại trừ cây đờn Piano và TV mà đứa cháu đã xin. Được biết Bà đã ở tại căn nhà nầy hơn 30 năm, nên đồ đạc khá đầy đủ.

Sau đó, chúng tôi đến ngay Sở Địa ốc làm giấy tờ mua và trả tiền, cũng yêu cầu làm giấy tờ mau lẹ để sớm dọn đến nhà mới. Cám ơn Chúa, sau 23 ngày, sở địa ốc đến giao cho chúng tôi chìa khóa nhà. Thật là thời gian mau lẹ hiếm có. Chúng tôi liền dọn đến nhà mới, ngày 10 tháng 10 năm 1978. Nhà nầy có 2 phòng ngũ, lại có một phòng họp gia đình (Family room) mới cất thêm khá rộng có cửa như một phòng ngủ nên khá tiện nghi cho gia quyến chúng tôi gồm có 4 người. Hơn nữa, đất phía sau cũng rộng và có các cây ăn trái như: cam, tắc, v.v… Vợ tôi lúc rảnh rỗi có trồng thêm các loại rau thơm cũng tiện lợi và thoải mái! Khi bước chân vô nhà mới chúng tôi tạ ơn Chúa đã dự bị cho căn nhà giá rẻ, vừa túi tiền hiện có, mà lại đầy đủ tiện nghi cho chúng tôi ở để hầu việc Ngài. Đúng như Kinh thánh nói: “Áp-ra-ham gọi chỗ đó là Giê-hô-va Di-rê. Bởi cớ ấy, ngày nay có tục ngữ rằng: Trên núi của Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.” (Sáng. 22:14).



GIẤY BẢO LÃNH CON ĐƯỢC CHẤP TUẬN CHỈ TRONG VÒNG 15 PHÚT.

Nhớ lại, lúc còn ở Los Angeles, khoảng tháng 5, năm 1978, sau khi đã nhận được giấy kiều ngụ chính thức, chúng tôi liền đến Sở Di Trú nạp đơn bảo lãnh cho 4 con chúng tôi còn kẹt lại tại Pháp là: Duy Tân, Ân Huệ, Duy Khiêm và Duy Sang để được đoàn tụ gia đình. Nhưng sau 3 tháng nạp đơn, thì Sở Di Trú bác đơn. Nguyên do là tờ hôn thú mà chúng tôi lập tại Bến cát năm 1945 đã bị thất lạc bởi chiến tranh, nên lúc chúng tôi còn ở Nam vang phải lập lại hôn thú mới để đủ điều kiện mang các con qua Pháp. Nhưng đối với Mỹ, hôn thú mới lập lại sau ngày sanh con thì không đúng điều kiện, mặc dầu lúc ở Pháp chúng tôi đã có ra tòa công nhận các con mình cho hợp pháp.

Trước những sự kiện rắc rối của pháp luật Mỹ đầy khó khăn cho chúng tôi, nếu không nói là đầy nước mắt, chúng tôi chỉ còn biết một điều là đem mọi sự ấy trình lên cho Chúa mà thôi. Lúc ấy, Duy Tân, con trai chúng tôi, đã đính hôn với Thanh Thủy, thứ nữ của Bà Sauveur Đoàn Mỹ Chưởng tại San Leandro; còn Ân Huệ, con gái chúng tôi cũng đã hứa gã cho cậu Minh ở El Paso (Texas). Chúng đã viết thơ qua lại và thương nhau. Hôm nay không bảo lãnh được chúng nó qua Mỹ thì cuộc hôn nhơn của chúng nó sẽ như thế nào? Với trách nhiệm của người làm cha mẹ yêu thương con cái, mà phải đương đầu với một thực tại vượt quá khả năng, lòng chúng tôi thật nặng nề và lo lắng. Nhưng cảm tạ ơn Chúa, sau khi chúng tôi đem những khó khăn trình lên cho Chúa, thì Ngài nhắc cho chúng tôi câu Kinh thánh: “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Chúa, vì Ngài hay săn sóc anh em” (I Phiero 4:7), và “Há có điều chi Giê hô va Đức Chúa Trời không làm được chăng?” (Sáng.18:4). Hơn nữa, chúng tôi nhớ lại thế nào Chúa đã lo liệu cho mọi việc được chu toàn khi gặp những thủ tục giấy tờ khó khăn lúc mới tới Nam vang, cũng như giấy bảo lãnh khi đi Pháp, nên chúng tôi lấy lại được lòng bình an và đặt lòng tin cậy hoàn toàn nơi Chúa sắp đặt, cứ ngày đêm cầu nguyện trình lên cho Chúa.

Khi chúng tôi vừa đến Miami độ vài tuần thì gặp một người quen đang học trường luật. Chúng tôi đem mọi việc khó khăn hỏi thăm, người đó hứa sẽ hỏi thăm Ông Thầy. Sau vài ngảy, người trả lời rằng: “Việc đó rất khó vì ít có trường hợp nào như thế có thể xin được nếu đã có một lần bị bác đơn.”

Tuy nghe biết vậy nhưng chúng tôi chưa thất vọng và trình việc ấy ra giữa Hội Thánh để nhờ tín hữu cầu nguyện. Sau vài tuần cầu nguyện đặc biệt, chúng tôi được Chúa thúc giục đến sở di trú tại Miami nạp đơn một lần nữa. Thật, ơn Chúa rất diệu kỳ! Khi nạp đơn, nhân viên thâu đơn hỏi chúng tôi muôn gặp Giám đốc không? Chúng tôi hỏi có thể gặp được không? – “Được! Nếu ông muốn gặp, hãy lên từng 14 thì được giải quyết mau lẹ.”

Chúng tôi hết sức vui mừng vì hy vọng sẽ có cơ hội giải bày những lý lẽ và sự kiện cách trực tiếp với người có khả năng giải quyết. Đoạn, chúng tôi xin lấy hồ sơ trở lại và bước vào thang máy lên tầng số 14, tìm phòng Giám đốc. Người thư ký tiếp kiến và thâu đơn. Chúng tôi ngồi phòng đợi cầu xin Chúa cho hôm nay được ơn trước mặt ông Giám đốc. Cám ơn Chúa, việc diễn ra hết sức lạ lùng dường như trong giấc mơ! Khi chúng tôi được mời vào văn phòng, thì không phải gặp Ông Giám đốc mà một Bà Giám đốc. Bà có dáng người mảnh khảnh, hiền lành, xinh đẹp và duyên dáng, tuổi độ mới gần 30, ăn nói vui vẻ và bặc thiệp. Sau khi xem xét các khai sinh bằng Miên ngữ của các con chúng tôi, bà hỏi thăm người Cao miên đối xử với chúng tôi như thế nào? Và các con ông làm sao thoát khỏi Cao miên? Như cảm thông hoàn cảnh, Bà lấy viết ký tên vào hồ sơ và lấy mẫu giấy in sẵn gạch dưới 3 lần rồi giao cho chúng tôi và nói: “Mọi sự đã xong.” Khi ông về thì gởi giấy nầy báo tin cho các con ông bên Pháp biết nội trong 16 ngày là hồ sơ sẽ tới Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris để các con ông chuẩn bị.

Chúng tôi cầm giấy và tay như hơi run vì sự việc xảy ra rất mau lẹ, quá bất ngờ, không thể đoán trước được. Thật cám ơn Chúa! Khi chúng tôi ra về miệng luôn cám ơn Chúa vì thấy Chúa đã lo liệu sẵn mọi việc, nhưng vì đức tin yếu đuối của mình nên sanh ra lo lắng mà thôi; chớ thật ra mọi sự trong đời sống của con cái Chúa đã nằm trong chương trình và kế hoạch mà Ngài đã sắp đặt.

Về đến nhà, chúng tôi liền gởi giấy bào tin chấp nhận của bà Giám đốc cho các con chúng tôi ở Pháp hay để chúng nó chuẩn bị mọi việc. Chỉ một tháng sau, chúng tôi nhận được thơ các con báo tin rằng: Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris đã kêu lên khám bịnh và thiết lập hồ sơ. Sau một thời gian chờ đợi, mọi thủ tục đã xong xuôi, đến ngày 22/5/1979 ba con chúng tôi là: Tân, Huệ và Sang đáp máy bay qua tới phi trường Miami. Chúng tôi đi đón rước các con mà lòng không xiết kể nỗi vui mừng vì đã hơn một năm xa cách! Thật cám ơn Chúa đã nhậm lời cầu nguyện, lo liệu cho chúng tôi được đoàn tụ gia đình, đúng thời gian để có thể sắp đặt cho các con mọi việc được chu toàn.

Rồi 2 tháng sau, đến ngày 30/06/1979, là ngày hôn phối của Tân với Thủy được cử hành trọng thể tại nhà thờ Neighborhood, Castro Valley (California). Sau đó 2 tháng, ngày 18/8/1979 lễ hôn phối cùa Huệ và Minh cũng được cử hành trọng thể tại nhà thờ Miami (Florida).

Thật, ơn Chúa thật diệu kỳ, vượt quá sự cầu xin hoặc suy tưởng của chúng tôi, như Đức Chúa Jesus đã phán: “Các ngươi nhơn danh Ta mà cầu xin đều chi mặc dầu; Ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh. Nếu các ngươi nhơn danh Ta xin điều chi, Ta sẽ làm cho” (Giăng 14:13-14). Halelugia. Cám ơn Chúa.



THĂM VIẾNG VÀ LÀM CHỨNG 2 NĂM MỚI GIÚP ĐƯỢC MỘT GIA ĐÌNH PHẬT TỬ TIN CHÚA

Đành rằng, chúng tôi đã hầu việc Chúa hơn 30 năm, nay dù chúng tôi có dẫn được vài người tin Chúa, cũng chẳng có gì đáng phải nói. Nhưng đều đáng ghi nhận tại đây là vì thấy ơn Chúa cho chúng tôi quá diệu kỳ! Vì tình thương của Chúa thật là cao, sâu, rộng lớn. Gia đình Phật tử nầy là Ông bà Bùi Hữu Duệ, người Huế, từng thuộc hàng công chức cao cấp. (Nếu đúng như lời Ông Giáo sĩ Thomas Stebbins đã nói: “Người Huế khó tin Chúa lắm” thì cũng có thể rất đúng!)

Chúng tôi biết Ông Bà là những người Phật tử sùng đạo, vì trong nhà có bàn thờ và trên bàn thờ có tượng Phật đúc khá lớn, hoa quả hiến dâng và nhan đèn cúng kiến suốt ngày. Nhà ông bà ở cũng hơi khá xa nhà chúng tôi độ chừng 15 miles, nhưng vì tình thương của Chúa thúc giục nên thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm và làm chứng về tình yêu lớn lao của Ngài cho ông bà. Mặc dầu là nhà Phật tử, nhưng ông bà lại rất chú tâm nghe đạo Chúa. Đôi khi đến ngày lễ, chúng tôi mời ông bà đến nhà thờ, ông bà cũng nhận lời mời đến nhóm họp. Sự giao hảo giữa ông bà và chúng tôi được diễn tiến tốt đẹp, nên chúng tôi được dạn dĩ cố gắng đến thăm và tiếp tục làm chứng thêm về Chúa cho ông bà thường xuyên hơn trước.

Sự việc như vậy kéo dài hơn 2 năm thì trong một đêm kia, sau khi đã làm chứng về Chúa cho ông bà, tôi nhận thấy ông bà có lòng sẵn sàng nên chúng tôi liền thúc giục ông bà hãy quyết định tin nhận Chúa. Ông Bà lại được ơn Thánh Linh soi sáng, hiểu được tình yêu của Chúa nên bằng lòng tin Chúa Jesus làm Cứu Chúa của mình. Sau khi chúng tôi nhơn Danh Đức Chúa Jesus cầu nguyện và chỉ dạy ông bà cách cầu nguyện cùng Chúa, Ông Bà liền được đổi mới, vui vẻ và dạn dĩ kêu điện thoại trong đêm đó báo tin cho bạn bè biết rằng mình đã tin Chúa và tượng Phật đã trả lại cho Chùa. Thật như lời Kinh thánh nói: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (I Côrinhtô 5:17)

Sau khi tin Chúa, mặc dầu Ông Duệ có bịnh tim khá nặng thường hay mệt mỏi và đôi khi bị té xỉu, nhưng Ông Bà sốt sắng, vui vẻ nhóm họp thờ phượng Chúa tại nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật, ít khi nào vắng mặt. Và những đêm cầu nguyện tuần hoàn tối thứ Sáu, trong mỗi khu vực thành phố có nhà tín hữu, Ông Bà cũng luôn đến nhóm đều đặn với anh em. Hơn thế nữa, Ông Bà ham thích đọc Kinh thánh đến nổi bạn bè và người quen biết đều lấy làm ngạc nhiên! Rồi, sau đó vài ba tháng, ông bà biết cầu nguyện trôi chảy như người đã tin Chúa lâu năm, khiến cho mỗi tín hữu lấy làm lạ về Ông Bà và ngợi khen Chúa.

Hơn thế nữa, Ông Bà Duệ còn sốt sắng đem các con trở lại tin Chúa bằng cách mời chúng tôi đến nhà làm chứng cho họ và chừng 3 tháng sau là trong gia quyến gồm có: Con gái, rể và các cháu chừng 10 người trở lại tin Chúa. Sau đó, cả thảy đều chịu lễ Báp têm và sốt sắng hầu việc Chúa.

Thật ơn Chúa thật diệu kỳ và quyền năng Chúa rất lớn lao, đã thay đổi được lòng người. Chúa cũng có chữa bịnh cho tim ông được khỏe mạnh. Từ khi tin Chúa đến nay đã gần một năm, bệnh tim của ông không còn tái phát. Halelugia! Cám ơn Chúa.

HẦU VIỆC CHÚA TẠI SANJOSE CÁCH BẤT NGỜ.

Chúng tôi hầu việc Chúa tại Hội Thánh Miami gần 3 năm. Chúng tôi tuy đã có tuổi, nhưng lại hoạt động trong một môi trường quá rộng lớn. Nếu chỉ hoạt động tại thành phố Miami mà thôi thì cũng quá lớn rộng, vì thành phố Miami cũng có cái tên là Great Miami (Miami vĩ đại). Nhưng vì sự nhu cầu thăm viếng tín hữu và đồng bào nên chúng tôi phải hoạt động xuyên qua các thành phố lân cận như: Hileah, Hollywood, Fort Lauderdale cho đến vùng South Bay, rộng hơn cả trăm cây số. Công việc tuy không kết quả như ý muốn nhưng cũng gặt hái được một số kết quả đáng kể. Cảm tạ ơn Chúa.

Nhận thấy ở đây thăm được một người Việt cũng phải đi quá xa mới tiếp xúc được với họ, và nghe nói rằng ở tiểu bang California, đồng bào qui tụ đến nhiều vùng để sinh sống đông đúc, nên chúng tôi ước nguyện xin Chúa cho có thể đổi về Cali để có dịp làm chứng về Chúa cho đồng bào đang hư mất

Nghĩ như vậy, chúng tôi bèn đặt sự cầu nguyện trình lên cho Chúa. Sau thời gian cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, chúng tôi liền viết đơn cho BCH GH để xin dời đổi trong khóa 1981. Trong khi chờ đợi, chúng tôi tự thu xếp việc gia đình; còn việc Hội Thánh, chúng tôi xin tín hữu đề cử ra một Quyền Chủ tọa, tạm hướng dẫn Hội Thánh trong khi chờ sự sắp đặt của Giáo hạt.

Sau khi Ông Nguyễn Thạch Kính đắc cử Quyền Chủ tọa, chúng tôi bàn giao việc Hội Thánh lại cho Ông. Đoạn, chúng tôi chuẩn bị hành trình xa xôi để đến Cali, đường dài hơn 3.500 dậm. Mặc dầu lúc bấy giờ chúng tôi chưa nhận được văn thơ chính thức nào của Giáo hạt, chỉ có nói chuyện qua điện thoại vài lần với Mục sư Giáo hạt Trưởng, chúng tôi đã dự định sáng ngày 22/8/1981 thì sẽ khởi hành bằng 3 chiếc xe nhà (gồm 1 xe van và 2 xe nhỏ).

Thì bất ngờ, trưa ngày 18/8/1981, chúng tôi nhận được thơ của Ban Chấp Hành Hội Thánh San Jose thay mặt cho Hội Thánh mời chúng tôi đến hầu việc Chúa với Hội Thánh. Sau một vài ngày cầu nguyện để biết ý Chúa, chúng tôi liền trả lời chính thức với Hội Thánh San Jose rằng: “Chúng tôi sẵn sàng đến hầu việc Chúa với Hội Thánh, và theo dự định sẽ đến nhóm thờ phượng Chúa với Hội Thánh trong buổi nhóm Chúa nhật đầu tiên vào ngày 3/9/1981.



THOÁT HỐ SÂU NHỜ XE ĐÂM ĐẦU XUỐNG HỐ CẠN

Chúng tôi ra đi đúng như chương trình đã định, nên sáng ngày 22/8/1981, lúc 5 giờ sáng thì 3 xe chúng tôi bắt đầu di chuyển trực chỉ về hướng Bắc. Chiếc xe Van của chúng tôi đã chở đồ nặng, lại còn kéo theo chiếc xe Pinto nhỏ phía sau, và còn chở thêm 5 người lớn và 2 trẻ em nửa! Vì lúc ra đi có một gia quyến con cái Chúa là Ông bà Bác sĩ Nguyễn Văn Tấn xin quá giang qua Houston để tìm việc làm. Thông cảm cho hoàn cảnh của con cái Chúa vừa mới tới đất Mỹ, nên chúng tôi vui lòng cho đi với chúng tôi trên xe Van, mặc dầu xe rất chật và chở đồ nặng.

Đoàn xe lăn bánh gần suốt buổi sáng được an toàn thì thình lình có người đề nghị ghé Rest Area (chổ có phòng vệ sinh). “Rest Area kìa!” Tôi quẹo xe vào theo bảng chỉ dẫn. Rest Area nầy rất kỳ lạ, thường thường thì Rest Area nằm gần bên lộ. Còn chổ nầy thì lại phải leo lên dốc rồi lại chạy xuống mà chưa thấy Rest Area ở đâu? Rồi xe chạy lên dốc lần nữa, tôi chạy hơi mau, thình lình thấy cua quẹo hơi gắt, tôi đạp thắng, xe bị trợt bánh trước quá mạnh! Tiếng xe trợt từ ngoài đường tạt vô phía lề bên trái, nghe ào ào và răn rắc, xe lắc lư, tưng lên sụp xuống trên bờ lề cách khủng khiếp, và cuối cùng đâm xuống một hố cạn bên đường và sẵn trớn còn leo lên đồi, đầu xe ngóc lên bên sườn đồi.

Sau khi trải qua những giây phút khủng khiếp, đã lấy lại bình tĩnh, chúng tôi kiểm lại mọi người trên xe, không thấy ai bị thương tích chi nặng, chỉ trầy một vài chổ không đáng kể. Ai nấy đều cảm tạ ơn Chúa có gìn giữ mỗi người được an toàn. Coi lại xe thì cũng chẳng thấy hư hại chi; ngoại trừ bánh xe sau hơi xẹp và vành xe hơi méo. Nghĩ lại tôi biết rằng Chúa đã chọn chỗ nầy để dạy tôi một bài học kinh nghiệm lái xe để sau đó sẽ lái cẩn thận hơn, vì đường còn quá xa và đầy nguy hiểm, còn nhiều đồi núi cao hơn 5000 feet phải đi qua. Nên tôi cảm biết Chúa cho phép xe bị trợt tại đây là chổ đường nhựa bóng láng và lúc sáng sớm đường còn bị sương ướt nên bị trợt khi xuống dốc.

Chúng tôi mất vài giờ mệt nhọc tháo gở xe Pinto và thay bánh. Lúc xong việc, chúng tôi nhìn phía trước chừng vài chục thước, thấy có một cây cầu ngắn, hai bên là hố sâu, đá lởm chởm thấy rợn người; nếu rủi xe bị đâm dầu xuống đó, chắc là không ai được an toàn tánh mạng; và hai chiếc xe cũng bị hủy bỏ hoàn toàn. Thật cảm tạ ơn Chúa đã ban đạo binh Thiên sứ của Ngài để bảo vệ chúng tôi được an toàn, và xe cộ cũng chẳng hư hao nên có thể tiếp tục cuộc hành trình. Cảm tạ ơn Chúa. Đã qua được cơn nguy hiểm tôi học được bài học phải lái xe cẩn thận hơn, nên đoàn xe từ đây bắt đầu đi chậm lại và tôi phải lái xe Van suốt đoạn đường còn lại mấy ngàn miles nữa; chớ không dám thay phiên lái xe như đã định trước, vì tôi nghĩ rằng: Tôi đã học được một bài học, còn con tôi thì chưa. Nếu vì một chút lơ đểnh là rủi ro nguy hiểm!

Cám ơn Chúa, đoàn xe đến Houston (Texas) được an toàn. Chúng tôi nghỉ đêm tại nhà ông bà Mục sư Nguyễn Hữu Ninh. Ông bà Bác sĩ Tấn mang đồ xuống xe; xe nhẹ đi phần nào. Đoạn, chúng tôi tiếp tục đến El Paso, thăm con gái Ân Huệ và rể là Nguyễn Tấn Minh. Đã xa cách gần 2 năm, nay gặp lại con lòng hết sức vui mừng! Chúng tôi ở lại vài ngày với con, kế đó, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình thẳng đến Los Angeles, rồi cuối cùng, đến ngày 2/9/1981 thì tới San Jose. Chúng tôi tạm trú vài ngày nơi nhà của ông bà Thủ quỹ Hội Thánh, ông bà ân cần tiếp đãi chúng tôi nồng hậu, lo chỗ nghỉ ngơi tiện nghi và ăn uống.

Sau vài ngày nghỉ ngơi, chúng tôi cảm thấy khỏe trờ lại. Kế đó ông Thư ký Hội Thánh đến thăm chúng tôi và mua báo để giúp tìm mướn nhà. Cám ơn Chúa, Ngài đã dự bị sẵn một cái nhà 3 phòng tại số 1034 Spencer Ave, San Jose. Chúng tôi đến gặp chủ nhà xin mướn. Ông rất vui vẻ nhận lời và nói: “Nhiều người hỏi mướn mà tôi chưa cho; nay để dành cho ông đó!” Sau nữa tiếng đồng hồ thì làm xong giao kèo. Chiều lại, chúng tôi dọn đến nhà mới ở được bình an và thoải mái!

Biết rằng: Nhà nầy ở gần trung tâm thành phố, nơi rất tiện lợi, để chúng tôi đi thăm tín hữu và đồng bào trong 7 thành phố: San Jose, Santa Clara, Sunyvale, Mountain View, Milpitas, Los Altos và Los Gatos. Thật cảm tạ ơn Chúa đã dự bị cho căn nhà rất thuận tiện và lại chỗ có an ninh. Halelugia! Ngợi khen Chúa.

Thỉnh thoảng, chúng tôi ngồi ngẫm nghĩ lại cuộc hành trình đã qua, càng thêm nức lòng ngợi khen Chúa về sự dẫn dắt và bảo hộ của Ngài rất diệu kỳ như Kinh thánh đã nói: “Nầy, Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, Ta sẽ theo gìn giữ đó; vì Ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi Ta làm xong những đều Ta đã hứa cùng ngươi.” (Sáng 38:15)

BA THÁNG TRUYỀN GIÁO TẠI SAN JOSE BẰNG BA NĂM Ở MIAMI

Nhớ lại lúc còn ở Miami, tôi cầu xin Chúa cho tôi khi về California nếu đẹp ý Chúa, thì còn 5 năm hầu việc Chúa trước khi tôi về hưu, xin Chúa cho chúng tôi dẫn đưa được nhiều linh hồn về với Chúa.

Cám ơn Chúa, sau khi nhận lãnh nhiệm vụ tại San Jose ngày 3 tháng 9, 1981, chúng tôi dùng vài tuần lo những việc cần thiết trong gia đình, đoạn, chúng tôi khởi sự thăm viếng tín hữu và đồng bào. Cám ơn Chúa, ơn Chúa rất diệu kỳ! Trong 3 tháng, chúng tôi lao mình vào việc đi truyền giáo suốt ngày đêm để làm quen với tín hữu và đồng bào. Kết quả dường như vượt quá trí tưởng tượng của chúng tôi: Có 75 người tin nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa riêng của mình. Trong số đó, có một số người thỉnh thoảng có đến nhóm lại thờ phượng Chúa, còn một số khác chúng tôi phải thường xuyên thăm viếng để giúp đỡ họ.

Thật ơn Chúa rất diệu kỳ! Nếu so sánh 3 tháng truyền giáo tại San Jose thì kết quả bằng 3 năm làm việc tại Miami. Halelugia! Ngợi khen ơn Chúa! Nhưng ma quỉ cũng ganh ghét nổi lên gầm thét dữ dội để làm cho chúng tôi ngã lòng đừng đi làm chứng đạo nữa.

Nhưng nhờ ơn Chúa, chúng tôi thắng được lời gièm pha, và cứ giữ vững việc truyền giáo cho đồng bào. Cảm tạ ơn Chúa!

Viết xong mùa Nô ên năm 1981 tại San Jose

Mục sư Nguyễn Duy Xuân

Tái bút: Hẹn sẽ tiếp tục viết thêm để hoàn thành xong quyển sách nhỏ làm chứng nầy, sau những năm hầu việc Chúa với Hội Thánh San Jose, để kính dâng lên cho Cứu Chúa lòng biết ơn và cảm tạ.

TIỂU SỬ HẦU VIỆC CHÚA CỦA MỤC SƯ VÀ BÀ NGUYỄN DUY XUÂN

Phần 1: Những năm học ở trưởng Kinh thánh Đà Nẵng:

MS Nguyễn Duy Xuân học khóa 1943-44 và khóa 1944-45. Tốt nghiệp 1949-50

Bà Nguyễn Duy Xuân học khóa 1942-43 và khóa 1949-50 cũng ở Đà Nẵng.

Phần 2: Hầu việc Chúa ở Nam phần Việt Nam:

Tại 2 Hội Thánh ở Cần Giuộc và Long Thành: từ tháng 2/1949 – 7/1950.

Tại Hội Thánh Long Thành: 7/1950 - 3/1955.

Tại Hội Thánh Bình Hòa Phước: 4/1955 – 9/1956



Phần 3: Hầu việc Chúa tại Hội Thánh Việt kiều ở Nam vang (Cao miên)

Từ 10/1956 – 8/1970.



Phần 4: hầu việc Chúa ở Toulouse (Pháp Quốc)

Tại Hội Thánh Tin lành Tự do (Eglise Evangélique Libre) từ 8/1970 – 8/1972.

Mở Hội Thánh Việt kiều tại Toulouse: từ 8/1972 – 1978

Phần 5: Hầu việc Chúa ở Mỹ Quốc.

Mở Hội Thánh mới ở Miami (Florida): Ngày 9/8/1978 – 8/1981.

Hầu việc Chúa tại Hội Thánh San Jose: 8/1981- 11/1983.

Mở Hội Thánh mới Moorpark, San Jose, ngày 16/10/83.

Đến nay, ngày 2/tháng 3/1985 (Ngày viết tiểu sử nầy), chúng tôi vẫn ước ao tiếp tục hầu việc Chúa cho đến trọn đời nếu Chúa cho phép.

Xin quý bạn đồng lao và tín hữu vui lòng cầu nguyện cho chức vụ của chúng tôi, để được Chúa sắp đặt theo ý Ngài. Cám ơn.

Mục sư và Bà Nguyễn Duy Xuân

HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM MOORPARK (SAN JOSE) CALIFORNIA.

Hội Thánh Tin lành Moorpark* được thành lập trong một hoàn cảnh cũng khá đặc biệt! Vì trước khi tôi (Mục sư Nguyễn Duy Xuân) mãn nhiệm kỳ tại Hội Thánh San Jose vào tháng 11/1983 thì một số tín hữu có cảm tình đề nghị xin tôi đứng ra thành lập Hội Thánh mới, để anh chị em có cơ hội hợp tác hầu việc Chúa. Hơn nữa, vì đồng bào đã định cư tại San Jose quá đông nên rất cần có thêm Hội Thánh mới để Truyền giáo.

Vì lý do ấy, nên ngày 1/tháng 10/1983, chúng tôi nhờ ơn Chúa chỉ dẫn tìm được nhà thờ tại số 1710, Moorpark Ave. San Jose (cách nhà thờ San Jose độ 3 miles). Nhà thờ nầy khá đẹp và rộng lớn, có thể chứa được hơn 400 người và vị trí rất lý tưởng vì gần bên trường Đại học Cộng đồng.

Cảm tạ ơn Chúa, mọi kế hoạch được diễn tiến tốt đẹp, nên đến ngày 16/10/83 thì làm lễ khai hội. Hiện diện trong buổi lễ có Mục sư Nguyễn Hữu Tươi, đại diện cho Giáo hạt và hơn 140 tín hữu trong Hội Thánh San Jose đến tham dự. Sau đó, có chừng 70 tín hữu xin gia nhập Hội Thánh Moorpark và thường xuyên nhóm lại (trong số nầy hơn 2 phần 3 là thanh niên).

Rồi đến nay, ngày 1/tháng 3/1985, sau hơn 1 năm, thì số tín hữu mới tăng lên lần lần hơn 200 người. Trung bình nhóm mỗi tuần độ 100 người lớn nhỏ.

Về phần tài chánh của Hội Thánh trong năm 1984 như sau: Ngân quỹ tự trị thu được 75.702 đô, quỹ bất thường thu được hơn 300 đô.

Hội Thánh phát triển một phần nhờ có 3 lần giảng bồi linh trong năm 1984.Ngoài ra, Hội Thánh cũng còn tổ chức thêm được các buổi giảng đặc biệt như: Tết Việt nam, Phục sinh, lễ Hiền phụ, Hiền mẫu, lễ Tạ ơn, Giáng Sinh, v.v…

Lại nữa, Hội Thánh cũng đã tổ chức được 3 lớp học Thánh kinh tư gia, đặt được máy Điện thoại Phúc âm, phát hành mỗi tháng độ 2.000 tờ “Tin mừng” để biếu không cho đồng bào trong vùng.

Mặc dù là Hội Thánh mới, nhưng Hội Thánh cũng đã tổ chức đầy đủ các ban nghành như: Ban chấp hành, Ban Thanh niên, Ban Cơ đốc Giáo dục, Ban Chứng đạo, Ban Nam giới, Ban Nữ giới, Ban Âm nhạc, Ban hát thờ phượng, Ban Tiếp tân, và sau hết là Ban Ẩm thực (Ban nầy hầu như đã cung cấp đồ ăn cho tín hữu trong mỗi chiều Chúa nhật, suốt năm 1984).

Xin quý tôi tớ Chúa và tín hữu vui lòng nhớ đến Hội Thánh Moorpark và chức vụ chúng tôi mà cầu nguyện nhiều hơn cho, để trong trương lai được phát triển thêm nữa, hầu đem sự vinh hiển về cho Cứu Chúa Jesus. Xin thành thật cám ơn.

Mục sư Nguyễn Duy Xuân

* Lời ghi chú thêm của Mục sư Nguyễn Duy Tân: Hội Thánh Tin Lành Moorpark sau đó được dời đến một nơi khác ở địa điểm 1980 đường Hamilton, cũng ở San Jose nên Hội thánh được đổi tên là Hội Thánh San Jose 2. Cố Mục sư Nguyễn Duy Xuân đã tiếp tục hầu việc Chúa và gầy dựng Hội Thánh cho đến lúc qua đời. Chúa tiếp tục ban ơn nên hội thánh cứ phát triển tốt đẹp. Vào khoảng tháng 3 năm 1987, Mục sư vẫn đang hầu việc Chúa cách đắc lực như thường lệ, chỉ cảm thấy hơi bị hụt hơi khi bồng ẵm và chơi với đứa cháu ngoại nên đến gặp Bác sĩ. Sau khi xét nghiệm và chụp hình MRI, Bác sĩ cho biết là Mục sư đã bị chứng ung thư nội tạng vào thời kỳ cuối, đã lan ra từ bao tử đến gan và ruột, không có cách nào để chữa trị và chỉ có thể sống được nhiều lắm là 3 tháng nữa.

Điều đáng tạ ơn Chúa, là Mục sư không cảm thấy một chút nào đau đớn, cũng vì vậy mà khi phát hiện thì đã quá trể. Các bác sĩ dùng tay ấn vào bụng mà không có chổ nào Mục sư cảm thấy đau. Bác sĩ nói thật là một phép lạ, chưa thấy ai bị ung thư nặng như vậy mà không biết đau đớn! Khi nằm bệnh viện, Mục sư có nói với chúng tôi rằng: “Xin cầu nguyện nếu đẹp ý Chúa thì cho Ba được lành bệnh, nếu không thì cho ba qua đời vào Chúa nhật Phục sinh.” Quả thật như lòng ao ước, chỉ 3 tuần sau, Mục sư đã nhẹ nhàng qua đời vào trưa Chúa nhật Phục sinh 19 tháng Tư năm 1987.

Sau khi Mục sư qua đời Hội thánh San Jose 2 vẫn tiếp tục được Chúa ban phước và phát triển nhờ quý Mục sư Trương Văn Sáng, Trương Văn Được, Phạm Hùng,… chăm sóc. Gần đây, Hội thánh đã dời về thành phố Milpitas vì đã mua được một cơ sở rộng rãi và tốt đẹp và tiếp tục được Chúa ban phước, nên đã trở thành hội thánh lớn nhất trong Vùng Bắc Cali. Rất nhiều tín hữu được chính Ông bà Mục sư giúp tin nhận Chúa vẫn còn sinh hoạt đắc lực với Hội thánh.



CHƯƠNG TRÌNH

LỄ AN TÁNG

Cố Mục sư Nguyễn Duy Xuân

Tại Santa Clara Funeral Home

1000 Scott Blvd, Santa Clara, California

11 giờ ngày 21-4-87

Chủ lễ: Mục sư Trương Văn Sáng



TẠI PHÒNG HÀNH LỄ

  1. NHẠC MỞ ĐẦU

  2. THÁNH CA “Miền Vinh Hiển” Hội chúng

  3. CẦU NGUYỆN KHAI LỄ MS. Samuel Ông Hiền

  4. ĐỌC KINH THÁNH (Thi 90:1; I co6r 15:20-26,50-57)

  5. BIỆT CA “Kiếp Cỏ Hoa”

  6. TIỂU SỬ CỐ MỤC SƯ NGUYỄN DUY XUÂN

  7. LỜI AN ỦI VÀ KHÍCH LỆ, MS. Trương Văn Sáng

  8. CẦU NGUYỆN

  9. BIỆT CA “Giờ Đây Tôi Quyết Đi…” (Bài Cố Mục Sư Ưa Thích)

  10. LỜI PHÂN ƯU Đại Diện Các HT

  11. THƯ TỪ, ĐIỆN TÍN, PHÂN ƯU Thư Ký HT

  12. LỜI CÁM ƠN Đại Diện Tang Gia

  13. CẦU NGUYỆN CHUNG Hội Chúng

  14. CHÚC PHƯỚC

NGOÀI MỘ ĐỊA

  1. Thánh Ca “Thiên Cung, Chính Quê Hương” Hội Chúng

  2. NGHI THỨC LỄ Mục sư Chủ Lễ

  3. CẦU NGUYỆN

  4. CHÚC PHƯỚC

LỄ CHUNG

---------------------------------

TIỂU SỬ

MỤC SƯ NGUYỄN DUY XUÂN (1921-1987)

Mục sư NGUYỄN DUY XUÂN được sanh ra vào ngày 6 tháng 6, 1921 tại làng Mỹ Ngải, quận Cao Lãnh, Nam phần Việt Nam, là con của ông Nguyễn Văn Bộ và bà Hồ Thị Nguyệt, trong một gia đình điền chủ.

Được lớn lên trong một gia đình đạo Phật với nhiều ảnh hưởng của Nho giáo ông học được lòng kính sợ Đức Chúa Trời từ nơi sự dạy dổ của cha mẹ. Vào năm 12 tuổi ông đã hăng hái theo Chú mình đến nhà thờ Tin lành học Kinh thánh và cầu nguyện. Từ đó đức tin ông tiếp tục lớn lên nhờ thấy Chúa có nhiều lần giải cứu ông khỏi những cơn nguy hiểm.

Năm 17 tuổi cha mẹ ông tin nhận Chúa và ông được thường xuyên đến nhà thờ để thờ phượng Chúa. Lúc được 19 tuổi trong một cơn nguy khốn cùng cực, ông đã hứa nguyện với Chúa rằng nếu Ngài giải cứu khỏi cảnh hoạn nạn thì ông sẽ dâng mình hầu việc Chúa trọn đời. Thật Chúa đã che chở và cho ông thoát nạn rất diệu kỳ. Từ đó ông được đầy ơn Chúa và dạn dĩ làm chứng về Chúa. Ông được bầu làm Trưởng ban thanh niên, giảng viên Trường Chúa nhật và chấp sự Hội Thánh.

Năm 22 tuổi ông gởi đơn xin nhập học tại trường Kinh thánh Đà Nẵng. Chúa đã giúp ông vượt qua rất nhiều khó khăn và cuối cùng ông được nhận vào học niên khóa năm 1943-44. Rồi đến niên khóa 44-45 ông lại gặp nhiều khó khăn khác nữa, nhưng cảm tạ ơn Chúa Ngài đã giải quyết hết thảy theo sự tiếp trợ rất diệu kỳ của Ngài, nên ông lại được ra Đà Nẵng tiếp tục việc học.

Sau khi bãi trường, nhờ Chúa hướng dẫn ông đã lập gia đình với bà và cả 2 đã đồng lòng hiệp ý với nhau lo truyền giảng đạo cứu rổi của Đức Chúa Trời cho đồng bào, dù trải qua nhiều khó khăn vì thời cuộc. Ông đã tự túc hầu việc Chúa tại Bến cát, Thủ đức và Cần giuộc. Năm 1949 ông lại trở vào trường Kinh thánh Đà Nẵng để tiếp tục học và tốt nghiệp vào mùa hè năm 1950.

Từ đó, suốt gần 40 năm, Chúa đã dùng ông trong công trường thuộc linh của Ngài ở nhiều Hội Thánh tại Việt nam, Cao miên, Pháp, Hoa kỳ. Tại Việt nam ông đã hầu việc Chúa ở Long thành (1950-55), Hội Thánh Hòa ninh (1955-56). Sau đó tiếp tục tại Hội Thánh Nam vang, Cam bốt (1956-70). Tiếp đến ông và gia đình sang Pháp và thành lập Hội Thánh Toulouse và hầu việc Chúa tại đó cho đến năm 1978. Cuối cùng, ông đã được Chúa cho phép sang Hoa kỳ và tiếp tục hầu việc Chúa tại Hội Thánh Miami (1978-81) và 2 Hội Thánh ở San Jose (1981-87).

Trên phương diện một tôi tớ Chúa, Mục sư Nguyễn DuyXuân đã nhờ đức tin vượt qua nhiều khó khăn thử thách, tận tụy hầu việc Chúa đến những ngày cuối cùng của đời mình cách trung thành và hăng say, giúp cho đức tin nhiều người được tăng trưởng và nhiều người được cứu rỗi linh hồn.

Nhiều lúc vì yêu thương con cái Chúa, Mục sư đã đạp xe đạp suốt ngày hàng chục cây số để thăm viếng tín đồ. Dù có lúc bụng đói mệt nhòa nhưng ông không dám ở lại dùng cơm tối vì thấy tín đồ quá nghèo cực. Mục sư luôn luôn sẵn sàng đưa đón, thăm viếng, giúp đỡ con cái Chúa bất cứ giờ nào, dù lạnh lẻo hoặc gió mưa.

Trên phương diện là một người cha, Mục sư đã có công dạy dổ con cái theo lẽ thật của Chúa để mỗi người đều được lớn lên và đứng vững trong niềm tin Cơ đốc. Ông đã hy sinh từng manh áo miếng ăn để giúp cho con cái có cơ hội đến trường học hành đổ đạt và nên danh phận với người.

Trên phương diện là chủ gia đình, ông yêu thương đùm bọc và chăm sóc vợ con cách chu đáo khiến cho bầu không khí gia đình luôn luôn ấm cúng và tràn đầy phước hạnh.

Trước sự luyến tiếc của mọi người Mục sư đã được Chúa cho trở về an nghĩ nơi Nước Ngài hôm Chúa Nhật Phục Sinh này 19 tháng 4 năm 1987, lúc 1 giờ trưa. Mục sư được hưởng thọ 66 tuổi với hơn 40 năm tận tụy hầu việc Chúa.

Mục sư đã ra đi trong sự luyến tiếc bùi ngùi của gia đình với muôn vàn thương nhớ.

Mục sư ra đi như một hạt giống phải tan rả đi mới mang lại bao nhiêu bông trái khác.

Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều người đứng lên nối gót theo gương Mục sư trên con đường phục vụ Chúa.

TIỂU SỬ NGẮN - MỤC SƯ NGUYỄN DUY XUÂN
Sanh: năm 1921, Làng Mỹ Ngãi, quận Cao Lãnh, Nam phần Việt Nam

1943-45: Học thần đạo tại trường Kinh thánh Đà Nẵng

1945-49: Truyền giáo tự túc tại các Hội Thánh: Bến cát, Thủ Đức và Cần Giuộc.

1949-50: Học thần đạo tại trường Kinh thánh Đà Nẳng

1950: tốt nghiệp

1950-55: Chủ tọa Hội Thánh Long Thành

1955-56: Chủ Tọa Hội Thánh Hòa Ninh

1956-70: Chủ Tọa Hội Thánh Nam Vang, Cam Bốt.

1970-78: Chủ Tọa Hội Thánh Toulouse, Pháp

1978-81: Chủ Tọa Hội Thánh Miami, Florida, Hoa Kỳ

1981-87: Chủ Tọa Hội Thánh San Jose 1 và San Jose 2

Ngày 19 tháng 4 năm 1987: Về an nghỉ nơi nước Chúa vào Chúa Nhật Phục Sinh, lúc 1 giờ trưa.


Mục sư để lại vợ là Bà Phan Thị Hợi, cùng 6 người con, tất cả đều hầu việc Chúa qua nhiều hình thức và phương tiện khác nhau:

Nguyễn Duy Tân

Nguyễn thị Ân Huệ

Nguyễn Duy Khiêm

Nguyễn Duy Quang

Nguyễn Duy Sang

Nguyễn T. Tuyết Mai

Các cháu:

Andrew Nguyễn và David Nguyễn

Daniel Nguyễn

(3 Cháu trai, con của Khiêm)

Peter Nguyen



Jimmy Phạm
Thơ: CÔNG ƠN THÂN PHỤ
Công cha như núi Thái sơn,

Như trời lồng lộng, như cơn mưa chiều.

Cuộc đời vất vả bao nhiêu,

Chỉ vì yêu mến nâng dìu đàn con.
Ôi tình thân phụ sắc son,

Dù cho sông cạn núi mòn không phai.

Ơn sâu nguyện khắc ghi hoài,

Trọn đời cố gắng để hài lòng cha.
Nhớ khi lầm lỗi được tha

Đôi mắt người thật thiết tha nhân từ

Những khi tánh xấu tật hư,

Cái roi nghiêm khắc chẳng từ lời than.
Vì mong con được khôn ngoan,

Người thưng răn dạy muôn ngàn điều hay,

Mỗi khi chân ngã thân trầy,

Tay người chăm sóc, lòng đầy xót thương.
Hy sinh thật quá vô lường,

Trọn đời thiếu thốn nhịn nhường vì con.

Nhịn từng tấm áo miếng ngon,

Mong con ăn học nên khôn với người.
Công cha ôi quá cao vời!

Ơn cha thật chẳng đủ lời nói đâu.

Cầu cho cha được sống lâu,

Cho con cơ hội ơn sâu đáp đền.
Giờ đây ý Chúa được nên,

Cha lìa cõi tạm, về bên kia bờ.

Lòng con se thắt bơ vơ,

Còn đâu cơ hội phụng thờ cha yêu.
Lòng xin khấn hứa một điều,

Gắng lo việc Chúa sớm chiều khôn nguôi.
Mục sư Bác sĩ Nguyễn Duy Tân




tải về 1.82 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương