Bảng 16. Dự báo nhu cầu lao động trong du lịch ở Quảng Trị thời kỳ đến 2030 4



tải về 1.55 Mb.
trang5/13
Chuyển đổi dữ liệu28.11.2017
Kích1.55 Mb.
#34727
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

3. Sản phẩm du lịch 


Quảng Trị là một trong những địa phương có tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc với các nhóm tài nguyên khác nhau như: tài nguyên du lịch lịch sử - cách mạng, tài nguyên du lịch biển đảo, tài nguyên du lịch sinh thái và cảnh quan, tài nguyên du lịch văn hóa - lịch sử,... Ngoài ra với vị trí địa lý chiến lược, Quảng Trị còn có tiềm năng phát triển du lịch biên mậu và du lịch thương mại - công vụ.

Tuy vậy cho đến nay hệ thống sản phẩm du lịch của Quảng Trị còn khiêm tốn, chưa thực sự khai thác tương xứng và hiệu quả các tài nguyên và tiềm năng phát triển du lịch.

Sản phẩm du lịch được khai thác mạnh nhất đối với thị trường nội địa là các dòng sản phẩm du lịch lịch sử - cách mạng, thăm lại chiến trường xưa, tri ân liệt sỹ.

Đối với thị trường khách quốc tế, sản phẩm du lịch được khai thác nhiều nhất là thăm chiến trường xưa và khu phi quân sự trong các tour DMZ. Thời gian trước, đây là sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút mạnh thị trường quốc tế, tuy nhiên những năm gần đây, sản phẩm này không còn được khai thác sôi động như trước. Một phần là do các thế hệ cựu chiến binh đã lớn tuổi. Một lý do không kém phần quan trọng là sản phẩm này chưa được đầu tư xây dựng thành một trải nghiệm liên hoàn, thống nhất có kịch bản và ý tưởng rõ ràng nhằm cung cấp cho khách du lịch một bức tranh tổng thể về khu vực phi quân sự vĩ tuyến 17 trong thời kỳ chiến tranh bao gồm các nội dung liên quan đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, các công trình lịch sử ở Đôi bờ Bến Hải, hàng rào điện tử Mc. Namara, chiến trường xưa, đường mòn Hồ Chí Minh,...

Những sản phẩm này tuy đã được khai thác phát triển tương đối tốt, nhưng vẫn chưa được xây dựng trong các chương trình du lịch hấp dẫn để có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Du lịch biên mậu là sản phẩm du lịch quan trọng và có lợi thế của Quảng Trị là cửa ngõ Hành lang kinh tế Đông - Tây qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, mới đây được bổ sung thêm cửa khẩu quốc tế La Lay. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh của một số cửa khẩu khác trong khu vực ở Hà Tĩnh và Quảng Bình thì dòng sản phẩm du lịch này của Quảng Trị cũng đối diện với những thách thức không nhỏ.

Du lịch biển đảo là một thế mạnh của Quảng Trị, thời gian qua tỉnh đã tập trung đầu tư, tuy nhiên việc đầu tư phát triển dòng sản phẩm này còn nhiều khó khăn. Một số tài nguyên du lịch biển đảo đặc biệt có giá trị như Cửa Tùng đã phát triển chưa thực sự phù hợp và đã mất dần sức hấp dẫn, hoặc như đảo Cồn Cỏ việc đầu tư khai thác phát triển còn gặp nhiều khó khăn.

Du lịch sinh thái đang còn ở dạng tiềm năng, mới chỉ dừng lại ở mức độ hết sức đơn giản như đi dã ngoại trong ngày tại một số khu vực tự nhiên như Rú Lịnh, Trằm Trà Lộc, suối nước nóng Klu,... chủ yếu phục vụ thị trường nội tỉnh với các hoạt động mang tính chất vui chơi giải trí, dã ngoại đơn thuần, thiếu thường xuyên.

Du lịch tìm hiểu văn hóa - lịch sử cũng có vị trí hết sức quan trọng đối với Quảng Trị, tuy nhiên mức độ đầu tư còn hết sức hạn chế. Dòng sản phẩm này vẫn chưa được hình thành một cách có hệ thống và chưa có được kết quả, hiệu quả và sức hấp dẫn tương xứng với tiềm năng, thế mạnh.

Quảng Trị cũng có những tài nguyên du lịch tâm linh hết sức có giá trị và mang tính đặc thù cao như Nhà thờ La Vang, Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang,... Tuy nhiên những tài nguyên du lịch này chưa được đầu tư phát triển thành những sản phẩm du lịch thực sự mà mới chỉ là các hoạt động hành hương, tôn giáo đơn thuần, do vậy vẫn chưa mang lại những hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực cho địa phương.


4. Hiện trạng hoạt động kinh doanh du lịch


Hoạt động kinh doanh du lịch trong thời gian qua, thể hiện trong các báo cáo năm của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị cho thấy:

- Lượng khách du lịch liên tục duy trì tăng trưởng qua các năm theo mọi chỉ tiêu (tổng lượng khách, khách quốc tế, khách nội địa, khách có lưu trú), khách du lịch tập trung cao nhất vào các dịp lễ hội 30/4 - 1/5, ngày Thương binh - Liệt sỹ 27/7, Lễ kiệu La Vang 13-15/8.

- Thu nhập du lịch từ khách du lịch liên tục tăng trưởng.

- Hệ thống khách sạn, cơ sở lưu trú cũng liên tục phát triển mạnh trong những năm qua.

- Hoạt động lữ hành phát triển tương đối mạnh, tuy nhiên hệ thống các doanh nghiệp lữ hành của Quảng Trị chưa lớn mạnh, chưa chủ động tiếp cận thị trường.

- Hệ thống các cơ sở lưu trú mặc dù đã phát triển nhanh trong những năm qua nhưng còn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng. Các khách sạn lớn, cao cấp còn rất ít và mới chỉ tập trung ở thành phố Đông Hà.

- Hoạt động kinh doanh ăn uống, vui chơi giải trí cũng chưa được phát triển tương xứng với đòi hỏi của thị trường.

- Hoạt động kinh doanh thương mại, bán hàng lưu niệm đã có những bước chuyển biến, tuy nhiên có thể thấy Quảng Trị chưa có các sản phẩm lưu niệm độc đáo, bản sắc có sức hấp dẫn; mua sắm của khách du lịch hiện nay chủ yếu tập trung vào các sản phẩm của Thái Lan mang tính chất điển hình của thương mại biên mậu với thị trường chủ yếu là khách du lịch nội địa.


5. Tổ chức không gian du lịch


Hiện nay hoạt động phát triển du lịch tại Quảng Trị chủ yếu tập trung ở các khu vực dọc các tuyến quốc lộ quan trọng như Quốc lộ 1A và Quốc lộ 9, tập trung tại các khu vực đô thị như thành phố Đông Hà, thị xã Quảng Trị, Lao Bảo, Khe Sanh và một số điểm ven biển như Vịnh Mốc, Cửa Tùng, Cửa Việt.

Không gian phát triển du lịch biển đảo chủ yếu tập trung tại khu vực Cửa Việt và Cửa Tùng.

Du lịch lịch sử - cách mạng phát triển dọc theo tuyến Đường 9, Đường Hồ Chí Minh, khu vực cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, địa đạo Vịnh Mốc và thị xã Quảng Trị.

Thành phố Đông Hà là nơi tập trung phần lớn các cơ sở lưu trú hiện nay của cả tỉnh (chiếm khoảng 65% số buồng khách sạn). Các khu vực tập trung nhiều cơ sở lưu trú khác là huyện Hướng Hóa (12% số buồng) tập trung ở khu vực Lao Bảo và Khe Sanh; Vĩnh Linh (10% số buồng) tập trung ở khu vực Cửa Tùng và Hồ Xá; Gio Linh (tập trung ở Cửa Việt) và thị xã Quảng Trị (mỗi nơi chiếm khoảng 5 - 6% số buồng khách sạn của cả tỉnh).

Với tiềm năng và hệ thống tài nguyên du lịch phong phú, Quảng Trị đã xác định hệ thống các khu điểm du lịch đa dạng trên địa bàn toàn tỉnh tập trung nhiều nhất ở huyện Vĩnh Linh, Hướng Hóa, Gio Linh, tiếp sau là Đông Hà, thị xã Quảng Trị, Đakrông, Cam Lộ. Mức độ đầu tư cho các khu điểm du lịch này còn hạn chế, chưa đồng bộ do nguồn lực khó khăn. Các điểm du lịch gắn với các di tích lịch sử - cách mạng được chú trọng đầu tư xây dựng khá bài bản; Khu dịch vụ du lịch ven biển Cửa Việt - Cửa Tùng được tỉnh xác định vùng động lực phát triển du lịch, trong thời gian qua đã quan tâm đầu tư đạt được những kết quả bước đầu. Các khu du lịch còn lại chưa được đầu tư hoặc mới chỉ được đầu tư ở mức độ hết sức đơn giản, chưa có khả năng thu hút khách du lịch, đặc biệt là những phân khúc thị trường có khả năng chi trả cao. Bảng tổng hợp hệ thống các khu, điểm du lịch hiện nay của Quảng Trị có tại phần Phụ lục.

Hệ thống các tuyến du lịch hiện nay của Quảng Trị chủ yếu dựa trên các trục Bắc - Nam và Đông - Tây. Các trục Bắc Nam quan trọng là trục Quốc lộ 1A và trục Đường Hồ Chí Minh nhánh Đông. Trục Đông Tây quan trọng nhất là trục Quốc lộ 9 - Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo. Xuất phát từ các tuyến trục này cũng như từ các trung tâm đô thị là các tuyến nhánh tới các điểm du lịch như: Tuyến Hồ Chí Minh nhánh Tây, Tuyến đường Hồ Chí Minh nhánh Đông, đường QL 15D đi cửa khẩu La Lay, QL 49C (từ thị xã Quảng Trị đi Trằm Trà Lộc), Tuyến đường tỉnh 588A (từ Quốc lộ 9 đi Ba Lòng); ĐT 571 (từ Vĩnh Long đi Vĩnh Ô); ĐT 572 (từ Thị trấn Hồ Xá đi Vịnh Mốc đi Cửa Tùng); ĐT 574 (từ Quốc lộ 1A đi Cửa Tùng); ĐT 576B (từ Cửa Tùng đi Cửa Việt); ĐT 582 (từ Thị trấn Hải Lăng đi Hải An).


6. Đầu tư phát triển du lịch


Trong những năm gần đây nhận thức của các ngành, các cấp và của nhân dân về đầu tư phát triển du lịch đã được cải thiện. Nguồn lợi kinh tế mà ngành du lịch đem lại cho các ngành kinh tế khác là hết sức to lớn và rõ nét hơn. Nó không chỉ là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo mà còn có sức lan toả hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển. Nhận thức rõ vai trò ngành du lịch mang lại, các cấp chính quyền địa phương có nguồn tài nguyên du lịch đều chọn hướng lấy du lịch làm ngành quan trọng cho địa phương mình. Ngoài lợi ích về kinh tế, ngành Du lịch còn mang lại cho nhân dân nhiều lợi ích khác về mặt xã hội như: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, hạ tầng được đầu tư, bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống, bảo tồn phát huy giá trị các di tích, di sản văn hóa,…

Chính vì thế để kích thích ngành du lịch phát triển nhanh và bền vững, cần thu hút vốn đầu tư. Thời gian qua, các cấp chính quyền của Quảng Trị đã rất quan tâm đến việc đầu tư phát triển du lịch thành một động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác.

Thực hiện Chương trình quốc gia về hỗ trợ phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, giai đoạn 2011 - 2015, ngân sách Trung ương đã được bố trí để hỗ trợ các địa phương phát triển du lịch. Bằng việc tích cực tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của Trung ương, tỉnh Quảng Trị đã huy động được một nguồn vốn đáng kể thông qua các chương trình hỗ trợ có mục tiêu về phát triển du lịch, về phát triển Biển Đông và hải đảo, về phát triển quốc phòng kết hợp với kinh tế, về văn hóa, giao thông, về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng duyên hải miền Trung và theo Nghị quyết 39/NQ-TW, vốn hỗ trợ kỷ niệm các ngày lễ kỷ niệm, lễ hội cấp quốc gia, vốn đầu tư cho Khu KTTM đặc biệt Lao Bảo… kết hợp với nguồn địa phương để tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.

Tổng số vốn ngân sách đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội có tác động đến phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2016 lên đến hàng ngàn tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách đầu tư trực tiếp xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch hơn 300 tỷ đồng (chưa kể nguồn thông qua đấu giá quyền sử dụng đất để tái đầu tư).

Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, đã chỉ đạo quản lý sử dụng có hiệu quả để tập trung đầu tư các dự án, các hạng mục công trình phục vụ sự nghiệp phát triển du lịch. Cụ thể nguồn vốn trên được tập trung phân bổ cho các dự án: Công trình cơ sở hạ tầng du lịch Khu Dịch vụ - Du lịch Cửa Việt, Khu Du lịch ven biển Cửa Tùng - Cửa Việt, Khu du lịch sinh thái Trằm Trà Lộc, Rú Lịnh,... Trong đó chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ để sớm hoàn thành khu du lịch dịch vụ Cửa Việt để phục vụ các sự kiện lớn của tỉnh và phục vụ khách du lịch trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây,…

Triển khai dự án phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong do ADB tài trợ với tổng mức đầu tư gần 1,7 triệu USD. Dự án tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch cộng đồng ở Thôn Klu (Đakrông); xây dựng Trung tâm thông tin du lịch tại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương trong vùng dự án và thực hiện nhiệm vụ thông tin, xúc tiến quảng bá du lịch.

Hệ thống di tích lịch sử cách mạng được quan tâm đầu tư tôn tạo như Đôi bờ Hiền Lương - Bến hải, địa đạo Vịnh Mốc, Thành cổ Quảng Trị, khu tưởng niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn, nhà đày Lao Bảo, di tích sân bay Tà Cơn, khu di tích Trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời CHMN Việt Nam, Đền tưởng niệm Cầu Treo - Bến Tắt,… Hiện đang khẩn trương thực hiện các dự án Thành cổ Quảng Trị giai đoạn 2, sân bay Tà Cơn, phục hồi bản cổ Klu, Chợ đình Bích La và tiếp tục tu bổ một số di tích quan trọng.

Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư được tập trung cho các dự án được xác định là trọng điểm, các dự án dở dang để sớm hoàn thành đưa vào khai thác phát huy tác dụng.

Hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở kinh doanh du lịch phát triển nhanh với sự tham gia đầu tư của nhiều thành phần kinh tế. Các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh du lịch đã đầu tư, nâng cấp, mở rộng nhiều cơ sở kinh doanh có quy mô và chất lượng khá. Trong đó đáng chú ý là: Xây mới khách sạn Sài Gòn - Đông Hà, Khách sạn Mường Thanh - Quảng Trị đạt tiêu chuẩn 4 sao; nâng cấp khách sạn Đông Trường Sơn, Khách sạn MeKong, khách sạn Hữu Nghị, Khách sạn Thành Quả và Khách sạn Phụng Hoàng lên đạt tiêu chuẩn 3 sao; khách sạn Thái Ninh, khách sạn Sepon, Đào Hùng, Bảo Cường,... đạt tiêu chuẩn 2 sao.

Số lượng các nhà đầu tư kinh doanh đến đăng ký đầu tư tại khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, Thành phố Đông Hà, Khu dịch vụ du lịch Cửa Tùng - Cửa Việt,... tiếp tục tăng trong các năm qua. Tính đến nay, có 20 dự án đầu tư vào các Khu du lịch biển Cửa Tùng - Cửa Việt với tổng mức vốn đăng ký đầu tư 3.563,4 tỷ đồng trên tổng diện tích đất 180,29 ha. Một số dự án đang triển khai xây dựng như Khu du lịch Sepon Resort của Công ty TNHHMTV Thương mại Quảng Trị, Khu Du lịch sinh thái biển Cửa Việt của Công ty TNHH Xây dựng Hoàng Hà, Khu du lịch Cửa Tùng Resort của Công ty CP dịch vụ Du lịch và Thương mại Cửa Tùng, Khu Nghỉ mát Phú Hoa của Công ty CP Phú Hoa, Trung tâm du lịch và văn hóa Cửa Việt của Công ty CP bán đấu giá Hà Nội,… Một số dự án lớn đã được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 đang lập dự án đầu tư như Khu khách sạn nghỉ dưỡng của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Khu dịch vụ du lịch Resort Cửa Việt của Công ty TNHH Phong Châu, Resort Laguna của Công ty CP Thương mại và Đầu tư Sao Bắc,…

Trước nhu cầu đầu tư kinh doanh du lịch đang ngày tăng cao, vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch được tỉnh ngày càng quan tâm, Tuy nhiên do điều kiện nguồn vốn ngân sách hạn hẹp chưa có điều kiện đầu tư trực tiếp cho các dự án du lịch, Tỉnh đã huy động các nguồn vốn các dự án để lồng ghép và vốn vay để đầu tư phát triển giao thông đến các điểm du lịch đã được quy hoạch.

Việc thu hút các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch còn gặp khó khăn. Đến nay các nhà đầu tư còn ít quan tâm đến việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, vì tâm lý chung đều cho rằng Nhà nước phải đảm nhiệm các công việc trên, còn các nhà đầu tư chỉ chú trọng những lĩnh vực đầu tư hoạt động kinh doanh như xây dựng sản phẩm du lịch, khách sạn, nhà hàng... để khai thác ngay. Để giải quyết vấn đề này Tỉnh Quảng Trị đã xây dựng một số chính sách, cơ chế nhằm thu hút các nguồn đầu tư như: chính sách đổi đất lấy cơ sở hạ tầng; chính sách thu hút đầu tư; chính sách khuyến khích phát triển du lịch; quy định thủ tục, trình tự, thời gian xét duyệt cấp giấy phép đầu tư cho các dự án và giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa,... các chính sách này mới được ban hành, từng bước sẽ phát huy hiệu quả trong giai đoạn tới.

Trong công tác đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vật chất du lịch, Quảng Trị chưa thực sự thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư chiến lược, có năng lực tài chính để đầu tư xây dựng các khu nghỉ dưỡng tổng hợp có quy mô lớn, chất lượng cao. Nhiều dự án đã được quy hoạch nhưng cũng chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Phần lớn các dự án trong lĩnh vực phát triển hệ thống cơ sở vật chất du lịch là các dự án xây dựng các khách sạn và cơ sở lưu trú quy mô vừa và nhỏ. Quảng Trị cũng chưa thu hút được các dự án đầu tư xây dựng các công trình vui chơi giải trí, hội nghị hội thảo có quy mô lớn. Tiến độ triển khai xây dựng của nhiều dự án xây dựng các khu khách sạn dọc các bãi biển của tỉnh cũng còn tương đối chậm. Trong số 20 dự án hiện có tại khu vực trọng điểm phát triển du lịch biển Cửa Việt mới chỉ có 3 dự án hoàn thành, 6 dự án đang xây dựng (phần lớn đạt chưa tới 30% khối lượng công trình), 5 dự án đã hoàn thành thủ tục nhưng chưa triển khai và 6 dự án khác mới chỉ ở giai đoạn hoàn thành thủ tục chuẩn bị đầu tư. Một số dự án khác trong đó có những dự án có tiềm năng như dự án đường Hồ Chí Minh huyền thoại cũng chưa thực sự phát huy được hiệu quả đầu tư.

Một số dự án phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở xã hội hóa với sự hỗ trợ của ngân sách cũng như của vốn ODA cũng đã được hoàn thành và bắt đầu đi vào vận hành khai thác.

Nguồn vốn lớn nhất đầu tư hỗ trợ cho phát triển các khu điểm du lịch là vốn đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - cách mạng và xây dựng hệ thống giao thông vận tải.

Nhìn chung hiệu quả đầu tư của các dự án du lịch chưa cao do chưa được đầu tư đồng bộ từ hạ tầng kỹ thuật chung, hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất du lịch... do vậy chưa phát huy được hiệu quả của nguồn vốn.


7. Quản lý nhà nước về du lịch


7.1. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Quảng Trị

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh, tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh; quản lý Nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực du lịch trong phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Các phòng ban chức năng thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Trị giúp Giám đốc Sở thực hiện chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình thực hiện các chức năng quản l‎ý nhà nước về lĩnh vực Văn hóa, Thể thao và Du lịch trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện Nghị định 13, 14 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện và Thông tư liên tịch số 43/2008 và nay được thay thế Thông tư liên tịch số 07/2015 ngày 14/9/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch thuộc UBND cấp tỉnh; Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc UBND cấp huyện, đến nay các cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Trị đã được sắp xếp lại. Cụ thể, trong cơ cấu Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch có một Phòng Quản lý Du lịch (so với các địa phương khác, Sở không thành lập Phòng Quy hoạch, phát triển tài nguyên du lịch) với 04 biên chế tham mưu quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh và Thanh tra Sở có 01 cán bộ thanh tra phụ trách mảng du lịch; Ở cấp huyện, trong Phòng Văn hoá và Thông tin có 01 biên chế kiêm nhiệm tham mưu công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn huyện. Ngoài ra có Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở thực hiện nhiệm vụ xúc tiến, quảng bá du lịch.

Nhìn chung hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về du lịch, sau khi sáp nhập được tổ chức lại tinh gọn, tuy nhiên lực lượng biên chế mỏng, đặc biệt là ở cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.



7.2. Quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh

7.2.1. Công tác lập quy hoạch, kế hoạch về phát triển du lịch

Công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch luôn được các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Quảng Trị quan tâm. Hoàn thành và triển khai thực hiện Đề án rà soát điều chỉnh bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Du lịch Quảng Trị đến năm 2010, có tính đến năm 2020; Kế hoạch phát triển ngành Du lịch giai đoạn 2006 - 2010; Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2005 - 2010; Chương trình kế hoạch thực hiện Nghị quyết 06/NQ-TU khóa XIV của Tỉnh ủy về đẩy mạnh đầu tư khai thác tiềm năng, thế mạnh Tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây; Chương trình kế hoạch thực hiện Nghị quyết 13/2007/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về Quy hoạch kế hoạch phát triển Thương mại - Du lịch và Tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây giai đoạn 2007 - 2010, tầm nhìn đến năm 2020.

Công tác lập quy hoạch chi tiết các khu du lịch bước đầu được quan tâm thực hiện. Tỉnh chỉ đạo xây dựng hoàn thành quy hoạch phát triển các khu du lịch và lập các dự án đầu tư tại các khu du lịch: Quy hoạch chung xây dựng và quy hoạch chi tiết du lịch đảo Cồn Cỏ; Quy hoạch chi tiết khu du lịch - dịch vụ Cửa Việt, Khu du lịch Cửa Tùng, Khu dịch vụ - du lịch ven biển Cửa Việt - Của Tùng, Khu du lịch hồ Rào Quán, Khu du lịch Rú Lịnh, Hồ Ái Tử, Trằm Trà Lộc, Khu du lịch biển Vĩnh Thái, Khu dịch vụ liền kề Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn... Xúc tiến một số quy hoạch phát triển du lịch chuyên đề khác như Khe Gió, Khe Mây - Khe Sanh,… Các quy hoạch phát triển du được tổ chức thực hiện tuân thủ theo quy hoạch được duyệt, bước đầu phát huy hiệu quả, nhiều dự án xây dựng phát triển du lịch đã và đang được hoàn tất thủ tục đầu tư xây dựng.

Xây dựng và triển khai có hiệu quả các đề án phát triển du lịch chuyên đề như: Du lịch Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội, Du lịch sinh thái biển, Du lịch đường bộ Hành lang Đông - Tây... Tổ chức các diễn đàn, hội nghị công bố, giới thiệu quảng bá các chương trình, các tuyến, điểm du lịch có thế mạnh tại các địa bàn quan trọng như ở Lào, Thái Lan, Hà Nội và một số tỉnh, thành phố lớn khác.



7.2.2. Quản lý kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch

Việc tổ chức thực hiện các quy định của Luật Du lịch 2005 đã phát huy hiệu quả, đưa hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch vào nề nếp, tiêu chuẩn cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ trong các cơ sở lưu trú ngày được nâng cao.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thường xuyên tổ chức thẩm định, tái thẩm định những khách sạn đạt hạng từ 2 sao trở xuống, đồng thời phối hợp với Vụ Khách sạn của Tổng cục Du lịch tổ chức thẩm định, tái thẩm định những khách sạn đạt hạng 3 sao, 4 sao trở lên trên địa bàn tỉnh.

7.2.3. Quản lý kinh doanh lữ hành, hướng dẫn viên du lịch

Với việc Tổng cục Du lịch đưa vào sử dụng hệ thống quản lý hướng dẫn viên du lịch qua mạng internet tại trang thông tin điện tử huongdanvien.vn, công tác quản lý hướng dẫn viên được thực hiện khoa học và chặt chẽ.

Đến nay, tỉnh Quảng Trị đã cấp 139 thẻ hướng dẫn viên du lịch, trong đó có 107 thẻ hướng dẫn viên quốc tế (ngoại ngữ chủ yếu là tiếng Thái Lan và tiếng Anh), 32 thẻ hướng dẫn viên nội địa. Có 4 doanh nghiệp và 1 chi nhánh kinh doanh lữ hành quốc tế, 6 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa. Các doanh nghiệp lữ hành Quảng Trị chủ yếu khai thác thị trường Thái Lan, Lào, Campuchia, thị trường nội địa với các sản phẩm du lịch Hành lang Đông - Tây, du lịch Hoài niệm, du lịch DMZ, sinh thái biển,…

Các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh lữ hành đảm bảo các điều kiện đăng ký kinh doanh theo quy định, tăng cường cơ sở vật chất, nguồn lực đảm bảo các điều kiện phục vụ nhu cầu du lịch ngày càng tăng. Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là hướng dẫn viên tiếng Thái Lan đáp ứng nhu cầu du lịch qua Hành lang kinh tế Đông - Tây.



7.2.4. Quản lý kinh doanh vận chuyển khách du lịch

Hoạt động kinh doanh vận chuyển khách du lịch trên địa bàn tỉnh chưa thực sự phát triển, chủ yếu theo đường bộ, đường sắt. Các doanh nghiệp vận chuyển khách đường bộ chủ yếu theo hợp đồng, theo tuyến cố định tham gia vận chuyển khách du lịch. Một số doanh nghiệp lữ hành bước đầu đầu tư các phương tiện vận chuyển khách du lịch nhưng nhìn chung năng lực vận chuyển còn hạn chế.

Trong những năm qua, ngành du lịch đã tích cực tham mưu các cấp, các ngành tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hợp tác phát triển du lịch trên Hành lang kinh tế Đông - Tây. Phối hợp với các ngành triển khai các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện vận chuyển khách du lịch lưu thông trên địa bàn tỉnh và trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây.

Công tác quản lý nhà nước về du lịch các đối tượng kinh doanh vận chuyển khách du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Trị như quản lý về chất lượng, tiêu chuẩn của phương tiện vận chuyển khách du lịch cũng như giá, cước vận chuyển, phong cách phục vụ... từng bước được tháo gỡ khó khăn.



7.2.5. Đảm bảo trật tự trị an và vệ sinh môi trường

Tổ chức thực hiện tăng cường giữ gìn trật tự trị an và vệ sinh môi trường tại các điểm tham quan du lịch; thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo an ninh trong quá trình phát triển du lịch. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan đảm bảo an ninh quốc gia trong các hoạt động đầu tư, xúc tiến, quảng bá và kinh doanh dịch vụ du lịch.

Xây dựng các tuyến, điểm, khu du lịch, đô thị du lịch an toàn làm cho du khách thật sự yên tâm khi đến du lịch ở đây. Xây dựng môi trường du lịch lành mạnh, không có tình trạng ăn xin, các tệ nạn xã hội.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với ngành Công an đảm bảo công tác an ninh trật tự trong lĩnh vực du lịch; Chỉ đạo các đơn vị, địa phương thực hiện các chương trình tuyên truyền bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa, các giá trị văn hóa phi vật thể, các tài nguyên du lịch,... phát triển du lịch bền vững gắn với bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp; trong đó tập trung chỉ đạo các đơn vị, khu điểm du lịch rà soát, đánh giá và đề ra kế hoạch xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng tại các điểm tham quan đạt tiêu chuẩn. Đến nay cơ bản các điểm tham quan trên địa bàn tỉnh có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn.



7.2.6. Quản lý, khai thác tài nguyên du lịch

Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch được ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-BTNMT ngày 29/7/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường trên toàn địa bàn tỉnh. Tuân thủ nguyên tắc tài nguyên du lịch phải được bảo vệ, tôn tạo và khai thác hợp lý để phát huy hiệu quả sử dụng và bảo đảm phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh.

Hàng năm, các địa phương, các ngành đã tổ chức nhiều hoạt động bảo vệ môi trường, thu dọn rác thải tại các khu, điểm du lịch, các bãi biển Cửa Tùng, Cửa Việt... đem lại môi trường sạch đẹp, văn minh.

7.2.7. Thanh tra, kiểm tra

Việc Tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra thường xuyên trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong những năm qua được thực hiện trên cơ sở pháp lý của Luật Du lịch. Thanh tra chuyên ngành thường xuyên phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh về các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh lưu trú, kinh doanh Lữ hành, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, quản lý khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh các dịch vụ du lịch khác.

Công tác thanh tra đã phát huy hiệu quả các chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch để răn đe, phòng ngừa, xử phạt các hành vi vi phạm trong lĩnh vực du lịch góp phần đưa các hoạt động du lịch vào trật tự, kỷ cương, cạnh tranh bình đẳng, nâng cao ý thức của các chủ thể có hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh.

Hướng dẫn, chỉ đạo Phòng Văn hóa - Thông tin các huyện, thị xã, thành phố tăng cường công tác quản lý hoạt động du lịch dịch vụ trên địa bàn. Kiên quyết xử lý các hành vi làm tổn hại môi trường du lịch, nhất là nạn chèo kéo, tăng giá, nhũng nhiễu khách du lịch, công tác vệ sinh môi trường tại các khu, điểm tham quan du lịch.


8. Xúc tiến quảng bá


Được sự quan tâm của cấp chính quyền tỉnh, các hoạt động marketing và xúc tiến, quảng bá du lịch ngày càng được đẩy mạnh cả trong nước và quốc tế, cả về số lượng lẫn quy mô hoạt động, trong đó ưu tiên hợp tác, liên kết phát triển du lịch với các địa phương trên tuyến Hành lang Kinh tế Đông - Tây và các tỉnh, thành phố khu vực Bắc miền Trung.

Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch - đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở VHTTDL được thành lập và củng cố tổ chức, bước đầu hoạt động có hiệu quả. Đây là đơn vị nòng cốt thực hiện công tác quảng bá, xúc tiến du lịch của tỉnh Quảng Trị.

Có thể nói các sự kiện Lễ hội ở Quảng Trị như: Thống nhất non sông, Nhịp cầu Xuyên Á, Tri ân Tháng Bảy, Lễ hội hoa đăng trên sông Thạch Hãn,... đang đóng vai trò là những hoạt động xúc tiến, quảng bá quan trọng nhất của Quảng Trị hiện nay. Không chỉ có ý nghĩa quảng bá trực tiếp đến các khách du lịch, các hoạt động lễ hội này đã và đang gây được tiếng vang lớn trên cả nước và trong khu vực.

Nhìn chung, công tác marketing và xúc tiến, quảng bá du lịch trong những năm qua đã được quan tâm hơn. Phương thức, nội dung thực hiện khá đa dạng, bước đầu mang lại kết quả. Hình ảnh Quảng Trị được quảng bá rộng rãi và ngày càng có vị trí vững chắc hơn đối với cả thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, các hoạt động marketing và xúc tiến còn chưa tổ chức thực sự bài bản, thiếu tính chủ động, và cần phải có chiến lược căn cơ, lâu dài về phát triển từng loại thị trường du lịch; tính ổn định tổ chức bộ máy; mức độ chuyên sâu chuyên môn, nguồn lực cho công tác xúc tiến, quảng bá còn hạn chế; các doanh nghiệp du lịch chưa thực sự coi trọng công tác quảng bá, nguồn kinh phí dành cho công tác này chưa tương xứng, và chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách.


9. Đánh giá chung hiện trạng phát triển


9.1. Những kết quả đạt được

Thời gian qua, Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh Quảng Trị đã quan tâm chỉ đạo phát triển ngành Du lịch trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Tỉnh đã có những định hướng trong Chiến lược, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, coi Du lịch cùng với Thương mại - Dịch vụ là ngành kinh tế qua trọng. Cùng với sự phối hợp tạo điều kiện của các ngành, công tác quản lý và phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh đã đạt những kết quả chủ yếu như sau:



- Tỉnh đã sớm xác định tiềm năng, lợi thế phát triển, vai trò, vị trí của ngành du lịch và tạo điều kiện để du lịch dần trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Đồng thời, Tỉnh đã ban hành nhiều Nghị quyết, chủ trương, chính sách khuyến khích ưu đãi thu hút đầu tư, tích cực tranh thủ nguồn vốn của Trung ương hỗ trợ cùng với huy động từ nhiều nguồn khác đầu tư cơ sở hạ tầng và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.

  • Đã có được sự phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành trong quản lý hoạt động du lịch kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; cùng với sự nỗ lực, tính chủ động, năng động của các đơn vị kinh doanh du lịch trong toàn tỉnh.

  • Nhận thức về phát triển kinh tế du lịch trong các tầng lớp nhân dân được nâng lên một bước, từ đó tạo điều kiện thuận lợi nhiều mặt trong việc hỗ trợ cho hoạt động du lịch, thu hút nguồn lực đầu tư kinh doanh du lịch, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên, vệ sinh môi trường và chú trọng hơn việc nâng cao chất lượng của dịch vụ kinh doanh du lịch. Bên cạnh đó, đã chấn chỉnh và nâng lên một bước chất lượng hoạt động kinh doanh du lịch của các doanh nghiệp trên địa bàn.

  • Lượng khách du lịch quốc tế và nội địa không ngừng tăng lên, vượt mục tiêu đề ra (năm 2016 tăng 4,7 lần so với năm 2005; trong đó khách du lịch quốc tế tăng 2,7 lần, khách du lịch nội địa tăng 5,3 lần. Tốc độ tăng trưởng về khách du lịch quốc tế giai đoạn 2006 - 2016 đạt 12,6%/năm, khách du lịch nội địa tăng 19,92%/năm).

Thu nhập từ hoạt động du lịch từng bước được nâng cao (năm 2005 thu nhập từ hoạt động du lịch thuần túy đạt 265 tỷ đồng, đến năm 2016 tăng 3,9 lần, đạt 1.045 tỷ đồng), đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương.

  • Đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng và cả tỉnh; tạo được nhiều việc làm; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân.

  • Thị trường du lịch ngày càng được mở rộng, sản phẩm du lịch đang dần được đa dạng hoá và nâng cao chất lượng. Quảng Trị đang tiếp tục định hình và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch gắn với nhóm tài nguyên đặc trưng của tỉnh như: du lịch lịch sử - cách mạng, du lịch hoài niệm chiến trường xưa, du lịch văn hóa tâm linh, du lịch sinh thái, biển, đảo, mua sắm; từng bước hình thành một số tuyến, địa bàn, khu du lịch trọng điểm như: thành phố Đông Hà, khu cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, khu dịch vụ - du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng, khu du lịch ở đảo Cồn Cỏ, thành cổ Quảng Trị...

  • Hệ thống cơ sở hạ tầng được quan tâm đâu tư phát triển có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động du lịch trên địa bàn. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch như các khu du lịch, các khách sạn nhà hàng, khu vui chơi giải trí... đang từng bước được xây dựng đồng bộ hơn, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng du lịch, góp phần tạo nên diện mạo mới.

  • Công tác đầu tư đã được chú trọng và đúng hướng, thu hút nhiều nguồn đầu tư đem lại hiệu quả nhất định về kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường.

  • Sự phối kết hợp giữa Quảng Trị với các tỉnh duyên hải Bắc Trung Bộ và các tỉnh biên giới giáp với nước Lào, các địa phương trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây đã chú trọng hơn, bổ sung cho nhau các thế mạnh cùng liên kết hợp tác phát triển, góp phần nâng cao vị thế du lịch Quảng Trị trong khu vực, trong nước và quốc tế.

  • Quản lý Nhà nước về du lịch đã đạt được những kết quả tiến bộ. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu tích cực giúp UBND tỉnh thực hiện hiệu quả công tác quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn.

  • Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch đạt được kết quả bước đầu, góp phần thu hút khách du lịch và quảng bá rộng rãi về văn hoá và con người “vùng đất thép” Quảng Trị. Trong đó đáng chú ý là việc duy trì phát hành đều đặn hàng tháng ấn phẩm Du lịch Quảng Trị, trang thông tin điện tử về Văn hóa, Thể thao và Du lịch của tỉnh, tăng cường công tác xúc tiến quảng bá trên các phương tiện thông tin thông qua hội chợ, hội thảo, tổ chức các lễ hội, các sự kiện…

  • Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch được quan tâm hơn, tích cực kết hợp với các cơ sở đào tạo trên cả nước để đào tạo bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

  • Du lịch Quảng Trị không chỉ khai thác các giá trị văn hoá, lịch sử cách mạng đa dạng của tỉnh mà còn đóng góp tích cực cho công tác bảo tồn, quảng bá và phát huy giá trị truyền thống của các di tích, di sản, danh lam thắng cảnh.

9.2. Những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân

9.2.1. Hạn chế, nhược điểm:

Hoạt động du lịch tuy đạt được sự tăng trưởng khá cao với sự tham gia ngày càng nhiều các doanh nghiệp từ nhiều thành phần kinh tế nhưng hầu hết qui mô còn nhỏ, phương thức kinh doanh chậm được cải tiến đổi mới, chất lượng các dịch vụ chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, hiệu quả kinh doanh còn hạn chế.

Còn khá nhiều doanh nghiệp chưa nắm vững các qui định của pháp luật liên quan đến hoạt động du lịch nên trong quá trình kinh doanh chấp hành không được đầy đủ. Đặc biệt là việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo cáo trước khi đi vào hoạt động kinh doanh và những thay đổi loại hình kinh doanh, thay đổi người đại diện doanh nghiệp, người đứng đầu, cải tạo nâng cấp cơ sở kinh doanh, mở chi nhánh, văn phòng đại diện... không nghiêm túc; một số cơ sở lưu trú không thực hiện các thủ tục xếp hạng và công khai giá cả các dịch vụ.

Hoạt động kinh doanh lữ hành chưa thật chuyên nghiệp, các doanh nghiệp còn hạn chế về quy mô, vốn, năng lực cạnh tranh, phần lớn tập trung khai thác thị trường Thái Lan, Lào, Campuchia, chưa quan tâm đúng mức mảng lữ hành nội địa… Còn có tình trạng lợi dụng lượng khách Thái Lan vào Việt Nam qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo tăng đột biến, nhiều doanh nghiệp sử dụng hướng dẫn viên là người chưa được cấp thẻ hướng dẫn viên quốc tế. Nhiều đoàn khách từ Lào, Thái Lan vào tự do không có hợp đồng đón khách với các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh lữ hành quốc tế Việt Nam, không có hướng dẫn viên lữ hành quốc tế Việt Nam.

Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch và công tác tiếp thị thị trường chưa được sự quan tâm của doanh nghiệp, vốn đầu tư cho công tác này thấp, một số doanh nghiệp còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước, tính cộng đồng hợp tác liên kết đối với công tác này trong các doanh nghiệp còn yếu.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và tỉnh đã có sự quan tâm đầu tư vốn và chỉ đạo đẩy mạnh nhiệm vụ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch. Tuy nhiên do điều kiện khó khăn của địa phương nên nguồn vốn hỗ trợ còn thấp so với yêu cầu đặt ra. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiến độ thi công, chậm đưa dự án vào khai thác phát huy tác dụng.

Công tác xây dựng và quản lý quy hoạch du lịch triển khai theo qui định của Luật Du lịch còn bất cập. Phần lớn các quy hoạch chỉ căn cứ qui định của Luật Xây dựng và các Nghị định 08/2005/NĐ-CP và Quyết định 06/2005/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng. Tình hình đó đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của việc lập quy hoạch du lịch và công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch. Công tác thanh tra, kiểm tra triển khai chưa mạnh và chưa thường xuyên, hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý của Sở chuyên ngành.

Loại hình và sản phẩm du lịch chất lượng không đồng đều, khả năng cạnh tranh thấp. Thiếu những sản phẩm du lịch đặc sắc, có tầm cỡ, có sức cạnh tranh trong vùng, trong nước và quốc tế; các dịch vụ bổ sung còn yếu nên chưa kéo dài ngày lưu trú và tăng chi tiêu của khách. Mặt khác, chi tiêu của du khách chỉ tập trung các dịch vụ thiết yếu như phương tiện đi lại, lưu trú, chi cho ăn uống, mua sắm, vui chơi giải trí thấp. Đặc biệt thời gian lưu trú trung bình của cả thị trường quốc tế và nội địa còn thấp, do vậy hiệu quả chung của kinh doanh du lịch chưa tương xứng với tiềm năng. Thị trường hàng hóa lưu niệm chưa phong phú, đa dạng và thiếu bản sắc địa phương để thu hút khách chi tiêu.

Chất lượng nguồn nhân lực du lịch chưa tương xứng với sự phát triển, số lao động phổ thông còn chiếm tỷ lệ lớn trong khi lao động được đào tạo chuyên ngành, lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn cũng là lý do quan trọng hạn chế đến tốc độ và chất lượng phát triển của ngành du lịch

Công tác nghiên cứu, khai thác thị trường của các doanh nghiệp du lịch chưa được chú trọng đúng mức, xu thế kinh doanh du lịch kiểu tự phát, thiếu tầm nhìn dài hạn, còn khá phổ biến thể hiện ở việc đầu tư nhỏ, manh mún, khả năng cạnh tranh thấp; chủ yếu là đầu tư vào các cơ sở lưu trú, ít đầu tư vào lĩnh vực tham quan, giải trí, thể thao du lịch và hàng hoá dịch vụ khác.

Các thành tựu khoa học - kỹ thuật về bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch, các tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ du lịch, hệ thống các số liệu tài khoản vệ tinh du lịch, công tác thống kê và theo dõi phản hồi của khách chưa được áp dụng một cách đầy đủ và khoa học gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như hoạch định các sách lược cho du lịch Quảng Trị.

9.2.2. Nguyên nhân:

Công tác Quy hoạch chưa dự báo được các yếu tố thuận lợi tác động tích cực đến sự phát triển du lịch như các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm và tạo các điều kiện cho ngành du lịch phát triển như: Chỉ thị 179 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong tình hình mới; Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 02/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy phát triển du lịch; Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch do một Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Du lịch 2017... đã tạo cơ sở pháp lý và điều kiện vật chất để phát triển và quản lý ngành Du lịch ngày càng tốt hơn.

Một số quy hoạch, định hướng phát triển du lịch thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa theo kịp xu thế phát triển và tình hình thực tế, thiếu tính khả thi. Việc quản lý quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng các khu du lịch, điểm du lịch còn bất cập, chồng chéo, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp.

Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dân có mặt chưa đầy đủ, còn xem nhẹ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của dịch vụ du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chưa có một chiến lược phát triển lâu dài thể hiện qua việc đầu tư chủ yếu vào những lĩnh vực nhanh thu hồi được vốn hoặc khai thác những cái có sẵn ít chú trọng đầu tư cho các sản phẩm du lịch chất lượng cao.

Nguồn lực đầu tư cho du lịch và công tác xúc tiến, quảng bá du lịch còn hạn chế; chất lượng của sản phẩm và dịch vụ du lịch chưa cao; nguồn nhân lực chưa tương xứng với sự phát triển.

Hệ thống cơ sở lưu trú chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường cả về chất lượng và số lượng, chưa đủ khả năng cạnh tranh với các trung tâm du lịch lớn trong khu vực. Các sản phẩm du lịch bổ trợ cũng như chất lượng các sản phẩm du lịch chủ đạo chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường, do vậy khả năng giữ chân khách du lịch chưa cao.

Sự cố ô nhiễm môi trường biển năm 2016 đã ảnh hưởng không nhỏ đến du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng.



9.3. Những bài học kinh nghiệm

Qua thực tế phát triển du lịch Quảng Trị thời gian qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

- Nhận thức chung của xã hội, trong đó đặc biệt quan trọng là của chính quyền các cấp và các tầng lớp nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển bền vững du lịch, tạo dựng môi trường đầu tư cũng như môi trường du lịch thân thiện, hấp dẫn.

- Chất lượng quy hoạch và năng lực quản lý phát triển theo quy hoạch là yếu tố then chốt hướng tới mục tiêu phát triển bền vững lâu dài. Quy hoạch du lịch cần gắn kết chặt chẽ, phù hợp với các định hướng phát triển tổng thể của vùng, quy hoạch kinh tế - xã hội của tỉnh và các ngành, lĩnh vực khác để phát huy tổng hợp hiệu quả đầu tư và thống nhất trong định hướng phát triển không gian, lãnh thổ.

- Xã hội hóa phát triển du lịch và thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách là giải pháp đặc biệt quan trọng nhằm tạo ra các khu du lịch, cơ sở dịch vụ du lịch và các sản phẩm du lịch; góp phần thực hiện "chuyên nghiệp hóa" nâng cao hiệu quả hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch.

- Môi trường ngày càng chứng tỏ vài trò quan trọng đối với các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt đối với khách du lịch. Hoạt động đầu tư, xây dựng các dự án của một lĩnh vực có thể có tác động hết sức lớn tới lĩnh vực khác, thể hiện qua các tác động tới môi trường tự nhiên của từng khu vực. Do vậy, việc nghiên cứu trong các dự án có khả năng gây ra tác động môi trường lớn cần được thực hiện hết sức nghiêm túc, kiên quyết không triển khai thực hiện dự án khi chưa có các nghiên cứu đầy đủ về tác động môi trường.




tải về 1.55 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương