Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II



tải về 0.91 Mb.
trang7/7
Chuyển đổi dữ liệu26.11.2017
Kích0.91 Mb.
#34593
1   2   3   4   5   6   7

3.- Thánh Stanislas

Ở trong sâu kín của những khuôn mặt rạng rỡ thuộc các vị Thánh Ba-lan, bằng đôi mắt con tim, tôi thấy nổi bật lên hình bóng vĩ đại của vị giám mục tử đạo là Thánh Stanislas. Như đã nhắc nhở, tôi đã dành trọn một bài thơ mà trong đó tôi đã gợi lại sự tử đạo của ngài. Khi đọc bài thơ đó thì hầu như nhìn vào một tấm kiếng soi lịch sử của Giáo Hội ở Ba-lan. Đây là vài đoạn của bài thơ đó:

 

1

Tôi muốn mô tả Giáo Hội – Giáo Hội của tôi

khai sinh cùng thời với tôi,

nhưng không chết đi với tôi –

và tôi không chết với Giáo Hội

vì Giáo Hội luôn trổi vượt lên tôi –

Giáo Hội: chiều sâu và đỉnh cao của bản thể tôi.

Giáo Hội: gốc rễ tôi bám trụ

trong quá khứ và trong tương lai,

Bí Tích của sự sống tôi trong Thiên Chúa là Cha.

 

Tôi muốn mô tả Giáo Hội – Giáo Hội của tôi



gắn liền với đất đai xứ sở tôi

(đã có chép: “tất cả những  gì con ràng buộc dưới đất

sẽ được ràng buộc ở trên trời”) –

và đất đai xứ sở tôi gắn liền với Giáo Hội tôi.

 

Đất đai xứ sở tôi ở lưu vực sông Vistule



với những chi lưu nước trào dâng vào mùa xuân,

khi tuyết tan trong rặng núi Carpates.

Giáo Hội gắn liền với đất đai xứ sở tôi

bởi vì những gì ràng buộc ở đó

phải được ràng buộc trên trời.

 

2



Có một người mà ở nơi họ

đất đai xứ sở tôi biết được ràng buộc trên trời.

Có người đó, những người đó…

Ở thời nào, cũng có…

Nhờ họ, đất đai xứ sở thấy chính mình

trong bí tích của một cuộc sống mới.

Đất đai xứ sở là quê hương tôi:

bởi vì ở đó nhà Cha đã được cưu mang,

ở đó nhà Cha đã được phát sinh.

 

Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi



qua một người với danh xưng Stanislas,

danh xưng được viết trong biên niên sử xa xưa nhất

bởi lưỡi kiếm của hoàng đế Boleslas.

Nhà vua đã viết tên đó trên nền đá hoa nhà thờ chính tòa

khi dòng máu đào phun ra.

 

3 



Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi qua tên gọi

nhờ đó dân chúng nhận lãnh thánh tẩy lần thứ hai,

một thánh tẩy bằng máu; để rồi sau đó được tùng phục,

và không chỉ một lần,

thánh tẩy của  nhiều thử thách khác nhau –

thánh tẩy ước muốn mà ở trong đó

nhận ra hơi thở vô hình của Chúa Thánh Thần –

qua một Tên Gọi

cắm trên mô đất của sự tự do con người

ngay cả trước khi có tên gọi Stanislas.

 

4



Trên mô đất của sự tự do con người

đã nảy sinh Mình và Máu

bị đâm thâu bởi lưỡi kiếm nhà vua

ở chính con tim phát ra lời rao giảng của bậc tư tế,

bị đâm thâu ở đáy sọ,

bị đâm thâu ở trong thân mình còn sống…

Mình và Máu lúc bấy giờ chưa có thời giờ sinh ra –

lưỡi kiếm đã đâm thâu tới chất kim loại chén rượu lễ

và bánh thánh.

 

5 



Có lẽ hoàng đế đã nghĩ: ngày hôm nay từ nhà ngươi

sẽ không còn nảy sinh Giáo Hội nữa –

sẽ không còn nảy sinh dân tộc nghe lời rao giảng

vì bị chịu hình phạt cả mình và máu;

Sẽ nảy sinh từ thanh kiếm, từ thanh kiếm của ta

mà giữa lưng chừng thanh kiếm,

sẽ xé tan những lời nói nhà ngươi;

sẽ phun ra dòng máu tuôn đổ…

Có thể nhà vua đã nghĩ như thế.

 

Nhưng hơi thở vô hình của Thần Trí Chúa



sẽ cùng một lúc củng cố

lời rao giảng bị chặt đứt và thanh kiếm:

cột xương sống bị chặt đứt,

đôi bàn tay đẫm máu…

Ngài phán: cùng nhau từ đây trở đi

chúng con sẽ bước đi,

không gì sẽ có thể chia lìa các con!

 

Tôi muốn mô tả Giáo Hội của tôi mà trong đó,



qua bao thế kỷ,

lời rao giảng và máu đào cùng nhau sánh bước,

được hợp nhất bởi hơi thở vô hình của Thần Trí Chúa.

 

6



Cỏ lẽ Satnislas đã nghĩ: lời nói của ta

sẽ cảm động nhà vua và sẽ hoán cải nhà vua;

ở trước cửa nhà thờ chính tòa,

nhà vua sẽ tới như hối nhân,

nhà vua sẽ tới, bị hao mòn vì chay trường,

bị xâu xé bởi chuỗi tiếng nói nội tâm…

 

Nhà vua sẽ tới gần bàn thánh Chúa,



như đứa con hoang đàng.

Lời rao giảng đã không cải hoán được,

Máu Đào sẽ hoán cải –

đối với vị giám mục,

có thể chưa kịp có thời giờ suy nghĩ:

hãy xa khỏi ta chén đắng nầy.

 

7



Trên mô đất tự do chúng ta thanh kiếm rơi xuống,

trên mô đất tự do chúng ta máu đào đổ xuống.

Trong hai điều đó, điều gì sẽ thắng thế?

 

Thế kỷ đầu đang hồi kết thúc



và thế kỷ thứ hai bắt đầu.

Hãy nắm VẬN MỆNH trong bàn tay chúng ta,

VẬN MỆNH của một thời điểm sẽ đến.

 

4.- Thánh địa 

Đã từ lâu, tôi ôm ấp trong lòng điều ao ước được thực hiện một cuộc hành hương trên những bước đường của tổ phụ Abraham, bởi vì tôi đã đi hành hương nhiều nơi trên mọi phần đất thế giới. Đức Phao-lồ VI đã đến Thánh Địa khi ngài khởi hành lần đầu tiên.

Tôi muốn thực hiện chuyến đi đó vào năm thánh 2000. Sẽ phải bắt đầu từ Ur ở Chaldée, trên phần đất Irak hiện nay mà từ đó, đã rất nhiều thế kỷ, Thánh tổ phụ Abraham đã ra đi, đáp lại tiếng gọi của Chúa (xem Sáng Thế Ký 12, 1-4).

Rồi tôi sẽ có thể tiếp tục đi đến Ai-cập, theo những vết chân tổ phụ Môi-sen là đấng đã hướng dẫn dân Do-thái ra khỏi miền đất đó và đã đến dưới chân núi Sinai để nhận lãnh Mười Điều Răn như là nền tảng giao ước với Thiên Chúa.

Lúc bấy giờ tôi có thể thực hiện cuộc hành hương của tôi ở Thánh Địa, bắt đầu từ nơi Truyền Tin. Rồi tôi đi đến Bethléem là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, và ở những nơi gắn liền với cuộc đời và sứ vụ của Ngài.

Nhưng cuộc hành trình của tôi đúng ra đã không thực hiện được như tôi dự định. Tôi không thể thực hiện giai đoạn đầu, theo những vết chân tổ phụ Araham. Chỉ đó là nơi độc nhất mà tôi không thể tới, bởi vì chính quyền Irak không cho phép.

Vì vậy tôi tới Ur ở Chaldée bằng tâm trí, trong một buổi lễ được tổ chức theo ý đó trong sảnh đường Phao-lồ VI. Ngược lại, tôi đã đến được Ai-cập, ở chân núi Sinai, nơi mà Thiên Chúa đã mạc khải Thánh Danh Ngài cho ông Môi-sen. Tôi đã được các đan sĩ Chính Thống Giáo tiếp đón. Các thầy rất hiếu khách.

Kế đó tôi đến Bethléem, rồi Nazareth và cuối cùng ở Jérusalem. Tôi đã đến Vườn Cây Dầu, rồi Nhà Biệt Ly và dĩ nhiên là Núi Sọ ở Golgotha. Đó là lần thứ hai tôi đi viếng Thánh Địa. Tôi đã đến đó lần đầu trong tư cách tổng giám mục Cracovie, trong thời gian Công Đồng.

Ngày cuối cùng của cuộc hành hương năm thánh 2000, tôi đã dâng Thánh Lễ gần mộ Chúa Kitô, với vị quốc vụ khanh Tòa Thánh là Đức Hồng Y Angelo Sodano và với những thành viên khác của phủ Quốc Vụ Khanh. 

Còn nói gì hơn nữa? Chuyến đi đó thật vĩ đại, một kinh nghiệm lớn lao. Thời gian quan trọng nhất của suốt cuộc hành hương chắc chắn là trạm dừng chân trên đỉnh Núi Sọ, đỉnh núi Chúa bị đóng đinh và gần Ngôi Mộ Chúa cũng là nơi Ngài đã phục sinh. Những tâm tư của tôi trào dâng trong xúc động, cũng như lần tôi thăm viếng Thánh Địa đầu tiên.

Lúc bấy giờ tôi đã viết:

Hỡi nơi chốn, nơi chốn của Thánh Địa – đã chiếm một chỗ như thế nào trong tôi! Do đó tôi không thể dẫm lên đất đó dưới bàn chân tôi, tôi phải quì gối. Và như thế ngày nay chứng thật đất đó là nơi gặp gỡ. Tôi quì xuống – và như thế tôi đã đóng ấn.

Đất đó sẽ tồn tại ở đây với dấu ấn của tôi – đât đó sẽ tồn tại, sẽ tồn tại – và tôi sẽ mang đất đó theo tôi, tôi sẽ biến đất đó ở trong tôi thành một nơi chứng tích mới. Tôi ra đi như một chứng nhân để làm chứng tá qua nhiều thế kỷ.”

(Hành hương Thánh Địa - 3. “Những căn tính”).

Nơi Cứu Rỗi! Không nói được nhiều hơn: “Tôi sung sướng được đi tới đó.” Có điều gì hơn thế nữa: đó là dấu ấn của sự đau khổ tột độ, dấu ấn của sự chết cứu độ, dấu ấn của sự Phục Sinh.

 

5.- Abraham và Chúa Kitô: “Lạy Chúa, nầy Con đây, Con đến thực thi thánh ý Ngài.”

Đấng tổ phụ của đức tin và lòng can đảm từ ngài tuôn ra phải thể hiện nơi mỗi người chúng ta điêu nầy là “vâng nghe tiếng Chúa gọi và ra đi mà không biết mình đi đâu (Dt 11, 8). Tác giả thư gởi giáo đoàn Do-thái đã viết những lời đó khi nói về ơn gọi của tổ phụ Abraham, nhưng cũng liên hệ đến hết mọi ơn gọi của con người, kể cả ơn gọi rất đặc biệt nhất được thể hiện trong sứ vụ giám mục: lời kêu gọi được trở nên những người đầu tiên trong đức tin và đức ái.

Chúng ta đã được tuyển chọn và kêu gọi để ra đi, và không phải chúng ta ấn định mục tiêu cho cuộc hành trình. Chính Đấng đã truyền lệnh cho chúng ta ra đi, thực hiện điều đó: Thiên Chúa thành tín, “Thiên Chúa của Giao Ước”.

Gần đây tôi đã trở về với khuôn mặt của tổ phụ Abraham qua một bài suy niệm có tính cách thi ca. Tôi trích dẫn ra đây một đoạn:

 

Thưa tổ phụ Araham –



Đấng đã đi vào trong lịch sử loài người,

chỉ mong ước qua ngài được tỏ lộ huyền nhiệm

ẩn giấu từ khi vũ trụ được tạo thành,

huyền nhiệm đó còn xưa hơn cả vũ trụ!

 

Nếu hôm nay chúng ta đi tới những nơi đó,



mà xưa kia tổ phụ Abraham đã từ đó ra đi,

nơi ngài đã nghe Tiếng Chúa,

nơi đã thực hiện lời hứa,

chính là để người ta dừng chân nơi ngưỡng cửa –

để tới được lúc khởi đầu của Giao Ước.”

(Ở xứ của núi Moriyya)

Trong những suy niệm về ơn gọi giám mục mà tôi trình bày hôm nay, tôi cũng muốn trở về với khuôn mặt Abraham là cha chúng ta trong đức tin, và nhất là cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Kitô Cứu Thế mà về thể xác, là “con cái Abraham” (xem Mt 1, 1), nhưng đồng thời cũng hiện hữu trước khi có Abraham, bởi vì Ngài Hằng Hữu” (xem Gio 8, 58).

Từ cuộc gặp gỡ đó, ánh sáng chiếu giãi trên huyền nhiệm ơn gọi chúng ta trong đức tin, và trên hết mọi trách nhiệm cùng lòng can đảm cần thiết tương ứng.

Người ta có thể nói đó là một huyền nhiệm với hai bộ mặt. Trước tiên là huyền nhiệm về những gì, nhờ ơn Chúa, đã xảy đến trong lịch sử loài người. Và huyền nhiệm về tương lai, tức niềm hy vọng: đó là huyền nhiệm về ngưỡng cửa, mà mỗi người trong chúng ta, căn cứ vào cũng một ơn gọi, phải vượt qua và được nâng đỡ bởi đức tin, không thối lui trước bất cứ điều gì, bởi vì biết mình đã đặt để niềm tin vào ai (xem 2Tm 1, 12). 

Trong huyền nhiệm đó, được liên kết một cách chặt chẽ, không thể phân cách, tất cả những gì đã xảy ra ngay từ ban đầu, những gì đã đến từ trước khi tạo thành vũ trụ và những gì  còn phải đến về sau nữa.

Như thế đức tin, trách nhiệm và lòng can đảm của mỗi người chúng ta được ghi khắc trong huyền nhiệm của sự thành tựu kế hoạch Thiên Chúa. Đức tin, trách nhiệm và lòng can đảm của mỗi người trong chúng ta xem ra cần thiết, bởi vì tặng phẩm của Chúa Kitô cho thế giới có thể được biểu lộ một cách phong phú toàn diện.

Không những một đức tin được duy trì trong ký ức di sản nguyên vẹn của những huyền nhiệm Thiên Chúa, mà còn là một đức tin có can đảm mở ra và tỏ bày một cách luôn mới mẽ di sản đó trước những người mà Chúa Kitô đã sai môn đệ của Ngài đến với họ.

Đó là một trách nhiệm không chỉ giới hạn trong việc bảo toàn những gì đã được giao phó mà còn có can đảm đem hết khả năng mình ra để tăng trưởng thêm lên (xem Mt 25, 14-30).

Khởi từ tổ phụ Abraham, đức tin của mỗi con cái ngài bao gồm việc vượt thoát liên tục những gì thân thiết, những gì đặc thù, những gì thân quen để mở ra tới một chân trời xa lạ, căn cứ vào chân lý phổ quát và vào tương lai chung cho tất cả mọi người ở nơi Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta được mời gọi tham gia vào tiến trình vượt thoát khỏi phạm vi thường tình đó, phạm vi thân cận với chúng ta nhất. Chúng ta được mời gọi hướng về Thiên Chúa ở nơi Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã vượt thoát chính mình, bằng cách “phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét(Ep 2, 14), để đem chúng ta về với Ngài bởi Thập Giá.

Chúa Kitô muốn nói với chúng ta: trung tín theo tiếng gọi Chúa Cha, con tim mở rộng với hết mọi người gặp gỡ; hành trình mà trên đó không có được một nơi “gối đầu” (Mt 8, 20) và cuối cùng Thập Giá nhờ đó người ta đạt tới chiến thắng của sự phục sinh.

Chính Chúa Kitô là Đấng can đảm đi về phía trước và “không dừng lại” trước khi mọi việc được hoàn tất, trước khi “lên cùng Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta nữa(Gioan 20, 17), Đấng “vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13, 8).

Do đó đức tin chính là sự kiện con người không ngừng mở ra đối với sự kiện Thiên Chúa tuôn tràn không dứt trên thế giới loài người. Đó là hành trình con người đi tới Thiên Chúa, một Thiên Chúa mà về phần Ngài, đem những con người xích lại với nhau.

Lúc bấy giờ người ta đạt tới điều mà tất cả những gì đặc thù đối với mỗi cá nhân trở nên đặc điểm chung cho mọi người và những gì thuộc kẻ khác cùng một trật trở thành của tôi.

Chính đó là nội dung chứa đựng trong những lời người cha nói với người con trưởng trong dụ ngôn “đứa con hoang đàng”: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15, 31). Thật có ý nghĩa khi chính những lời nói đó được lặp lại trong lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu như là những lời Chúa Con ngỏ với Chúa Cha: “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Gio 17, 10).

Trong khi sắp xảy đến điều mà Ngài nhận biết như là “giờ của Ngài” (xem Gio 7, 30; 8, 20; 13, 1), chính Chúa Kitô đã nói về tổ phụ Abraham một cách thật ngạc nhiên biết bao đối với những người nghe Ngài: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mầng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Gio 8, 56).

Như vậy niềm vui của tổ phụ Abraham là gi? Phải chăng ngài đã đoán thấy tình yêu và lòng dũng cảm mà “con ngài” xét vế mặt xác thịt, là Chúa Giêsu và là Đấng Cứu Chuộc, phải “đi đến cùng để thực thi ý Cha” (xem Dt 10, 7)?

Rõ ràng chính trong những biến cố của cuộc Khổ Nạn Chúa Kitô mà chúng ta tìm thấy sự quy chiếu cảm động nhất về huyền nhiệm tổ phụ Abraham, khi ngài được hỗ trợ bởi đức tin, đã rời bỏ quê hương và trẩy đi xa đến một nơi vô định, và nhất là khi con tim bị khắc khoải giày vò, ngài đã dẫn lên núi Moriyya, đứa con mình hằng bao năm trông đợi và thương mến, để hiến tế như của lễ hy sinh.

Khi đến “giờ của Ngài”, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ ở cùng Ngài trong vườn Giết-sê-ma-ni như thánh Phê-rô, Thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan là những môn đệ được Ngài thương yêu cách đặc biệt: “Đứng dậy! Ta đi nào!” (Mc 14, 42. Ngài không là kẻ duy nhất phải “đi” để thực thi thánh ý Chúa Cha: các môn đệ cũng phải đi với Ngài nữa.

Lời mời gọi đó – “Đứng dậy! Ta đi nào! – đã ngỏ một cách thật đặc biệt, với chúng ta là những giám mục, những bạn hữu tiêu biểu nhất của Ngài. Cho dẫu những lời nói đó bao hàm một thời điểm thử thách, một cố gắng phi thường, một thập giá đớn đau, chúng ta không được để cho sự sợ hãi thắng thế. Đó là những lời nói cũng chất chứa niềm vui và sự an bình là thành quả của đức tin.

Trong một trường hợp khác, cũng với ba môn đệ đó, Chúa Giêsu đã mời gọi họ rõ ràng như sau: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17, 7). Tình yêu Thiên Chúa không chất chồng trên chúng ta những gánh nặng chúng ta không thể vác nổi. Ngài không đòi hỏi chúng ta những điều chúng ta không thể đương đầu. Khi Ngài đòi hỏi, Ngài ban cho sự hỗ trợ cần thiết.

Khi nhắc lại điều đó, tôi muốn đề cập đến nơi chốn mà tình yêu Chúa Kitô Đấng Cứu Thế đã đưa dẫn tôi, yêu cầu tôi đi khỏi quê hương tôi để sinh hoa kết quả ở nơi khác, nhờ Ân Sủng của Ngài, một hoa trái được tồn tại (xem Gio 15, 16).



Lặp lại những lời nói của Thầy Chí Thánh và Chúa chúng ta, tôi cũng nói lại như vậy với mỗi người trong anh em, thưa Chư Huynh đáng kính trong Giám Mục Đoàn: “Đứng dậy! Ta đi nào!Chúng ta hãy đi trong sự tín thác vào Chúa Kitô. Ngài đồng hành với chúng ta trên cuộc lữ thứ trần gian, cho đến đích điểm mà chỉ một mình Ngài biết.

+ Gioan Phaolô II

tải về 0.91 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương