Hình 3.15. Chỉ số chính sách DNNVV Việt Nam
Nguồn: ERIA và OECD (2014)
Đề xuất chính sách
4.1 Giới thiệu LPTC (Trung tâm công nghệ công cộng địa phương) dựa trên kinh nghiệm tiên tiến của Nhật Bản
Trước tiên, ở đây chúng ta thảo luận về bối cảnh lịch sử của ngành công nghiệp hỗ trợ Nhật Bản và việc phát triển công nghiệp khu vực như sau:
Công nghiệp ô tô và công nghiệp cơ khí/ kim loại
Chiến tranh thế giới thứ II: Một lượng lớn các DNNVV được huy động cho sản xuất máy bay, tàu chiến, vũ khí, đạn dược, vân vân.
1950-1980: Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô, các DNNVV cũng được mở rộng.
1990-2000: Cả ở miền Bắc và miền Nam Nhật Bản, ngành công nghiệp ô tô đã được hội nhập.
(#LPTC góp phần vào tiến bộ công nghệ của công nghiệp hỗ trợ)
Sau năm 2010: Thị trường trong nước chững lại, do đó các DNNVV quyết định đẩy mạnh kinh doanh ở nước ngoài hoặc thực hiện phát triển thị trường mới trong nội địa.
Chiến tranh thế giới thứ II: Công nghệ viễn thông đã được tích lũy.
1960-1970: Các DNNVV liên quan tới điện tử đã được mở rộng.
1980-1990: Cả ở miền Bắc và miền Nam Nhật Bản, ngành công nghiệp liên quan tới phát triển nguồn nhân lực cũng được mở rộng.
Sau năm 2000: Sản xuất trong nước giảm. Việc mở rộng các nhà máy vào Châu Á được đẩy mạnh. Tuy nhiên, ngành công nghiệp bán dẫn vẫn ở trong nước.
Các đặc điểm của ngành công nghiệp Nhật Bản có thể thấy trong sơ đồ sau. Cụ thể là, theo lịch sử, sự hợp nhất công nghiệp được đẩy mạnh xung quanh các khu vực Kanto, Tokai và Kansai. Tohoku và Kyushu có tiến bộ trong hội nhập ngành công nghiệp vào trong 20 đến 30 năm qua.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |