Bệnh bò điên (bse) là bệnh thần kinh gây tử vong ở bò trưởng thành, được ghi nhận đầu tiên ở Anh Quốc năm 1986. Đây là bệnh nhũn não truyền nhiễm hay bệnh do prion



tải về 448.43 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu12.01.2018
Kích448.43 Kb.
#35982
1   2   3
Hình. 2. Sau khi đầu đã được lấy ra khỏi cơ thể, bằng cắt lìa giữa đốt sống atlas và đốt sống occipital condyles của hộp sọ, đầu được đặt trên một giá đỡ, mặt dưới ngửa lên (A), với đầu chót của cuống não (medulla oblongata) nhìn thấy được qua lỗ chẩm (foramen magnum) (xem B, nhô ra từ hộp sọ). Dụng cụ (C) được chèn vào qua lỗ chẩm giữa màng cứng (dura mater) và hướng bụng/lưng (tùy theo tiếp cận chuyên môn) của hành tủy và mỏm trước, giữ cho phía lồi của dụng cụ sát vào xương sọ và di chuyển với xoay tròn hai bên. Chuyển động này sẽ cắt rời thần kinh gốc sọ mà không làm hư hại mô não. Dụng cụ được đưa vào sâu khoảng 7 cm theo chuyển động này và sau đó cắt chéo (tức là hướng đến phía bụng/lưng của cuống não, theo hướng đưa vào) để cắt và tách rời cuống não (với một số phần của tiểu não) khỏi phần còn lại của não. Dụng cụ này, được giữ ở góc hướng cũ, sau đó được kéo ra khỏi hộp sọ để dứt mô ra khỏi lỗ chẩm.

o Lấy mẫu cuống não trong giám sát chủ động để sử dụng cho các xét nghiệm nhanh

Việc lấy mẫu và xử lý mô não để dùng cho xét nghiệm nhanh sẽ được thực hiện một cách chính xác theo hướng dẫn của nhà cung cấp hay nhà sản xuất ra bộ kit hay trang bị xét nghiệm. Các chi tiết về phương pháp lấy mẫu và xử lý mẫu khác nhau giữa các phương pháp xét nghiệm, và phải không được thay đổi mà không có thông tin hỗ trợ của nhà sản xuất đối với phương pháp cải biến. Mẫu thích hợp cho xét nghiệm miễn dịch sẽ là nơi cách mấu hay cạnh mỏ quạ khoảng 1,0 cm đến sát với vị trí chính (Hình 3) để chứng minh các tích tụ PrPSc và cho đánh giá mẫu dùng cho các xét nghiệm nhanh. Việc chọn vị trí chính cần tính đến phương pháp xác nhận về sau. Ít nhất một lát cắt đôi của hành tủy, ở gần mỏm mỏ quạ sẽ được cố định cho kiểm tra hóa miễn dịch mô bào/mô bào (immunohistochemistry/histology). Việc cắt mẫu từ gốc hay mỏm hành tủy đến mấu mỏ quạ cho xét nghiệm nhanh không làm cản trở kiểm tra theo các phương cách mô bào hay IHC. Tuy nhiên, để thu được các mẫu tương đương cho xét nghiệm nhanh và xét nghiệm xác nhận, việc cắt mẫu bằng chia đôi hành tủy đến gần mấu mỏ quạ là thích hợp. Trong khi việc này dẫn đến mất khả năng đánh giá tính đối xứng của các biến đổi hình thành lỗ xốp, tiếp cận này ít cản trở đối với kiểm tra IHC mà quan trọng hơn. Tuy nhiên, nếu cắt đôi mẫu được áp dụng, cốt yếu là phải đảm bảo các vị trí mục tiêu là không bị hư hại trong cả hai phần.



Thí dụ, các phần hạch nhân của đường ẩn khuất (solitary tract) và các phần hạch nhân của sợi vận động của thần kinh giao cảm (vagus nerve) (các vùng mục tiêu cho các bệnh tích trên bò bị BSE) đều là nhỏ, và nằm tương đối gần với đường giữa (Hình 3). Nếu mô được lấy mẫu đã tự phân đến mức mà không thể định hướng cơ thể học được, có thể lấy dịch chất còn lại để xét nghiệm. Một kết quả dươgn tính trong các trường hợp này vẫn còn có giá trị, nhưng các kết quả âm tính không thể cho là con thú âm tính, và sẽ được diễn giải với cảnh giác và được báo cáo với chất lượng thích hợp.



Hình 3. Lát cắt ngang cuống não của bò ở mấu mỏ quạ (obex) tương ứng với các vị trí chính cho các chẩn đoán bằng mô bệnh học (histopathology) và hóa miễn dịch mô bào (immunohistochemistry) trong BSE. Các vị trí này chủ yếu là các hạch nhân của kênh tủy sống (spinal tract) của thần kinh sinh ba (trigeminal nerve) [2]; nhưng cũng là vị trí của hạch nhân vận động của thần kinh giao cảm (vagus nerve) [3]. Cho thấy rằng chất liệu lấy cho thực hiện xét nghiệm nhanh cũng phải bao gồm đại diện của các vùng này.

Việc chia đôi không chính xác sẽ dễ dàng dẫn đến mất đi hoàn toàn vùng mục tiêu cho xét nghiệm xác nhận, và làm giảm rõ rệt hiệu quả của chương trình giám sát. Thất bại trong lấy mẫu chính xác các vùng mục tiêu cũng có thể do sử dụng không chính xác các dụng cụ lấy mẫu. Do đó các tiếp cận này cần được áp dụng với chính sách rõ ràng và chương trình theo dõi để huấn luyện và đảm bảo chất lượng các phương pháp lấy mẫu. Do sự phân bố đến mục tiêu một cách đặc trưng của PrPSc, kích thước mẫu và vị trí sẽ như được mô tả trong bộ kit chẩn đoán, hoặc nếu không được chỉ định, thì ít nhất 0,5 g lấy từ các vùng mục tiêu cho mọi xét nghiệm xác nhận như chi tiết ở Hình 3. Các đặc điểm thi hành của một số xét nghiệm này có thể bị cản trở bởi quá trình tự phân, đặc biệt là do mất khả năng đảm bảo đủ các vùng mục tiêu trong mẫu lấy từ các vùng mục tiêu cho chẩn đoán như minh họa ở Hình 3.



Каталог: file.axd?file=2012

tải về 448.43 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương