BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta



tải về 1.25 Mb.
trang9/10
Chuyển đổi dữ liệu20.07.2016
Kích1.25 Mb.
#2098
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Chất lượng thịt chưa cao

Mặc dù có tốc độ tăng trưởng đáng kể về sản lượng nhưng chất lượng thịt của Việt Nam so với các nước khác còn thấp. Tỷ lệ thịt nạc còn thấp. Trung bình tỷ lệ nạc của giống lợn địa phương chỉ chiếm 34,5 %. Tỷ lệ nạc cao hơn đối với giống lợn ngoại, chiếm 42,6%. Trong khi đó tỷ lệ nạc bình quân trên thế giới chiếm 55%. Tỷ lệ thịt xô của bò ở Việt nam cũng thấp, chỉ đạt 36,6%

Bảng 5.13. Tỷ lệ thịt nạc và thịt xô của một số loại theo vùng (%)

Loại vật nuôi

Vùng

Trung bình

Miền Bắc

Miền Trung

Miền Nam

Lợn địa phương

33,6

36

34

34,5

Lợn cải tiến

40,6

41,4

46

42,6



35,7

37,5

36,7

36,6

Nguồn: IFPRI -MARD, 1999

Tỷ lệ nạc thấp một phần do chăn nuôi ở Việt Nam quy mô nhỏ, chất lượng thức ăn chăn nuôi của Việt Nam còn kém, chủ yếu là thức ăn tận dụng. Bên cạnh đó, giá thức ăn công nghiệp khá cao nên các hộ chủ yếu sử dụng thức ăn xanh, thô. Ngoài ra, tỷ lệ áp dụng giống cải tiến còn chưa cao nhất là đối với hộ quy mô nhỏ, đây cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thịt vật nuôi ở Việt Nam.

Chất lượng thịt và các sản phẩm thịt thấp không chỉ do khâu sản xuất mà còn do công nghệ thiết bị giết mổ và chế biến, phương tiện lưu kho lạc hậu, điều kiện vệ sinh không đảm bảo. Hiện nay, chỉ có một vài cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ cho xuất khẩu.

Rủi ro cao

Bên cạnh lời lãi không đáng kể, người chăn nuôi Việt Nam còn gặp nhiều rủi ro trong sản xuất cũng như thị trường, dịch bệnh. Theo kết quả điều tra của IFPRI – MARD năm 1999, tỉ lệ chết của lợn ngoại do bệnh dịch chiếm tới 3,69%, tỉ lệ chết bệnh của lợn lai và lợn địa phương là 2,28% và 2,48% trong tổng đàn. Tỉ lệ này của gà thậm chí còn cao hơn nhiều, với 14,67% đối với giống gà địa phương và 5,31% đối với gà ngoại.



Bảng 5.14. Tỉ lệ chết bệnh của một số gia súc gia cầm (%)

Loại

Lợn



Vịt



Trâu

Địa phương

2,48

14,67

4,71

0,97

1,67

Lai

2,28

8,29

4,60

0,75

-

Ngoại

3,69

5,31

5,50

-

-

Nguồn: Điều tra của MARD – IFPRI, 1999

Do việc phòng và điều trị bệnh hạn chế, dịch bệnh đã lan rộng trong những năm gần đây. Hiện nay không có vùng an toàn dịch bệnh nào cho sản phẩm thịt xuất khẩu. Thiệt hại về sản xuất do dịch bệnh ngày càng trầm trọng và có ảnh hưởng tiêu cực đến ngành chăn nuôi và các nhà sản xuất do chi phí sản xuất bị đẩy lên cao. Chỉ tính riêng đàn lợn, tổn thất do dịch bệnh đã chiếm tới 10% trong tổng đàn. Theo khảo sát của MARD và IFPRI, thiệt hại cấp quốc gia do chết bệnh năm 1999 đã lên tới gần 60 triệu USD, trong đó 29 triệu USD do gà chết, tiếp đến là 23,3 triệu USD do lợn chết.


Bảng 5.15. Tổn thất toàn quốc do gia súc chết

Loại

Tỉ lệ tổn thất do gia súc chết so với doanh thu của người sản xuất (%)

Tổn thất toàn quốc do gia súc chết

(triệu đồng)

Tổn thất toàn quốc do gia súc chết

(triệu USD)

Lợn

2,38




325.425




23,24






10,18




408.972




29,21




Vịt

5,68




48.054




3,43






1,78




15.504




1,11




Trâu

2,95




10.846




0,77




Tổng







808.000




57,77




Nguồn: Điều tra của MARD - IFPRI, 1999

Hay như dịch cúm gia cầm vừa qua, Việt Nam đã phải chịu thiệt hại rất năng nề. Việt Nam tiêu tuỷ 43,2 triệu gia cầm, trong đó 29,7 triệu con gà, 13,5 triệu con vịt, ngỗng. 13 tỉnh thành đã phải thiêu huỷ hơn 1 triệu gia cầm. Hơn 61 triệu quả trứng cũng được tiêu huỷ. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tiêu huỷ 13,9 triệu chim bồ câu và nhiều loài chim khác.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thiệt hại kinh tế trực tiếp do cúm gà đã lên tới trên 1.000 tỉ đồng8.



Tiềm năng xuất khẩu rất thấp

Phần lớn các sản phẩm thịt của Việt Nam được tiêu thụ trên thị trường nội địa, chỉ có một lượng nhỏ được xuất khẩu, hoàn toàn là sản phẩm thịt lợn. Tuy nhiên xuất khẩu thịt của Việt Nam còn rất bấp bênh, không ổn định và phụ thuộc chủ yếu vào thị trường Hồng Kông.

Hình 5.11. Lượng xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam (1995-2004)

Do chi phí thức ăn cao cộng với phương thức ăn sản xuất nhỏ, chủ yếu là chăn nuôi tận dụng nên nhìn chung giá thành sản xuất thịt lợn của Việt Nam cao, trong khi đó giá xuất khẩu không cao hơn nhiều so với giá thành. Chính vì thế, lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu của Việt Nam là rất thấp. Điều này được thể hiện thông qua chỉ số Chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của Việt Nam còn rất cao, nhất là một vài năm trước đây. Năm 1997, DRC của thịt lợn là xấp xỉ 1,5. Điều này có nghĩa là chúng ta phải bỏ ra 1,5 USD chi phí nguồn lực trong nước để sản xuất thì nếu xuất khẩu chỉ thu về được 1 USD. Trong khi đó, DRC của gạo, cà phê năm 1997 chỉ đạt khoảng 0,5. Điều này cho thấy khả năng cạnh tranh của sản phẩm thịt lợn so với các nông sản khác như gạo, cà phê còn thấp và thực chất trong những năm qua, Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh trong việc xuất khẩu thịt lợn.

Hình 5.12. Hệ số Chi phí nguồn lực nội địa

Việc nghiên cứu DRC cho thấy nhữn năm 2001-2002, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thịt lợn có tăng lên, dù vẫn còn rất yếu và vấn đề chủ yếu là do “giá thành sản xuất thịt còn cao”. Và sự tăng lên chỉ là nhất thời.Chỉ có một số ít các doanh nghiệp hay trang trại quy mô lớn, áp dụng chăn nuôi theo kiểu công nghiệp, giống tốt thì mới có khả năng xuất khẩu ra thị trường Hồng Kông, Nga, Đài Loan còn phần lớn lượng thịt lợn sản xuất vẫn là phục vụ nội tiêu.

Mặc dù chăn nuôi Việt Nam còn nhiều hạn chế và khả năng xuất khẩu rất thấp nên hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy, chiến lược phát triển chăn nuôi nên tập trung vào thị trường trong nước.

Trong quá trình hội nhập AFTA và thế giới, do nhu cầu và thị hiếu tiêu thụ thịt tươi nên việc nhập khẩu có thể sẽ không hiệu quả, nhất là đối với sản phẩm thịt lợn. Hiện nay, chăn nuôi lợn các nước trong khu vực chưa phát triển và áp lực cạnh tranh trong sản phẩm thịt lợn khi hội nhập chưa lớn.



Trong các nước ASEAN, chỉ có chăn nuôi gia cầm là phát triển và nhất là Thái lan, vì thế Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh lớn từ sản phẩm thịt gà từ nước này. Tuy nhiên, việc tiêu thụ các sản phẩm làm sẵn và qua kênh tiêu thụ sẽ còn cần thời gian vì thế trong ngắn hạn sự cạnh tranh nay sẽ chưa có ảnh hưởng lớn. Tuy nhiên về dài hạn sẽ là vấn đề lớn, và Việt Nam cần có những chính sách giảm giá thành và nâng cao chất lượng.

      1. Phân tích SWOT

        Điểm mạnh

        • lao động nông thôn rồi rào

        • Kinh nghiệm chăn nuôi

        • Chính sách ưu tiên của Chính phủ

        • Các trang trại phát triển




        Điểm yếu

        • Thị phần xuất khẩu nhỏ

        • Chi phí sản xuất cao

        • Quy mô chủ yếu của các hộ sản xuất còn nhỏ

        • Lợi nhuận của người sản xuất thấp

        • Năng suất thấp

        • Vệ sinh thú y kém, thiệt hại nhiều do bệnh tật

        • Thiếu thiết bị chế biến hiện đại

        • Kênh thị trường không hiệu quả

        • Thiếu hợp đồng SPS

        Cơ hội

        • Tăng thu nhập khiến tiêu dùng trong nước tăng

        • Thói quen tiêu thụ thịt tươi và giống nộiPhát triển trồng trọt thức ăn chăn nuôi

        • Gần các thị trường lớn

        • Tiêu thụ trong nước tăng

        • Hỗ trợ từ Chính phủ

        • Giá thức ăn chăn nuôi sẽ giảm nhờ hội nhập kinh tế

        Thách thức

        • Cạnh tranh dữ dội của từ cả thị trường trong và ngoài nước: sữa, sản phẩm từ gia cầm, thịt bò

        • Bệnh tật

        • Áp lực hội nhập

    1. Chè



      1. Sản lượng chè Việt Nam



Việt Nam bắt đầu sản xuất chè hơn 3000 năm trước đây. Sau khi chiếm đóng Đông Dương, thực dân Pháp đã đưa cây chè vào từ cuối thế kỷ 19. Năm 1885, Phát tiến hành cuộc điều tra đầu tiên các đồn điều chè ở Việt Nam và đồn điền chè đầu tiên ra đời năm 1890 ở Tinh Cuong, Phú Thọ (Zeiss và Den Braber, 2001). Đến năm 1938, diện tích trồng chè là 13.405 ha, sản lượng đạt 6.100 tấn chè khô. Trong cuộc chiến đấu giành độc lập, các đồn điền chè phần lớn đều bỏ hoang và thị trường sụp đổ. Quả thực, đến năm 1946, sản lượng chè chỉ đạt 300 tấn. Sau năm 1954, sản xuất chè phát triển mạnh. Năm 1958, diện tích trồng chè là 30.000 ha và Việt Nam có hai nhà máy chế biến chè ở Hà Nội và Phú Thọ với tổng công suất chế biến là 1.100 tấn mỗi năm. Năm 1977, diện tích chè mở rộng lên 44.330 ha, sản lượng đạt gần 18.000 tấn chè khô. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và chè được coi là mặt hàng chiến lược, sản xuất chè ngày càng phát triển, Tính đến năm 2000, sản lượng chè đã đạt trên 35.000 tấn, có hơn 600 doanh nghiệp và 10.000 nông dân tham gia vào chế biến tại hộ.

Sản lượng chè Việt Nam đã tăng trưởng đáng kể trong thập niên 90, mặc dù phần lớn là do việc mở rộng diện tích trồng chè hơn là tăng trưởng về năng suất. Trong giai đoạn 1990-2003, sản lượng chè đã tăng bình quân 7%/năm, trong khi diện tích và năng suất chỉ tăng lần lượt 3,5%/năm và 3,1%/năm. Sản lượng giảm mạnh trong năm 2003 khi thị trường sụp đổ vì cuộc chiến ở Irắc. Tuy nhiên, dự kiến sản lượng sẽ đạt mức cao trở lại vào năm 2004.Việt nam sản xuất 3 loại chè chế biến là chè đen orthodox (60%), chè đen CTC (7%) và chè xanh (33%).

Hình 5.13. Sản lượng và diện tích chè của Việt Nam từ 1990-2003

Nguồn: ICARD

Trên phạm vi cả nước, chè được trồng tập trung ở 5 vùng:

- Tây bắc: Sơn La, Lai Châu

- Đông bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái

-Trung du phía bắc: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Kạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Nam Tuyên Quang

- Bắc trung bộ: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh

- Tây Nguyên: Lâm Đồng, Gia Lai, Kontum

Tính đến năm 2003, Việt Nam đã có tổng cộng 99.000 ha chè, trong đó hơn 70% do các hộ nông dân nhỏ trồng và gần 30% thuộc các đồn điền lớn của nhà nước và công ty liên doanh. Tỷ lệ diện tích của các hộ nông dân tăng lên nhanh chóng từ năm 1995 khi Nhà nước thực hiện Nghị định 01 giao khoán đất cho nông hộ. Năm 1990, diện tích chè của các nông sản xuất chỉ chiếm xấp xỉ 50%.


      1. Xuất khẩu

Ngành chè Việt Nam chủ yếu tập trung vào xuất khẩu với 85% sản lượng chè được bán ra thị trường thế giới trong niên vụ 2001/02, một bước nhảy vọt từ chỉ có 24% năm 1991. Sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là chè đen chất lượng thấp được chế biến theo công nghệ orthodox. Phần lớn chè được bán buôn, không có nhãn mác hay đóng gói. Tính đến năm 1997, chỉ có 10% chè xuất khẩu được dán nhãn với một thương hiệu Việt Nam.

Hình 5.14. Sản lượng và khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn từ 1990-2003 (tấn chè khô)





Nguồn: ICARD

Bên cạnh sản phẩm xuất khẩu chính là chè đen còn có một lượng nhỏ chè xanh và các loại chè khác (chè đặc sản như Ôlong và Suchong). Mặc dù cơ cấu các loại chè có sự thay đổi theo từng năm, loại chè chiếm ưu thế trong xuất khẩu vẫn là chè đen orthodox.

Hình 5.15. Tỷ trọng xuất khẩu của từng loại chè của Việt Nam

Chú ý: Loại chè khác bao gồm các loại chè đặc sản như Ôlong và Suchong, chè đặc sản.

Nguồn: Accenture 2000.


      1. Thị trường

Trước năm 1991, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu chè sang Liên bang Xô Viết và Đông Âu. Khối lượng xuất khẩu trong thập niên 80 đạt 12.000 - 14.000 tấn chè sơ chế mỗi năm. Các nước nhập khẩu sau đó chế biến lại và đóng gói trước khi bán ra. Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu chè sang 59 nước trên thế giới (tính đến đầu năm 2004), trong đó 80% khối lượng chè xuất sang Irắc, Đài Loan, Ấn Độ, Pakistan và Nga. Trong khi Irắc, Pakistan và Ấn Độ chủ yếu mua chè đen, Đài Loan và Pakistan lại là khách mua chè xanh chủ yếu (Accenture 2000). Irắc và Đài Loan chiếm 50% khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam.

Gần đây, Việt Nam nỗ lực mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu chè. Cá nước châu Âu như Đức, Anh là các thị trường lớn. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu chè sang Đức và Anh lần lượt chiếm 3,5% và 1,5% tổng giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, Việt Nam còn mở rộng thị trường xuất khẩu sang Mỹ và các nước châu Á như Nhật, Indonesia và Singapore.

Hình 5.16. Nước nhập khẩu chè Việt Nam 1999-2003



Nguồn: Accenture 2000 và ICARD 2003, Nguyễn Tấn Phong, “Lộ trình mới cho Phát triển ngành chè”, tạp trí NLC, số 6- 2004

Khó khăn khi phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu hạn chế đã trở nên rõ ràng hơn khi chiến tranh Irắc nổ ra vào năm 2003 làm mất đi nhu cầu đối với chè Việt Nam và đã gây tác động mạnh tới tất cả các thành phần tham gia trong chuỗi giá trị ngành chè Việt Nam, nhất là những thành phần có liên quan tới các doanh nghiệp quốc doanh xuất khẩu qua VINATEA. Năm 2003, VINATEA chỉ xuất khẩu được 15.000 tấn chè sang Irắc mặc dù các hợp đồng ký kết là 30.000 tấn. Không những thế, Irắc không thể thanh toán cho số chè đã giao vì thế nợ khó đòi lên tới 1,3 triệu Euro.

Việt Nam có khoảng 130 công ty xuất khẩu chè, trong đó 40 công ty chuyên xuất khẩu. VINATEA không còn thống trị thị trường xuất khẩu kiểm soát dưới 50% khối lượng chè xuất khẩu. Phần lớn là chè đen chế biến theo công nghệ orthodox. 70% chè của VINATEA bán ra được chế biến lại và dán nhãn nước ngoài; chỉ có 17% số chè bán ra dưới nhãn hiệu VINATEA. Bên cạnh đó, Công ty cũng bán ra một lượng nhỏ chè xanh sang Nhật Bản, Đài Loan và Pakistan và một lượng nhỏ chè đen CTC sang Bỉ. Các công ty TNHH hiện kiểm soát khoảng 40%, công ty liên doanh (8%), thị phần còn lại được kiểm soát bởi các loại liên doanh khác.)

Hình 5.17. Tỷ lệ xuất khẩu theo loại hình sở hữu công ty 2004





Nguồn: VITAS

      1. Đánh giá lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh

Không có sự cạnh tranh mạnh trong khối ASEAN

Trước hết nghiên cứu các nước xuất khẩu chè trên thế giới cho thấy, trong khối ASEAN Việt Nam chỉ có cạnh tranh với Indonesia do Thái Lan, Malaysia hay Philipin không xuất khẩu. Hơn nữa các nước ASEAN không phải là những nước nhập khẩu chính vì thế khi tham gia AFTA, ngành chè Việt Nam không chịu ảnh hưởng nhiều.

Hình 5.18. Thị trường xuất khầu chè thế giới (%)

Hình 5.19. Tỷ trọng nhập khẩu chè của một số nước 2000-2002





Nguồn: FAOstat 2004

Chủ yếu xuất khẩu chè thô

Tuy nhiên trong thị trường chè thế giới, lượng xuất khẩu của Việt Nam còn rất hạn chế, mới chỉ chiếm 2,6% tổng xuất khẩu chè thế giới. Bên cạnh đó, phần lớn Việt Nam xuất khẩu chè thô, chè nguyên liệu nên giá chè xuất khẩu của Việt Nam rất thấp so với chè thế giới.



Hình 5.20. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam và giá thế giới 1990-2003 (USD/tấn)

Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê và FAO

Hơn nữa chè Việt Nam chưa có thương hiệu mạnh chính vì thế uy tín trên thị trường thế giới chưa cao. Đây cũng là lý do năm 2004, Việt Nam đã đầu tư 27,5 tỷ cho Hiệp hội chè để cho chương trình xây dựng thương hiệu chè Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu phải gắn với chất lượng và chủng loại sản phẩm. Việc chủ yếu xuất khẩu chè nguyên liệu là khó khăn lớn khi xây dựng thượng hiệu mạnh.

Với chè nguyên liệu, giá trị đơn vị chè của Việt Nam là rất thấp so với các nước khác trên thế giới, chỉ khoảng trên 1000 USD, so với 7000-8000 USD của các nước Pháp, Anh hay trên 2000 USD của Srilanka, Ấn Độ.




Hình 5.21. Giá trị đơn vị của các nước xuất khẩu chè lớn 2002 (USD/tấn)


Nguồn: FAOStat 2004.

Chính do xuất khẩu chè thô nên giá trị gia tăng sản phẩm chè do các thành phần trong nước tạo ra rất thấp, phần lớn giá trị gia tăng cuối cùng của sản phẩm chè là do các nhà phân phối nước ngoài nhận được. Nghiên cứu của ngân hàng Phát triển Châu á năm 2003 đối với hai sản phẩm chè Tesco và Twinings, các nhà phân phối chế biến nước ngoài chiếm tới 85-90% giá trị gia tăng của sản phẩm chè cuối cùng bán tại các siêu thị nước ngoài.

Hình 5.22: Tỷ trọng trong tổng giá trị gai tăng chè bán tại các siêu thị nước ngoài





Mức độ cạnh tranh trung bình theo DRC

Công cụ thông thường để đánh giá lợi thê so sánh là Chi phí nguồn lực nội địa (DRC) - thước đo giá trị kinh tế các nguồn lực nội dịa trong sản xuất một mặt hàng xuất khẩu. Nếu DRC nhỏ hơn 1, mặt hàng đó có lợi thế so sánh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng DRC là một thước đo tĩnh không tính đến các sự thay đổi của các thành phần nguồn lực.

Ở Việt Nam, việc tính toán Chi phí nguồn lực nội địa (DRC) đối với chè cho thấy chè vẫn là một mặt hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh trung bình. Chỉ số DRC của chè nhìn chung là thấp hơn 1, dù năm 2004 là xấp xỉ bằng 1 do khủng hoảng thị trường xuất khẩu với 15000 tấn chè sang I-rắc bị ngưng lại. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của chè thấp hơn so với cà phê, hạt điều và gạo.

Hình 5.23. Chi phí nguồn lực nội địa của chè Việt Nam 1995-2004



Nguồn: Tính toán của Nguyễn Ngọc Quế (ICARD)



      1. Phân tích SWOT

Điểm mạnh

  • Điều kiện thời tiết thuận lợi

  • Kinh nghiệm trồng

  • Đa dạng hóa sản phẩm

  • Phát triển xuất khẩu tư nhân

  • Thói quen uống chè của người Việt Nam

  • Các công ty chè nước ngoài và liên doanh phát triển

  • Là một nguồn thu nhập chính của người sản xuất

Điểm yếu

  • Hệ thống thủy lợi kém, ít giống, năng suất thấp

  • Xuất khẩu chè sơ chế với giá trị thấp

  • Chưa có thương hiệu

  • Phụ thuộc vào một số thị trường lớn như Irắc khiến có nhiều rủi ro

  • Nhiều cơ sở chế biến thủ công

  • Chất lượng chè xuất khẩu không đồng đều

  • Các thương hiệu chè đen của nước ngoài thống lĩnh trên thị trường trong nước

  • Vườn chè đã lâu năm

  • Khu vực chè được tưới còn ít

  • Thiếu phương tiện cất trữ

  • Các công ty Nhà nước thiếu khả năng thương mại

  • Cạnh tranh không công bằng giữa khu vực Nhà nước và tư nhân

Cơ hội

  • Thị trường thế giới phát triển

  • Chế biến tại hộ gia đình phát triển

  • Chè là một đồ uống giải khát

  • Phát triển ứng dụng khoa học kỹ thuật

  • Đa dạng hóa sản phẩm

  • Quá trình cổ phần hóa

Thách thức

  • Sử dụng quá mức phân bón và thuốc trừ sâu

  • Thị trường xuất khẩu không ổn định

  • Cạnh tranh cao giữa các nhà xuất khẩu của Việt Nam

  • Cạnh tranh với các nhà xuất khẩu khác



    1. Tiêu




      1. Sản xuất hồ tiêu của Việt Nam



Hiện nay, tiêu được trồng nhiều ở các vùng Đông Nam bộ (53%), Tây Nguyên (31%), Bắc Trung Bộ (7%), Duyên hải miền Trung (7%) và Đồng bằng sông Cửu Long (2%). Các vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên có ưu thế về đất, cho năng suất cao, còn các vùng tiêu ở Đồng bằng sông Cửu Long (Phú quốc) và Bắc Trung bộ lại có ưu thế về khí hậu giúp tiêu có hạt chắc và hương vị đặc trưng.

Trong những năm 90, diện tích tiêu tăng với tốc độ trung bình 13%/năm. Cùng với tốc độ tăng về diện tích, năng suất cũng tăng đáng kể, trung bình 7%/năm. Cho đến tháng 6/2003, tổng diện tích trồng tiêu tại Việt Nam đạt khoảng 48,800 ha, trong đó diện tích thu hoạch chiếm 70%. Sản lượng tiêu năm 2003 đã đạt trên 90 000 tấn và Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu tiêu lớn nhất thế giới. So với năm 1997, diện tích tiêu năm 2003 đã tăng gấp 4,9 lần và sản lượng tăng gấp 3,6 lần.

Hình 5.24. Xu hướng phát triển tiêu của Việt Nam

Hầu hết tiêu Việt Nam được thu hoạch để làm tiêu đen nên sơ chế tiêu ở nông hộ rất đơn giản. Tiêu chín và tiêu già được hái xuống, phơi nắng cho khô, tách hạt khỏi cành, loại bỏ các hạt lép, phân loại và cất giữ. Tiêu càng già thì sau khi phơi, tỷ lệ hạt chắc sẽ nhiều hơn và đều hơn. Trong những năm trước, nông dân thường thu hoạch khi quả còn rất xanh, nên hạt lép nhiều hơn. Trong những năm gần đây, nhiều hộ đã chú ý thu hoạch tiêu khi có nhiều quả chuyển sang màu vàng và chín đỏ nên chất lượng khá hơn. Tiêu chắc thường được đại lý trả giá cao hơn và doanh nghiệp xuất khẩu cũng thu được doanh thu cao hơn khi xuất tiêu đen chất lượng cao. Tiêu được thu hoạch trong mùa khô nên việc phơi tiêu rất thuận lợi. Việc bảo quản tiêu cũng tương đối dễ dàng, như bảo quản thóc. Các hộ sau khi phơi, cho tiêu vào bao bì hai lớp và để trên kệ gỗ khô ráo thì chất lượng tiêu có thể được giữ không thay đổi từ năm này sang năm khác.



Hiệu quả kinh tế của trồng tiêu

Tiêu là cây trồng đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, chủ yếu do phải dựng choái, dàn che và thiết kế hệ thống tưới tiêu. Chi phí cho lãi xuất đầu tư vào tiêu như vậy là rất lớn, gần bằng chi phí cho phân bón và công chăm sóc, thu hoạch tiêu ở những năm sau. Ở những nơi có điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi như Bình Phước, nếu tiêu không bị bệnh, năng suất rất cao, trung bình 3,5 tấn/ha và chi phí sản xuất chỉ 9 triệu/tấn tiêu. Ở nơi năng suất thấp, khoảng 2 tấn/ha thì chi phí đơn vị cao hơn nhiều, khoảng 16 triệu/tấn tiêu.

Bảng 5.16. Chi phí đầu tư và sản xuất tiêu

Các khoản chi phí cho 1 ha

Chi phí (tr. đồng)

Đầu tư­ ban đầu

157,6

Mua đất, khoan giếng, lắp đặt hệ thống t­ới, mua nọc chết

139,2

Phân bón cho 2 năm đầu

10,7

Chi phí lao động trong 2 năm đầu

7,7

Lãi xuất

9%/năm

Chi phí cho các năm sau

16,3

Chi phí phân bón

11,7

Chi phí lao động (chăm sóc & thu hái)

4,6

Năng suất từ năm 3 đến năm 10

3,5 tấn/ha*

Chi phí cho 1 tấn tiêu

9 tr./tấn

*Năng suất ở Bình phước, Gia Lai tương đối cao so với các vùng khác.

Nguồn: Điều tra của Trung tâm Tin học, 2003.

Dựa trên các chỉ số đầu tư và chi phí ở bảng trên, nếu một hộ trồng tiêu từ năm 1995 và các điều kiện trồng trọt tốt, cho năng suất 1.5 tấn năm ba tuổi, 2.5 tấn năm 4 tuổi, 3.5 tấn năm 5 tuổi và 4 tấn các năm sau đó cho đến năm 10 tuổi, lợi nhuận của đầu tư trồng tiêu là 40%/năm, cao hơn lợi nhuận của cà phê (30%). Điều này giải thích vì sao từ những năm 1995, 1996, người dân Bình phước đã chặt cà phê để trồng tiêu trước và ngay sau khi giá cà phê giảm. Những người may mắn trồng tiêu từ năm 1995 và bán được giá cao những năm sau đó (1997-2000) thì thời gian hoàn vốn rất nhanh, chỉ mất 4 năm và những năm sau chỉ lo đầu tư phân bón và công lao động để thu lợi nhuận. Lợi nhuận cao cũng giải thích được tại sao họ có tiền để mua nước xe téc tưới vào năm 1998 khi có hạn.



      1. Kênh tiêu thụ tiêu

Thu gom được chia làm hai cấp: người thu gom và đại lý thu gom. Người thu gom thường đi thu gom tại các hộ hoặc có điểm thu gom đặt trong vùng sản xuất, gần ngay với các hộ trồng tiêu. Mỗi người thu gom tiêu từ các hộ gần đó, trong phạm vi khoảng 2-3 km. Quy mô thu gom do đó nhỏ, vào thời điểm thu hoạch rộ cũng chỉ mua được 3-4 tạ/ngày, nơi thu gom nhiều cũng chỉ 5-7 tạ/ngày. Thời điểm thu mua nhiều nằm trong khoảng tháng 2 đến tháng 4.

Hình 5.25. Kênh tiêu thụ hồ tiêu của Việt Nam

.

Nguồn: Dựa theo điều tra thực địa, 2003

Ở mức độ thu gom trực tiếp này, tính cạnh tranh rất cao. Trước kia, các cơ sở thu gom chủ yếu nằm ở trung tâm thị trấn, nhưng sau một thời gian cạnh tranh, họ chuyển vào gần nông hộ hơn để mua được nhiều hơn. Ở Trung tâm chỉ còn lại các đại lý lớn thu gom tiêu từ các cơ sở nhỏ. Một xã có rất nhiều người thu gom, đặt cơ sở cách nhau không xa. Như ở xã An Phú, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước, có đến 20 cơ sở thu gom nhỏ cố định, chưa kể người đi thu mua tận nhà của người trồng tiêu.

Các cơ sở nhỏ không mất chi phí vận chuyển cũng như chi phí thuế kinh doanh do họ không đăng ký doanh nghiệp. Thông thường nông dân tự chuyển tiêu đến bằng xe máy và vào cuối ngày, họ có xe của cơ sở thu gom lớn đến gom hàng.

Các cơ sở thu gom này cũng cho nông dân vay tiền mua vật tư. Lượng cho vay khoảng 1-5 triệu/hộ, phụ thuộc vào sản lượng tiêu của hộ. Một cơ sở cho 4-5 hộ vay. Chỉ có khoảng 50% số hộ vay bán lại tiêu cho cơ sở để trừ tiền. Thường, các cơ sở không lấy lãi và mua với giá mua thông thường để lấy nguồn cung hàng ổn định. Giá mua là giá khi giao hàng và thoả thuận không có hợp đồng chính thức, chỉ giao ước với nhau. Hiện tượng bán cả vườn tiêu và chạy làng cũng có, như năm 2003, có 3 trường hợp/xã.

Các cơ sở thu gom lớn có ít nhất 3-4 bạn hàng là cơ sở thu gom nhỏ thường xuyên cung cấp tiêu. Ngoài ra, họ thu mua được tiêu của những người bán không thường xuyên và cũng mua trực tiếp từ nông dân. Trong mùa tiêu, mỗi ngày họ thu mua ít nhất 2 tấn tiêu. Họ có xe ô tô và khi gom đủ 1 chuyến xe (8-9 tấn) là có thể bán. Đối tượng khách hàng thường là đơn vị chế biến hoặc xuất khẩu. Điểm bán và thời điểm bán của các cơ sở này thường không cố định, tuỳ theo phán đoán của họ và biến động của thị trường. Tuy nhiên, họ không găm tiêu lâu, thường bán nhanh để quay vòng vốn. Lãi trung bình của các cơ sở này chỉ khoảng 50đ/kg.



      1. Xuất khẩu

Tiêu sản xuất ra hầu hết được xuất khẩu ra thị trường thế giới. Hiện nay, tiêu được xếp vào nhóm hàng nông sản có khả năng cạnh tranh của Việt Nam và là một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm. Tổng sản lượng xuất khẩu liên tục tăng và tăng nhanh trong giai đoạn 1998-2004, từ 15.100 tấn lên trên 100.000 tấn.

Các doanh nghiệp hiện nay được tự do xuất khẩu. Cho đến nay có khoảng trên 70 doanh nghiệp xuât khẩu hồ tiêu, trong đó phần lớn các doanh nghiệp xuất tiêu nguyên liệu chất lượng thường (FAQ), một số ít các doanh nghiệp nước ngoài xuất tiêu chất lượng cao (ASTA). Đã có doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu tiêu thành phẩm với thương hiệu Việt Nam sang các siêu thị nước ngoài như EU, Mỹ.

Hình 5.26. Lượng và kim ngạch xuất khẩu tiêu của Việt Nam 1992-2004

Việt Nam xuất khẩu tiêu sang 40 nước trên thế giới, trong đó các nước Châu Âu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu tiêu sang Châu Âu chiếm tỷ trọng lớn nhất với gần 50%, sau đó là Mỹ (25%), các nước Châu á (12.6%) và Trung Đông (9.6%).



Hình 5.27. Thị trường XK tiêu VN, 2003

Hình 5.28. Thị trường XK tiêu VN, 2004





Nguồn: Tổng cục Hải quan

Trước năm 2000, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu tiêu sang các nước Châu á, nhất là Singapore. Tuy nhiên, gần đây các nhà xuất khẩu tiêu đã chủ động mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường khác như Mỹ, Đức, Hà Lan, Nga, Tiểu vương quốc Ả rập. Sự đa dạng hoá thị trường giúp các nhà xuất khẩu ngày càng tăng lượng xuất khẩu thúc đẩy sản xuất trong nước và giảm sự rủi ro nếu tập trung vào một số thị trường lớn (như trường hợp của chè khi chỉ tập trung vào thị trường I-rac.

Hình 5.29 Thị trường xuất khẩu tiêu Việt Nam , 1996-2002

Việt nam ngày càng hình thành phát triển các công ty xuất khẩu tiêu lớn. Năm 2003 có khoảng 73 công ty xuất khẩu tiêu, nhưng 10 công ty xuất khẩu lớn nhất chiếm 50% tổng lượng tiêu xuất khẩu (Thống kê Hải quan, 2003). Trong các công ty lớn này, Intimex Tp HCM là công ty xuất nhiều nhất, sau đó là EDF Man, Harriss Freeman, Phúc Sinh, Petrolimex, Cty xuất nhập khẩu Hà Nội, Cty Thanh Hà, Vina Harris, Olam.

Hầu hết các công ty nước ngoài được thành lập trong những năm gần đây khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu nhiều tiêu, như EDF man và Harris Freeman thành lập năm 1998, Olam thành lập năm 2003. EDF man là công ty của Hà Lan, Harris Freeman là công ty của Mỹ và Olam là công ty của Singapore đại diện cho các nước nhập khẩu tiêu lớn trên thế giới. Các công ty này đều có dây chuyền chế biến tiêu tiêu chuẩn ASTA. Sự phát triển các công ty này giúp mở rộng các thị trường mới nhất là khu vực các nước Châu âu.

Bảng 5.17. Thị trường xuất khẩu tiêu Việt Nam năm 2004






Lượng (tấn)

% lượng

Giá trị (000USD)

% giá trị

Mỹ

18841

24.2

27328.2

25.0

Đức

10812

13.9

14786.3

13.5

Hà lan

6639

8.5

10626.1

9.7

Tiểu vư­ơng quốc Arập thống nhất

7990

10.3

10426.1

9.6

Xinh ga po

4968

6.4

6806.2

6.2

Liên bang Nga

5022

6.4

6237.2

5.7

Ba lan

2831

3.6

3944.0

3.6

Thổ nhĩ kì

2973

3.8

3693.4

3.4

Ucraina

2460

3.2

2925.5

2.7

Tây ban nha

1816

2.3

2709.7

2.5

Italia

1591

2.0

2528.9

2.3

Pháp

1403

1.8

2008.9

1.8

Anh

1314

1.7

1841.0

1.7

Malaixia

1051

1.3

1666.4

1.5

Phi lip pin

1354

1.7

1596.7

1.5

Total

77898

100

109134.4

100

Nguồn: Tổng cục Hải Quan

      1. Đánh giá khả năng cạnh tranh

Với tốc độ phát triển mạnh, hiện nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu tiêu đen nhất nhì thế giới. Tỷ tệ tiêu của Việt Nam trong tổng giá trị thương mại thế giới tăng liên tục từ dưới 5% năm 1990 lên trên 26% năm 2003/2004.

Hình 5.30. Tỷ lệ xuất khẩu tiêu Việt Nam trên tổng thế giới (% giá trị)



Nguồn: FAO

Trong khi đó, tỷ trọng tiêu xuất khẩu của các nước khác như Ấn Độ, Indonesia có xu hướng giảm xuống. Hiện nay, tỷ trọng tiêu xuất khẩu của Ấn Độ chỉ đạt trên 5% năm 2004 so với trên 15% đầu những năm 1990. Việc tăng trường và xuất khẩu mạnh trong thời gian qua cho thấy, Việt Nam là nước có lợi thế về xuất khẩu tiêu và đây thực sự trở thành mặt hàng nông sản mũi nhọn.

Nghiên cứu hiệu quả xuất khẩu tiêu năm 203/2004 cho thấy, với mực giá thành tại thời điểm nghiên cứu thì xuất khẩu tiêu mang lại lợi nhuận khá tốt. Giá xuất khẩu tiêu của Việt Nam cao hơn so với giá thành cuả các loại tiêu kể cả tiêu ASTA.

Hình 5.31. Giá thành chế biến một số loại tiêu đen 2003/04



Hộp 5.1. Doanh nghiệp Tấn Hưng

Công ty Thương Mại Dịch Vụ Tấn Hưng là một công ty tư nhân bắt đầu thành lập từ tháng 5/1995 do bà Lê Thị Giàu là giám đốc công ty. Tổng nguồn vốn kinh doanh hiện nay là 50.000.000.000 đồng (50 tỷ đồng) và có 500 nhân viên.

Công ty Tấn Hưng là nhà sản xuất, xuất nhập khẩu các mặt hàng: như phân bón, gạo, tiêu điều, cà phê. Công ty tổ chức đầu tư thu mua gạo, tiêu, điều, cà phê từ các nơi để bán cho thị trường nội địa và xuất khẩu ra nước ngoài, thu ngoại tệ về cho đất nước.

Hồ tiêu là mặt hàng công ty mới kinh doanh từ tháng 9 năm 2003. Công ty đã xuất khẩu hồ tiêu đi Mỹ(boston, Losangeles), Hà Lan dưới dạng chế biến. Công ty đã xuất khẩu 30 tấn tiêu đen được sản xuất theo dây chuyền công nghệ sạch cho Công ty Federal Investment Group (Mỹ). Với các mức giá là:



  • Tiêu trắng đóng trong chai nhựa 90g giá CNF: 0,48USD/chai

  • Tiêu đen dung trọng > 450g/L và độ ẩm < 12,5% giá CNF: 0,98USD/chai 300 g

  • Tiêu đen dung trong >530g/L với độ ảm <12,5% giá CNF: 0,65USD/chai 200 g

Công ty Federal Investment Group đã đồng ý bao tiêu trên 80% sản phẩm tiêu sạch của công ty Tấn Hưng. Đầu năm 2004 công ty dự định xuất trưc tiếp sang các siêu thị ở Boston, Losangeles khoảng 20 tấn tiêu đóng hộp đã qua chế biến.

Với công suất chế biến 2 tấn hạt tiêu /giờ, mỗi năm Công ty Tấn Hưng có thể chế biến trên 10.000 tấn năm tiêu sạch, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 15 triệu USD.

Dây chuyền sản xuất tiêu sạch này do Công ty Sinco chế tạo, có xử lý vi sinh trước khi đóng gói. Qua thử nghiệm chất lượng, hạt tiêu Tấn Hưng đạt tiêu chuẩn xuất vào thị trường châu Âu và Mỹ.

Thủ tục xuất khẩu hồ tiêu sang Mỹ cũng giống như các mặt hàng khác nhưng ở đây chỉ khác là phải đăng ký với tổ chức Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA-Food and drug administration) và phải có chứng thư xuất xứ hàng hóa.

Nguồn: Trung tâm Tin học, 2003.


Khả năng cạnh tranh của tiêu thể hiện rõ hơn khi phân tích chỉ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC). Phân tích chỉ số DRC cho thấy, DRC cuả tiêu năm 2004 là khoảng 0.7, thấp hơn 1. Và điều này là dấu hiệu quan trọng cho thây Việt Nam có khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu tiêu và dù vẫn thấp hơn điều.

Hình 5.32. Chỉ số DRC của tiêu và một số nông sản khác năm 2004





      1. Phân tích SWOT

Điểm mạnh

  • Chi phí sản xuất thấp

  • Năng suất cao

  • Có kinh nghiệm sản xuất tiêu đen

  • Thị phần xuất khẩu lớn

  • Xuất hiện một số nhà xuất khẩu lớn

  • Phát triển thị trường xuất khẩu tiêu trực tiếp tới thị trường thế giới

Điểm yếu

  • Đất đai bị phân tán và hạn chế

  • Trồng tiêu đòi hỏi nhiều vốn

  • Chất lượng thấp

  • Cạnh tranh cao

  • Kỹ thuật chế biến kém

  • Tổ chức thu mua chưa tốt

Cơ hội

  • Thị trường đa dạng

  • Khôi phục thị trường xuất khẩu

Thách thức

  • Bệnh tật

  • Giá cả không ổn định

  • Cạnh tranh cao

  • Hạn chế về nguồn nước



    1. Dứa




      1. Tình hình sản xuất dứa của việt nam



Trong những năm trước đây, sản xuất dứa ở Việt Nam chưa có sự phát triển mạnh. Trong suốt thập kỷ 80 diện tích dứa luôn ở mức xấp xỉ 38-39 ngàn ha/năm, sản lượng đạt khoảng 300-350 ngàn tấn/ năm. Trong giai đoạn 1991-1997, diện tích dứa có sự giảm sút đáng kể, từ 39 ngàn ha (năm 1995) xuống chỉ còn 26 ngàn ha (năm 1997). Nguyên nhân chủ yếu là do mất thị trường xuất khẩu chính là Liên Xô và các nước Đông Âu cũ ảnh hưởng xấu tới sản xuất trong nước.

Từ năm 1997 đến nay, do sự năng động của các công ty trong việc khai thác, tìm kiếm thị trường và nhờ các chính sách mở của nhà nước trong việc tăng cường phát triển thương mại với bên ngoài nên thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng và ổn định. Nhu cầu nhập khẩu dứa từ Việt nam của các nước bên ngoài nhất là khu vực Châu âu, Mỹ ngày càng tăng và đây chính là tiền để tạo ra sự phục hồi sản xuất dứa trong nước. Diện tích dứa tăng từ 26 ngàn ha năm 1997 lên xấp xỉ 38 ngàn ha năm 2002. Đặc biệt nhờ các chính sách hỗ trợ phát triển dứa về đầu tư, nhập giống có năng xuất cao (giống cayen) lên năng suất dứa của Việt nam ở một số vùng có những tiến bộ đáng kể, làm sản lượng tăng liên tục trong thời gian gần đây. Trong 5 năm gần đây (1997-2002), sản lượng dứa cả nước tăng bình quân 9.6%/năm, đạt xấp xỉ 350 ngàn tấn năm 2002. Đây thực sự là bước tăng trưởng đáng kể của ngành dứa Việt Nam, và góp phần vào phát triển sản xuất nông hộ, tạo thu nhập, việc làm cho người sản xuất và đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu nông sản.

Hình 5.33. Diện tích và sản lượng dứa Việt Nam

So sánh sự phát triển dứa với một số loại trái cây khác cho thấy, trong hơn thập kỷ vừa qua, dứa là cây có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Một số cây ăn quả khác như cây có múi, nhãn vải chôm chôm, xoài, do có thị trường cả trong và ngoài nước khá lớn lên có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Trong giai đoạn 1990-2001, nhãn, vải, chôm chôm có sự tăng trưởng cao nhất về diện tích, với tốc độ bình quân 33%/năm. Từ năm 1994 đến nay, diện tích các loại cây này tăng gấp 4 lần. Diện tích của nhóm cây ăn trái này chiếm 26% tổng diện tích cây ăn quả của Việt Nam. Vải chủ yếu được trồng ở miền Bắc, chôm chôm trồng ở miền Nam, nhãn thì trồng cả miền Nam và miền Bắc.

Tiếp theo là các cây có múi (cam, cham, bưởi quýt), với tốc độ tăng trưởng dù thấp hơn nhưng cũng rất cao, với bình quân 17%/năm. Trong khi đó, diện tích chuối hầu như không tăng, đây cũng là trái cây tiêu thụ trong gia đình khá lớn.

Hình 5.34. Biến động diện tích một số loại cây ăn quả (000ha)



Trong các vùng của cả nước, Đồng bằng sông cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất cây ăn qủa chủ yếu của cả nước. Diện tích cây ăn quả của vùng chiếm 35% tổng diện tích toàn quốc. Đối với cây dứa, Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng sản xuất chính. Năm 2002, diện tích dứa của vùng đạt trên 20 ngàn ha chiếm 55,6% tổng diện tích dứa của cả nước. Các tỉnh trồng dứa chính của ĐBSCL là Kiên Giang với khoảng 8700 ha (chiếm 43% diện tích của vùng). Tiếp theo là Tiền Giang với 6870 ha dứa, chiếm 35% diện tích vùng. Do chiếm tỷ trọng khá lớn về diện tích lên, ĐBSCL chiếm tới 65,9% sản lượng cả nước. Tỷ trọng sản lượng cao hơn diện tích cho thấy, năng suất trung bình của vùng lớn hơn so với năng suất bình quân của cả nước.

Hiện nay nước ta đang trồng 3 nhóm giống dứa chính là: cayen, Queen và Spanish. Phổ biến nhất và chiếm tỷ trọng lớn về diện tích (khoảng 90%) vẫn là 2 giống dứa truyền thống là dứa Queen (chiếm đa số) và dứa Spanish. Các giống dứa này ngọt, màu vàng và thơm nhưng trọng lượng quả nhỏ nên năng suất thấp, không thích hợp trong chế biến công nghiệp nhưng lại phù hợp cho việc tiêu thụ tươi. Giống Cayen cho năng suất cao, trọng lượng quả to, mắt nông và theo hàng, thịt quả rắn rất thích hợp với chế biến công nghiệp để xuất khẩu. Giống dứa Cayen trồng ở nhiều địa phương của nước ta đều sinh trưởng tốt và cho trái lớn hơn dứa Queen. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi cho thấy, ở Tiền Giang, do điều kiện tự nhiên không thích hợp nên việc sự lý ra hoa cho trái đối với giống cayen khó, năng suất dứa không cao.

Theo báo cáo của Cục Nông nghiệp, đến nay, thống kê trong cả nước mới trồng được 3.600 ha dứa Cayen (chưa đến 10% tổng diện tích dứa cả nước). Trong mấy năm gần đây, ngân sách Nhà nước Trung ương và các tỉnh đã chi ra hơn 90 tỉ đồng để nhập khoảng 1.200 triệu chồi dứa Cayen và canh tác trên 3.227 ha. Tính mỗi ha dứa Cayen trồng mới chi hết 29,36 triệu đồng tiền giống nhập ngoại.

Hiện nay, Thái lan, Philipin, Brazil vẫn là nước sản xuất dứa nhiều nhất trên thế giới. Năm 2003, sản xuất dứa của Thái lan chiếm 11.5% lượng dứa toàn cầu, đạt khoảng 1,7 triệu tấn. Sản xuất dứa của Philipin chiếm tỷ trọng tương đương, khoảng 11,2% lượng dứa trên thế giới. Các nước tiếp theo là Trung Quốc (9.5%), Brazil (9%). Trong những năm gần đây, Costa Rica phát triển dứa khá nhanh nhằm đáp ứng khả năng tiêu thụ rất lớn của thị trường Mỹ (chủ yếu dứa tươi). Đến nay, sản lượng dứa của Costa Rica chiếm 7.2% lượng dứa toàn cầu. Đây cũng là nước cung cấp chủ yếu dứa tươi cho thị trường Mỹ và thế giới.

So với các nước trên thế giới, thì Việt Nam chỉ là nước sản xuất dứa nhỏ. Sản lượng dứa của Việt Nam chỉ chiếm 2,4% lượng dứa toàn cầu. Trong những năm qua, sản lượng dứa của Mỹ giảm liên tục. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1990-2003, diện tích dứa của Mỹ giảm bình quân xấp sỉ 4%/năm. Do giảm liên tục nên hiện nay, Mỹ chỉ chiếm khoảng 2% lượng dứa trên thế giới.

Hình 5.35. Tỷ trọng sản xuất dứa của một số nước trên thế giới (%)



      1. Xuất khẩu dứa

Xuất khẩu rau quả Việt Nam

Những năm vừa qua, thị trường rau quả có xu hướng phát triển nhanh. Xu hướng hội nhập cũng tạo điều kiện mở rộng thị trường và là điều kiện tốt cho sản xuất phát triển.

Trước năm 1991, rau quả của Việt Nam chủ yếu là ở Liên Xô cũ và thị trường các nước XHCN (chiếm 98% sản lượng xuất khẩu) thị trường này nhỏ bé và không phát triển. Năm 1995 xuất khẩu rau quả Việt Nam mới chỉ đạt con số 56,1 triệu USD nhưng đến năm 2001 đã đạt mức kỷ lục với giá trị 330 triệu USD, tăng gấp gần 6 lần năm 1995 và 2,2 lần năm 2000, chiếm 2,2% trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2001. Tuy nhiên, từ năm 2002 đến nay kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam giảm đáng kể, năm 2002  giá trị xuất khẩu rau quả chỉ đạt 200 triệu USD, giảm 39,4% so với năm 2001 và năm 2003 đạt 152 triệu USD, giảm 24,4% so với năm 2002.

Hình 5.36. Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam, 1991-2004 (000 USD)



Hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm rau quả đi trên 50 nước. Các mặt hàng xuất khẩu chính như xoài, dứa, chuối, nhãn vải, thanh long, măng cụt và các loại nước quả. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Gần đây chúng ta mở rộng sang một số nước Châu âu như Đức, Nga, Hà Lan và nhất là Mỹ. Xuất khẩu nông sản nói chung và rau quả nói riêng sang Mỹ đã tăng lên mạnh mẽ khi hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Mỹ chiếm gần 10% tổng kim ngạch.

Hình 5.37. Thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam, năm 2000 và 2004

Năm 2000

Năm 2004





Nguồn: AIE, Đánh giá khả năng cạnh tranh nông sản Việt Nam, 2005

Trong những năm qua, Trung Quốc luôn là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên gần đây, việc xuất khẩu sang Trung Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn, kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh nhất là từ năm 2000. Mặc dù những năm gần đây, xuất khẩu sang các nước khác được đẩy mạnh nhưng do xuất khẩu sang Trung Quốc giảm mạnh làm kim ngạch xuất khẩu chung giảm xuống. Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc giảm từ 140 triệu USD năm 2001 xuống chỉ còn 25 triệu USD năm 2004.

Hình 5.38. Kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc



Điều này cho thấy nếu xu hướng này tiếp tục xảy ra, xuất khẩu rau quả của Việt Nam sẽ ảnh hưởng rất mạnh và nếu Việt Nam không đa dạng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác thì ngành rau quả sẽ còn gặp nhiều khó khăn



Xuất khẩu dứa

Các sản phẩm dứa của Việt Nam bao gồm dứa tươi, dứa chế biến (dứa hộp, nước dứa, dứa đông lạnh). Đối với dứa tươi, hầu hết được tiêu thụ ở thị trường nội địa dưới dạng ăn tươi, làm thực phẩm, làm nguyên liệu cho nhà máy chế biến ... việc xuất khẩu dứa tươi còn gặp nhiều trở ngại, trong đó nổi lên 2 vấn đề đáng quan tâm đó là bảo quản sau thu hoạch và vận chuyển. Đối với dứa chế biến, xuất khẩu là chính, thị trường nội địa chiếm tỷ trọng không đáng kể (khoảng 2 -5% trong tổng sản lượng dứa chế biến).

Dứa là nông sản xuất khẩu của Việt Nam từ khá lâu. Ngay từ những năm 70, Việt nam đã xuất khẩu các sản phẩm dứa hộp sang thị trường các nước Liên xô cũ và các nước Đông Âu. Hiện nay, ngoài khu vực thị trường truyền thống này, chúng ta đã mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm dứa hộp và nước dứa ra nhiều nước ở khắp nơi trên thế giới với nhiều sản phẩm rất đa dạng, kể cả các nước Tây âu (Đức, Hà lan, Anh, Italia), Bắc Mỹ, Châu á (Nhật, Đài Loan, Singapore), Trung Đông, châu Phi...

Những sản phẩm dứa xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là dứa hộp và nước dứa, Việt Nam xuất khẩu rất ít dứa tươi. Tình hình xuất khẩu dứa của Việt Nam những năm qua rất thăng trầm đối với các loại sản phẩm khác nhau.

Hình 5.39. Xuất khẩu dứa của Việt Nam 1994-2002 (USD)



Hiện nay, hầu hết các công ty của Việt Nam xuất khẩu dứa của Việt Nam xuất theo giá FOB, xuất tại cảng Việt Nam. Theo khảo sát các công ty xuất khẩu thì có tới trên 95% lượng dứa của Việt nam xuất theo hình thức này. Chỉ có một lượng nhỏ dứa được xuất khẩu theo giá CF (có thêm cước vận chuyển, không có bảo hiểm). Lượng dứa này được xuất sang Châu âu (cảng Rotendam của Hà Lan) sau đó được phân phối đi các thị trường trong khu vực.

Gần đây, chúng ta đã tránh được việc xuất khẩu qua trung gian và theo khảo sát Tổng công ty xuất khẩu rau quả I thì hiện nay chúng ta xuất khẩu trực tiếp trên 95%. Chỉ có một lượng nhỏ, chúng ta xuất qua một số nhà nhập khẩu như Thái Lan, Singapore.

Hiện nay, hầu hết các nhà nhập khẩu đến các công ty khảo sát vùng nguyên liệu, công nghệ, nhà xưởng sau đó ký kết hợp đồng và đặt hàng. Một số thị trường yêu cầu các công ty phải có tiêu chuẩn HACCP hay TROSHER thì hộ mới nhập khẩu. Đây là yêu cầu có thể nhập khẩu hàng hóa chế biến vào nước họ.


      1. Đánh giá khả năng cạnh tranh

Cạnh tranh mạnh trong khối ASEAN

Trong tổng sản lượng dứa sản xuất của thế giới có khoảng 60% dùng để xuất khẩu dưới các dạng dứa chế biến và dứa tươi nhưng chủ yếu là dứa chế biến, trong đó dứa hộp có sản lượng lớn nhất (trên dưới 1 triệu tấn/năm), Châu á là nơi xuất khẩu lớn nhất chiếm khoảng 70%, với các cường quốc về dứa như Thái Lan, Philipin Indonesia, Malaysia.

Các nước xuất khẩu dứa hộp chủ yếu trên vẫn là các nước Châu á như Thái Lan, Philipin, Indonesia. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu dứa hộp của Thái Lan đạt gần 210 triệu USD, của Philipin đạt trên 70 triệu USD. Một số quốc gia khác phát triển dứa mạnh trong những năm gần đây như Kynea và Trung Quốc. Mấy năm gần đây, Trung Quốc nổi lên như một sự cạnh tranh lớn về dứa đối với các nước xuất khẩu như Thái Lan, Philipin và Việt Nam. Chính vì vậy, so với năm 2001, thì lượng xuất khẩu dứa hộp của các nước xuất khẩu chính như Thái Lan, Philipin giảm mạnh (khoảng 100 ngàn tấn) nhưng lượng xuất khẩu của Trung quốc vẫn tăng xấp xỉ 2,4 lần, đạt 40 ngàn tấn.

Hình 5.40. Xuất khẩu dứa hộp các nước trên thế giới năm 2002(000 USD)



Đứng đầu hiện nay về xuất khẩu dứa hộp trên thế giới vẫn là Thái Lan. Theo số liệu năm 2002, tỷ trọng xuất khẩu dứa hộp của Thái Lan chiếm gần 40% lượng xuất khẩu trên thế giới, đạt 385 ngàn tấn. Tiếp theo là Philipin, với 14,4% thị phần thế giới về xuất khẩu dứa hộp với gần 200 ngàn tấn. Philipin là nước sản xuất và xuất khẩu nhất nhì trên thế giới. Hiện nay không như Thái Lan, chủ yếu là xuất khẩu dứa hộp, Philipin còn xuất khẩu một lượng lớn dứa tươi ra thị trường thế giới. Đối với một số thị trường nhập khẩu, như thị trường Mỹ thì tỷ trọng dứa (kể cả dứa hộp) của Philipin cao hơn nhất nhiều so với Thái Lan.

Indonesia cũng là nước xuất khẩu dứa hộp lớn, chiếm 14% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dứa hộp trên thế giới. Bên cạnh đó, phải kể đến Kenya, so với Việt Nam (chỉ chiếm khoảng 1%) thì đây cũng là nước xuất khẩu lớn hơn nhiều.

Hình 5.41. Tỷ trọng xuất khẩu dứa hộp trên thế giới năm 2002



Là những nước xuất khẩu dứa từ rất lâu nên thị trường của các Thái Lan, Philipin và Malaysia rất đa dạng, gồm cả các nước Châu âu, Châu Mỹ, Châu Úc và cả Châu á. Nghiên cứu về thị phần xuất khẩu dứa của các quốc gia này cho thấy, nước nhập khẩu lớn nhất của cả ba nước chính là thị trường Mỹ. Điều này cho thấy sự khó khăn cũng như mức độ cạnh tranh rất lớn đối với Việt Nam, khi chúng ta muốn xâm nhập, tạo uy thế trong thị trường này.

Hình 5.42. % xuất khẩu dứa chế biến của Thái Lan,Philipin và Malaysia

Thái Lan là nước xuất khẩu dứa hàng đầu trên thế giới. Đối với một số chủng loại xuất khẩu như dứa tươi thì Thái Lan kém Costa Rica và Philipin nhưng với một số mặt hàng khác như dứa hộp, dứa đông lạnh và dứa nước thì Thái Lan luôn là những nước đứng đầu. Ngoài thị trường Mỹ thì Đức là thị trường dứa lớn thứ hai của Thái Lan. Trong mấy năm gần đây thì Đức cũng là thị trường rất lớn của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt nam luôn phải chịu sự cạnh tranh rất lớn từ Thái Lan, không chỉ với cao su, gạo, mía đường mà đối với cả rau quả và sản phẩm dứa xuất khẩu. Nhìn chung, Thái Lan luôn có sự đi trước, có những tiến bộ và ưu thế hơn so với Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường thế giới và ngay với Mỹ cũng rất rộng lớn, chính vì thế mà nếu biết thu hút khách hàng, nâng cao chất lượng, hạ giá thành thì Việt Nam vẫn có thể khai thác thị trường Mỹ và các thị trường khác. Trong mấy năm gần đây, xuất khẩu dứa của Thái Lan luôn đạt mức khá cao, từ 250-300 triệu USD (gấp khoảng 50 lần so với Việt Nam).



Giá thành sản xuất và giá chào hàng cao

Bên cạnh một số nông sản như cà phê, chè, gạo…giá xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá quốc tế nhưng đối với một số loại rau quả thì giá bán của Việt Nam lại cao hơn so với một số nước khác. Hiện nay, do giá thành cao nên Việt Nam thường phải chào hàng cao hơn so với Thái Lan và Philipin. Trung bình giá dứa hộp xuất khẩu của Việt Nam xuất sang Mỹ thường cao hơn so với giá xuất khẩu của Thái Lan từ 5-10%. Chi phí dứa của Việt Nam cao hơn Thái Lan là do ở cả 3 khâu nguyên liệu, chế biến và vận chuyển. Thứ nhất, nguyên liệu dứa của Việt Nam cao hơn Thái Lan 15%. Thứ hai, chi phí chế biến và vận chuyển của Việt Nam cao hơn Thái Lan trên 40%9. Điều này cho thấy nếu chung ta muốn cạnh tranh với Thái Lan, thì các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng mà làm sao giảm giá thành xuống hơn nữa.

Hình 5.43. Giá dứa hộp xuất khẩu Việt Nam- Thái Lan (USD/tấn)

Theo điều tra khảo sát Tổng Công ty rau quả I, chi phí chế biến dứa khúc trung bình xuất khẩu năm 2003 của Công ty trên 8,3 triệu đồng/tấn và có sự giao động giữa các đơn vị trong tổng công ty. Trong khi đó, giá xuất khẩu trung bình năm 2003 là 548 USD/tấn, tương đương với khoảng 8,6 triệu đồng. Như vậy mỗi tấn trung bình nhà xuất khẩu lãi khoảng 10 USD.

Nhưng mức giá dứa xuất khẩu năm 2003 còn khá cao. Giá xuất khẩu dứa của Việt nam thường biến động khá cao tuỳ thuộc vào thời điểm, loại sản phẩm và tuỳ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Chính vì vậy ngay tại thời điểm đầu năm 2004, giá dứa khúc xuất khẩu sang Mỹ (F.O.B) xuống rất thấp, chưa đạt 500 USD/tấn. Ngoài ra chính sách thưởng xuất khẩu sang Mỹ của Chính phủ Việt Nam đối với các doanh nghiệp xuất khẩu không còn tiếp tục áp dụng nữa nên các công ty xuất khẩu còn bị lỗ. Họ vẫn phải bán cho nhà nhập khẩu để giữ mối hàng.

Bảng 5.18. Chi phí chế biến 1 tấn dứa khúc 20.0Z trong nước dứa năm 200310



TT

Khoản mục

Đơn vị

Chi phí

Tỷ trọng

(%)

1

NVLC

000đ

2430.5

29.1

2

Hộp sắt

000đ

3029.2

36.3

3

Năng lượng, điện

000đ

273.9

3.3

4

Khấu hao TSCĐ, dụng cụ

000đ

410.5

4.9

5

Lương, bảo hiểm

000đ

683.8

8.2

6

Chi phí chung

000đ

804.9

9.7

7

Nhãn

000đ

299.5

3.6

8

Hòm carton

000đ

248.6

3.0

9

Vận chuyển

000đ

78.0

0.9

10

Khác

000đ

80.2

1.0

11

Tổng chi

000đ

8339.1

100.0

12

Tổng chi

USD

538.0




13

Giá xuất khẩu

USD

548.0




14

Lãi

USD/tấn

10.0




Nguồn: Tổng Công ty Vegetexco

Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1
2006 -> Bé n ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n ng th n B¸o c¸o tæng quan ngµnh chÌ viÖt Nam

tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương