Bán nguyệt san – Số 277 – Chúa nhật 19. 06. 2016



tải về 0.75 Mb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích0.75 Mb.
#39010
1   2   3

52. Thiên Chúa vô cùng nhân hậu và khôn ngoan, vì muốn cứu chuộc thế giới, nên “khi đến thời viên mãn, đã sai Con của Ngài đến, sinh bởi một người phụ nữ để chúng ta được làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”1. Mầu nhiệm cứu độ linh thiêng này được mạc khải cho chúng ta và được tiếp diễn trong Giáo Hội mà Chúa đã thiết lập như Thân mình Người, và trong đó, khi liên kết với Đức Kitô Thủ lãnh và được hợp nhất trong sự hiệp thông với toàn thể các thánh của Người, các tín hữu cũng phải tôn kính “trước hết Đức Maria vinh hiển, trọn đời đồng trinh, Mẹ của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Chúa chúng ta”2.

53. Thật vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và trong thân xác, và đã trao ban Đấng là sự sống cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế. Được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con của Mẹ, và được kết hiệp mật thiết cách bất khả phân ly với Người, Mẹ được ban cho chức vụ và phẩm giá cao cả là Mẹ của Con Thiên Chúa, và vì thế, Mẹ là ái nữ của Chúa Cha và là cung điện của Chúa Thánh Thần, Đấng đã dùng ân sủng tuyệt vời này làm cho Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật khác, trên trời cũng như dưới đất. Nhưng vì thuộc dòng dõi Ađam, nên Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu độ, hơn nữa, Mẹ “là Mẹ các chi thể (của Đức Kitô) vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Đầu”3. Vì thế, Mẹ cũng được chào kính như chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Giáo Hội, như mẫu mực và gương sáng nổi bật cho Giáo Hội về đức tin và đức ái, và Giáo Hội Công giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, tôn kính Ngài với tình con thảo như người Mẹ rất dấu yêu.

54. Vì vậy, khi trình bày giáo lý về Giáo Hội, nơi mà Chúa Cứu Thế đang thực hiện ơn cứu độ, Thánh Công Đồng chủ tâm làm sáng tỏ vai trò của Đức Trinh Nữ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và Nhiệm Thể, cũng như nêu rõ bổn phận của những người được cứu chuộc đối với Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Đức Kitô và Mẹ nhân loại, nhất là Mẹ các tín hữu, tuy nhiên, Công Đồng không có ý đưa ra một học thuyết đầy đủ về Đức Maria, cũng không có ý giải quyết các vấn đề chưa được sáng tỏ trọn vẹn trong việc nghiên cứu của các nhà thần học. Vì thế, được phép giữ những ý kiến đang được tự do trình bày trong các trường phái Công giáo về Đấng có địa vị cao cả nhất trong Hội thánh sau Đức Kitô và cũng là Đấng rất gần gũi với chúng ta4.

II. VAI TRÒ CỦA ĐỨC TRINH NỮ


TRONG NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ

55. Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước và Thánh Truyền đáng kính trình bày càng lúc càng sáng tỏ hơn vai trò của Mẹ Đấng Cứu Thế trong nhiệm cục cứu độ, và như muốn mời gọi chúng ta chiêm ngắm vai trò ấy. Thật vậy, các sách Cựu Ước trình bày lịch sử cứu độ, trong đó việc Đức Kitô đến trong thế gian được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như được đọc trong Giáo Hội và được hiểu theo ánh sáng mạc khải trọn vẹn sau này, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh của một người nữ, Mẹ Đấng Cứu Thế. Theo ánh sáng ấy, người nữ này đã được tiên báo trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà nguyên tổ đã nhận được sau khi phạm tội (x. St 3,15). Cũng thế, ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh người con trai được đặt tên là Emmanuel (x. Is 7,14; Ml 5,2-3; Mt 1,22-23). Ngài trổi vượt trong số các kẻ khiêm nhu và người nghèo của Chúa là những người tin tưởng hy vọng và lãnh nhận ơn cứu độ từ nơi Chúa. Cuối cùng, với người Thiếu Nữ Sion tuyệt vời, sau thời gian lâu dài mong đợi lời hứa được thực hiện, thời giờ đã mãn và nhiệm cục mới đã được thiết lập, khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại từ người nữ ấy để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm nơi thân xác Chúa.

56. Chúa Cha giàu lòng thương xót đã muốn sự ưng thuận của người Mẹ được tiền định này phải đi trước việc nhập thể, để nếu như trước kia một người nữ đã góp phần vào sự chết, thì nay một người nữ cũng phải cộng tác vào sự sống. Điều này thật đúng với Mẹ của Đức Giêsu, người đã đem đến cho thế giới chính sự sống đổi mới mọi sự, và là người được Thiên Chúa ban cho những ân huệ tương xứng với một vai trò cao cả như thế. Do đó, không lạ gì khi các thánh Giáo phụ thường gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vẹn toàn, không vương nhiễm vết nhơ tội lỗi, như được chính Chúa Thánh Thần nhào nắn, và được tác thành như một tạo vật mới5. Là người duy nhất được chan hoà sự thánh thiện chói ngời ngay từ giây phút thụ thai, Đức Trinh Nữ làng Nazareth được vị thiên sứ đến truyền tin theo lệnh của Thiên Chúa kính chào là “Đấng đầy ơn phúc” (x. Lc 1,28), và Trinh Nữ đã đáp lại sứ điệp từ trời cao: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Như thế, Đức Maria, nữ tử của Ađam, đã trở nên Mẹ của Đức Giêsu khi ưng thuận theo lời Chúa phán, và khi đón nhận ý muốn cứu độ của Thiên Chúa với trọn cả tấm lòng và không bị tội lỗi nào ngăn trở, ngài đã muốn nên như người nữ tỳ của Chúa để hoàn toàn hiến mình cho ngôi vị và công trình của Con ngài, đồng thời nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, ngài phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc tuỳ thuộc Con và cùng với Con. Bởi vậy, các thánh Giáo phụ có lý để nhận ra nơi Đức Maria không phải chỉ là một dụng cụ hoàn toàn thụ động trong tay Thiên Chúa, nhưng đã cộng tác tích cực vào việc cứu độ nhân loại, nhờ tin và vâng phục trong tự do. Thật vậy, như lời thánh Irênê: “Nhờ vâng phục, ngài đã trở nên nguyên nhân cứu độ cho mình và cho toàn thể nhân loại”6. Và cùng với thánh Irênê còn có nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại vì Evà bất tuân, nay được gỡ ra nhờ Đức Maria vâng phục; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”7; và khi so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ của những kẻ sống”8, và vẫn thường quả quyết: “Qua Evà, sự chết xuất hiện, nhờ Đức Maria, sự sống ngự trị”9.

57. Sự liên kết giữa người Mẹ và người Con trong công trình cứu độ được tỏ rõ từ khi Đức Kitô được thụ thai cách trinh khiết cho đến lúc chết; trước hết, khi Đức Maria vội vã đến thăm bà Elizabeth và được chào mừng là người có phúc vì đã tin vào ơn cứu độ Chúa đã hứa, và vị tiền hô đã nhảy mừng trong lòng mẹ (x. Lc 1,41-45); tiếp đó vào ngày Chúa giáng sinh, khi Mẹ Thiên Chúa vui mừng giới thiệu với các mục đồng và những đạo sĩ người Con đầu lòng của mình, Đấng đã không làm mất đi nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn của Mẹ10. Sau nữa, khi Mẹ dâng Con cho Chúa trong đền thánh, với lễ vật ấn định cho người nghèo, cũng như khi nghe Simêon báo trước Con mình sẽ là dấu chỉ sự chống đối và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng Mẹ, nhờ đó tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ tỏ lộ ra (x. Lc 2,34-35). Khi cha và mẹ lo âu tìm kiếm trẻ Giêsu đi lạc và tìm thấy Con trong đền thánh đang lo việc của Cha Người; và các ngài không hiểu được lời Con nói. Tuy nhiên, mẹ Người giữ lấy tất cả các điều ấy và suy gẫm trong lòng (x. Lc 2,41-51).

58. Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt, khi trong những ngày đầu, nơi tiệc cưới làng Cana xứ Galilê, vì động lòng thương xót, Mẹ đã can thiệp vào việc thực hiện phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai (x. Ga 2,1-11). Trong thời gian Chúa đi rao giảng, Mẹ đã đón nhận lời của Người, những lời cho thấy Con của Mẹ, khi đặt Nước Trời lên trên cách suy nghĩ và mối liên hệ theo huyết nhục, đã tuyên bố những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa (x. Mc 3,35 và song song; Lc 11,27-28), như chính Mẹ đã trung tín thực hành (x. Lc 2,19 và 51), mới thật là người có phúc. Như thế, Đức Trinh Nữ đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hợp nhất với Con cho đến tận bên chân Thập Giá, Mẹ đã đứng đó theo như ý định của Thiên Chúa (x. Ga 19,25), sẵn sàng cùng chịu đau khổ với người Con một và dự phần vào hy lễ của Con với cả tấm lòng hiền mẫu, dùng trọn tình yêu chấp nhận hiến tế lễ vật do chính lòng mình sinh ra; và cuối cùng, Mẹ đã nhận làm Mẹ của người môn đệ qua lời trăng trối của Đức Giêsu Kitô đang hấp hối trên Thập Giá: “Thưa Bà, này là con Bà” (x. Ga 19,26-27)11.

59. Vì Thiên Chúa chỉ muốn long trọng tỏ bày mầu nhiệm cứu độ nhân loại khi tuôn đổ Thánh Thần mà Đức Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông đồ trước ngày lễ Ngũ Tuần “đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và với Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và các anh em Người” (Cv 1,14), chúng ta cũng thấy Đức Maria tha thiết cầu xin hồng ân Thánh Thần, Đấng đã bao phủ ngài trong ngày truyền tin. Sau cùng, bởi đã được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết nhơ nguyên tội12, nên sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác13, và được Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để hoàn toàn nên giống Con của Người, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), cũng là Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết14.

III. ĐỨC TRINH NỮ VÀ GIÁO HỘI



60. Theo lời thánh Tông đồ, chúng ta chỉ có một Đấng Trung gian duy nhất: “Vì, chỉ có một Thiên Chúa, và chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa với nhân loại, đó là một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc mọi người” (1 Tm 2,5-6). Tuy nhiên, vai trò làm mẹ nhân loại của Đức Maria không hề xoá mờ hay giảm thiểu vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô, nhưng càng tỏ rõ sức mạnh của Người. Thật vậy, ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Trinh Nữ trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách quan nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Đức Kitô, ảnh hưởng ấy khởi xuất từ vai trò trung gian của Đức Kitô, hoàn toàn tuỳ thuộc vào đó, và kín múc tất cả sức mạnh cũng từ đó. Ảnh hưởng này không hề cản trở, trái lại, còn giúp đỡ các tín hữu kết hợp trực tiếp với Đức Kitô.

61. Được tiền định từ muôn đời để làm Mẹ Thiên Chúa qua sự liên kết với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, theo ý định của Chúa Quan phòng, Đức Trinh Nữ đã nên người Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh trên trần gian, là cộng sự viên quảng đại đặc biệt hơn mọi người và là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa. Khi cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đức Kitô, khi dâng Người lên Chúa Cha trong đền thánh, và cùng đau khổ với Con mình chết trên Thập Giá, Mẹ đã cộng tác vào công trình của Đấng Cứu Thế một cách hoàn toàn riêng biệt, nhờ sự vâng phục, với đức tin, đức cậy và đức ái nồng nàn, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Chính vì thế, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ của chúng ta.

62. Trong nhiệm cục ân sủng, thiên chức làm mẹ của Đức Maria luôn được duy trì, từ khi ngài tin tưởng nói lời ưng thuận trong ngày truyền tin và vẫn tiếp tục giữ vững lời ưng thuận ấy dưới chân Thập Giá, cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu độ cho tất cả những ai được tuyển chọn. Sau khi được đưa về trời, Đức Maria không rời bỏ vai trò của Mẹ trong việc cứu độ, nhưng vẫn tiếp tục liên lỉ chuyển cầu để đem lại cho chúng ta hồng ân cứu độ đời đời15. Với tình hiền mẫu, ngài chăm sóc những người em của Con ngài còn đang lữ hành giữa bao nguy hiểm và thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế, trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng sư, Đấng Phù hộ, Đấng Cứu giúp và Đấng Trung gian16. Tuy nhiên phải hiểu cho đúng điều này để không giảm cũng như không thêm gì vào địa vị và hiệu năng của Đức Kitô, Đấng Trung gian duy nhất17.

Thật vậy, không một tạo vật nào có thể được kể ngang hàng với Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng như chức tư tế của Đức Kitô được thông ban dưới nhiều hình thức cho các thừa tác viên và giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát cho các tạo vật theo nhiều cách khác nhau, thì sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu chuộc không loại bỏ nhưng đúng hơn khơi dậy nơi các thụ tạo sự cộng tác đa dạng được chia sẻ từ một nguồn mạch duy nhất.



Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng vai trò tùy thuộc ấy của Đức Maria, Giáo Hội vẫn luôn cảm nghiệm được điều đó và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng, để nhờ Mẹ nâng đỡ và phù hộ, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng Trung gian và Đấng Cứu chuộc.

63. Nhờ ân huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, điều đã làm cho Đức Trinh Nữ được kết hiệp với Con là Đấng Cứu Chuộc, đồng thời nhờ các ân sủng và nhiệm vụ riêng biệt khác, ngài cũng liên kết mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrôsiô đã dạy: Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và sự kết hiệp hoàn hảo với Đức Kitô18. Thật vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, một chủ thể cũng được gọi rất chí lý là mẹ và trinh nữ, Đức Trinh Nữ Maria nổi bật cách cao cả và riêng biệt như một mẫu mực của phẩm cách là mẹ và trinh nữ19. Quả vậy, trong thái độ tin kính và vâng phục, ngài đã sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian, ngài không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ, như một Evà mới, không tin lời con rắn xưa, nhưng đặt trọn niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt. Mẹ đã sinh hạ Người Con, Đấng được Thiên Chúa đặt làm trưởng tử giữa đàn em đông đảo (x. Rm 8,29) chính là các tín hữu, người Mẹ đã cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục họ với tình hiền mẫu.

64. Khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện nhiệm mầu và noi gương bác ái của Đức Maria, khi trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội là mẹ vì đã lãnh nhận Lời Chúa trong đức tin: thật vậy, nhờ việc rao giảng và nhờ bí tích Thánh tẩy, Giáo Hội sinh hạ con cái, những người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Thiên Chúa sinh ra cho đời sống mới và bất diệt. Giáo Hội cũng là trinh nữ vì đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền lòng tin dành cho Đấng Phu Quân, và noi gương người mẹ của Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội cũng gìn giữ thật tinh tuyền đức tin toàn vẹn, đức cậy bền vững và đức mến chân thành20.

65. Tuy nhiên, nếu như Giáo Hội đã đạt tới sự toàn thiện trong Đức Trinh Nữ diễm phúc, nhờ đó không còn vết nhơ hay nét nhăn (x. Ep 5,27), thì các Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để lớn lên trong sự thánh thiện; vì thế, họ ngước mắt lên Đức Maria là mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn. Nhờ sốt sắng suy niệm và chiêm ngắm Đức Maria trong ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội cung kính hòa nhập cách sâu xa hơn vào mầu nhiệm nhập thể cao cả, và ngày càng nên giống Phu quân mình hơn. Thật vậy, Đức Maria đã tham dự mật thiết vào lịch sử cứu độ và một cách nào đó, ngài đã nối kết và làm vọng vang nơi mình những giáo lý đức tin cao cả nhất, khi các tín hữu nghe rao giảng về ngài và sùng kính ngài, ngài mời gọi họ đến với Con ngài, đến với hy lễ của Người, và đến với tình yêu của Chúa Cha. Khi tìm kiếm vinh quang Đức Kitô, Giáo Hội ngày càng nên giống khuôn mẫu cao cả của mình hơn, liên lỉ tiến tới trong niềm tin, cậy, mến, tìm kiếm và vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công cuộc Tông đồ, thật chí lý khi Giáo Hội nhìn lên người đã sinh ra Đức Kitô, Đấng đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Đức Trinh nữ sinh ra, để nhờ Giáo Hội, Đức Kitô cũng được sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu. Trong cuộc sống, Đức Trinh Nữ đã là tấm gương của tình yêu thương mang đậm tính cách hiền mẫu, một tình yêu cần được thể hiện cách sống động nơi tất cả những ai đang cộng tác vào sứ mệnh Tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại.

IV. VIỆC TÔN KÍNH ĐỨC TRINH NỮ


TRONG GIÁO HỘI

66. Sau Chúa Con nhưng vượt trên toàn thể các thiên thần và loài người, nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria, người đã tham dự vào các mầu nhiệm của Đức Kitô, được tôn vinh là Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì thế Mẹ đáng được Giáo Hội tôn kính và sùng mộ cách đặc biệt. Thật vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, và các tín hữu đã ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ, khẩn cầu Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó21. Nhất là từ Công Đồng Êphêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng, với thái độ tôn kính, mến yêu, cầu khẩn và noi gương, đúng như lời Mẹ đã tiên báo: “Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc trọng đại” (Lc 1,48-49). Sự tôn kính ấy như vẫn luôn có trong Giáo Hội, tuy hoàn toàn đặc thù, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt với sự tôn thờ dâng lên Ngôi Lời nhập thể và Chúa Cha cùng Chúa Thánh Thần, và việc tôn kính này hỗ trợ cho việc tôn thờ Thiên Chúa. Giáo Hội đã chấp nhận nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa trong khuôn khổ giáo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh thời gian và nơi chốn, hợp với tính cách và trình độ của các tín hữu, những hình thức ấy, khi tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận biết, yêu mến và làm vinh danh Chúa Con đồng thời tuân giữ trọn vẹn các giới răn của Người, bởi lẽ vì Người mà muôn tạo vật được tạo thành (x. Cl 1,15-16), và Chúa Cha hằng hữu “đã muốn tất cả sự viên mãn hiện diện” ở nơi Người (Cl 1,19).

67. Thánh Công Đồng minh nhiên dạy điểm giáo lý công giáo này, đồng thời cũng khuyến khích tất cả con cái của Giáo Hội hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức tôn kính ngài đã được Huấn quyền cổ vũ qua các thế kỷ, cũng như hãy thành tâm tuân giữ những quyết định trước đây liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Đức Kitô, Đức Trinh Nữ và các thánh22. Công Đồng cũng ân cần khuyến khích các nhà thần học và những người rao giảng Lời Chúa, khi luận bàn về những phẩm hạnh vô song của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh những tư tưởng phóng đại sai lầm cũng như các suy nghĩ hẹp hòi quá đáng23. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các thánh Giáo phụ, các tiến sĩ và những nhà nghiên cứu các truyền thống phụng vụ trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền, họ cần trình bày cách chính xác về vai trò và đặc ân của Đức Trinh Nữ, vốn luôn quy hướng về Đức Kitô là nguồn mạch của toàn thể chân lý, của sự thánh thiện và lòng đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa những lối diễn tả hay hành động có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật, đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của ngài.

V. ĐỨC MARIA,


DẤU CHỈ LÒNG CẬY TRÔNG VỮNG VÀNG
VÀ NIỀM AN ỦI CHO DÂN CHÚA ĐANG LỮ HÀNH

68. Nếu như Mẹ của Đức Giêsu được vinh hiển hồn xác trên trời là hình ảnh và khởi đầu của Giáo Hội phải được hoàn thành ở đời sau, thì ngay trên trần gian này, ngài cũng toả sáng như dấu chỉ của lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành cho tới ngày Chúa đến (x. 2 Pr 3,10).

69. Thánh Công Đồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy trong số các anh em ly khai, không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự ngài đáng được, nhất là nơi các Giáo Hội Đông Phương, những người sốt sắng và thành tâm sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh24. Tất cả các Kitô hữu hãy tha thiết khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ nhân loại, để như ngài đã trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện, thì ngày nay, được tôn vinh trên trời, vượt trên các thánh và các thiên thần, ngài cũng chuyển cầu cùng Con ngài trong sự hiệp thông của toàn thể các thánh, cho tới khi mọi gia đình dân tộc, hoặc đã được vinh dự mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa nhận biết Đấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hoà thuận, họp thành đoàn Dân Thiên Chúa duy nhất, để làm vinh danh một Chúa Ba Ngôi chí thánh.

Tất cả và từng điều được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

TRÍCH VĂN KIỆN CÔNG ĐỒNG

THONG TRI
Do Tổng Thư Ký của Thánh Công Đồng trình bày
Trong phiên họp khoáng đại thứ 123
ngày 16 tháng 11 năm 1964.

Có những thắc mắc về giá trị thần học của phần giáo thuyết trong Lược đồ về Giáo Hội sẽ được đưa ra để các Nghị phụ bỏ phiếu.

Uỷ ban Giáo thuyết, sau khi xem xét những Đề nghị tu chỉnh cho chương III trong Lược đồ về Giáo Hội, đã đưa ra câu trả lời:

“Đương nhiên phải luôn giải thích văn kiện Công Đồng theo những qui tắc chung mà mọi người đều đã biết”

Nhân dịp này, Uỷ ban Giáo thuyết đã nhắc lại bản Tuyên ngôn ngày 6.3.1964, và đây là một trích đoạn:

“Dựa trên phương thức làm việc và chủ đích mục vụ đã đưa ra, Thánh Công Đồng xác định rằng Giáo Hội chỉ phải tuân giữ những điều liên quan đến đức tin và phong hoá, theo đúng như những gì sẽ được chính Thánh Công Đồng công bố.

Còn những điểm khác được Thánh Công Đồng trình bày, vì là giáo thuyết của Huấn quyền Tối thượng của Giáo Hội, nên tất cả và từng Kitô hữu phải đón nhận và dựa trên những tiêu chuẩn của phương pháp giải thích thần học để hiểu đúng ý của Công Đồng, được biểu lộ qua nội dung được trình bày hoặc qua cách diễn tả trong bản văn”.

Thẩm quyền thượng cấp đã gửi đến các Nghị phụ một chú thích sơ khởi, liên quan đến những Đề nghị tu chỉnh cho chương III trong Lược đồ về Giáo Hội. Giáo thuyết được trình bày trong chương III phải được giải thích và hiểu theo tinh thần và cách thức của chú thích này.



CHÚ THÍCH SƠ KHỞI

Uỷ ban đưa ra những nhận định sau đây trước khi nghiệm xét những Đề nghị tu chỉnh:



1. Từ “Collegium” (cộng thể) không được hiểu theo nghĩa thuần tuý pháp lý, nghĩa là một nhóm người bình đẳng chấp nhận trao quyền lãnh đạo cho một vị chủ tịch, nhưng phải hiểu là một tập thể có tính cố định, với cơ cấu tổ chức và thẩm quyền được xác định bởi chính Mạc khải. Vì thế, câu trả lời cho Đề nghị tu chỉnh số 12 muốn nêu rõ là chính Chúa đã thiết lập Nhóm Mười hai theo thể thức một Cộng thể hay một Nhóm cố định. Xin cũng xem Đề nghị số 53c. - Cũng thế, từ “Ordo” hay “Corpus” được dùng để nói về hàng Giám mục hay Giám Mục Đoàn. Khi nói đến tính cách tương đương, trong mối liên hệ giữa Phêrô với các Tông đồ và mối liên hệ giữa Giáo Hoàng với các Giám mục, không được hiểu đó là sự chuyển giao quyền bính đặc biệt của các Tông đồ cho các người kế vị, và đương nhiên cũng không thể hiểu là các thành viên của Giám Mục Đoàn cũng bình quyền với vị Thủ lãnh, nhưng phải hiểu là có một sự tương ứng giữa mối liên hệ thứ nhất (Phêrô – Tông đồ) và mối liên hệ thứ hai (Giáo Hoàng – Giám mục). Vì thế, trong số 22, Uỷ ban đã quyết định không dùng cách nói “cùng một cách thức”, nhưng là “với cách thức tương tự”. Xem Đề nghị tu chỉnh số 57.

2. Một người trở nên thành viên của cộng đoàn Giám mục nhờ sự thánh hiến bí tích và nhờ sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và những phần tử của Giám Mục Đoàn. Xem số 22, cuối đoạn 1.

Thánh Truyền và cả tập truyền phụng vụ đã xác quyết rõ ràng việc tấn phong làm cho vị Giám mục được tham dự với cả hữu thể của mình vào các chức năng thánh thiêng. Sau khi thảo luận, Uỷ ban dùng danh từ “munus” (chức năng) chứ không dùng chữ “potestas” (quyền hành), vì hạn từ này có thể được hiểu là quyền thực hiện một hành động nào đó. Nhưng quyền thực hiện một hành động chỉ có thể nhận được từ một chỉ định của thẩm quyền phẩm trật theo Giáo Luật hoặc theo pháp lý. Chỉ định này có thể là việc uỷ thác một nhiệm vụ đặc biệt hoặc trao phó một số người thuộc quyền, theo những qui định đã được thẩm quyền tối cao phê duyệt. Việc phê duyệt này là một qui định buộc phải có do chính bản chất của việc trao quyền, vì liên quan đến những chức năng phải được thực thi bởi những người thuộc quyền ở nhiều cấp bậc, cùng cộng tác theo phẩm trật do ý muốn của Chúa Kitô. Điều hiển nhiên là sự “hiệp thông” này đã được áp dụng tuỳ theo hoàn cảnh trong đời sống (in vita) của Giáo Hội qua các thời đại, trước khi được biên soạn thành văn trong luật lệ (in iure).

Chính vì thế, phải nêu rõ là cần phải có sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh của Giáo Hội và với các thành viên. “Communio” (hiệp thông) là một ý niệm rất được đề cao trong Giáo Hội thời xưa (và cả thời nay, nhất là tại Đông phương). Đây không phải là một tình cảm mơ hồ nào đó, nhưng là một thực tại mang tính liên kết, đòi hỏi phải có một hình thức pháp lý, đồng thời được sinh động nhờ đức ái. Vì thế, với sự đồng thuận gần như tuyệt đối, Uỷ ban quyết định viết như sau: “trong sự hiệp thông phẩm trật”. Xem Đề nghị tu chỉnh số 40 và những chỗ đề cập đến sứ vụ theo Giáo Luật, số 24.

Những văn kiện gần đây của các Đức Giáo Hoàng về quyền tài thẩm của các Giám mục phải được giải thích theo ý nghĩa chính yếu vừa nêu liên quan đến quyền hành.



3. Giám Mục Đoàn, một cộng đoàn luôn phải có Thủ lãnh, “là chủ thể có quyền hành trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội”. Đây là điều cần được chấp nhận để tránh những thắc mắc đối với tính cách trọn vẹn của quyền bính dành cho Giáo Hoàng Rôma. Giám Mục Đoàn luôn luôn buộc phải liên kết với vị Thủ lãnh, người trong Đoàn đảm nhận chức năng trọn vẹn của Đấng Đại diện Chúa Kitô và Chủ chăn của Giáo Hội phổ quát. Nói cách khác, đây không phải là phân biệt giữa Giáo Hoàng Rôma và tập thể các Giám mục, nhưng là giữa cá nhân Đức Giáo Hoàng và cộng đoàn gồm cả Giáo Hoàng và các Giám mục. Vì Đức Giáo Hoàng là Thủ lãnh của Giám Mục Đoàn, nên riêng ngài có quyền đơn phương hành động trong một số trường hợp mà các Giám mục không thể làm được, ví dụ triệu tập và điều hành Giám Mục Đoàn, phê chuẩn các qui chế hoạt động, v.v. . . Xem Đề nghị tu chỉnh số 81. Vì đã được trao phó nhiệm vụ chăm sóc toàn thể đoàn chiên của Chúa Kitô, nên Đức Giáo Hoàng có quyền phán quyết về cách thức thích hợp, hoặc riêng cá nhân ngài, hoặc cùng với Giám Mục Đoàn, để thực thi nhiệm vụ ấy, tuỳ theo những nhu cầu của Giáo Hội vẫn luôn biến chuyển qua các thời đại. Vì lợi ích của Giáo Hội, Giáo Hoàng Rôma hành động theo sự khôn ngoan của ngài để hướng dẫn, phát huy và phê chuẩn việc thực thi quyền cộng thể của Giám Mục Đoàn.

4. Là Chủ chăn tối cao của Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng có thể tuỳ ý thực thi quyền bính bất cứ lúc nào, theo như nhiệm vụ đòi hỏi. Phần Giám Mục Đoàn, tuy vẫn luôn tồn tại, nhưng như Truyền thống Giáo Hội đã cho thấy, không phải lúc nào cũng hành động với tư cách thuần tuý tập thể. Nói cách khác, Giám Mục Đoàn không phải lúc nào cũng hoạt động trong cách thế “hành động trọn vẹn”, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hành động theo thể thức thuần tuý tập thể, và không thể làm nếu không được vị Thủ lãnh đồng tình (consentiente Capite). Nói “Thủ lãnh đồng tình”, để đừng nghĩ đến sự lệ thuộc theo kiểu lệ thuộc một người nào đó xa lạ; trái lại, từ “đồng tình” gợi lên sự hiệp thông giữa Đầu và các chi thể, đồng thời cũng nói lên tính cách thiết yếu của một hành động dành riêng cho người Thủ lãnh. Điều này được xác định cách minh nhiên trong số 22,2 và được giải thích ở cuối số. Ngữ thức ở thể phủ định “nonnisi” (không thể nếu không) bao gồm tất cả mọi trường hợp: vì thế đương nhiên phải luôn luôn tuân theo những qui định đã được thẩm quyền tối thượng phê duyệt. Xem Đề nghị tu chỉnh số 84.

Điều nổi bật nhất trong tất cả chính là sự gắn kết giữa các Giám mục với vị Thủ lãnh và không bao giờ hành động độc lập với Giáo Hoàng. Trong trường hợp không có hành động của Thủ lãnh, các Giám mục không thể hành động với tư cách một Giám Mục Đoàn được, chính ý niệm về “Cộng thể” đã cho thấy rõ điều đó. Truyền thống đã xác nhận sự hiệp thông phẩm trật giữa tất cả các Giám mục với Đức Giáo Hoàng.

Ghi chú. Nếu không có hiệp thông phẩm trật, chức năng liên quan đến thực thể do bí tích, cần phân biệt với khía cạnh pháp lý do luật, sẽ không thể thực hiện được. Tuy nhiên, Uỷ ban không bàn đến ở đây vấn đề hợp pháp và thành sự, vấn đề này xin dành cho các nhà thần học thảo luận, đặc biệt về những gì liên quan đến quyền bính đang được các anh em Đông phương ly khai thực thi hiện nay, và về những ý kiến khác biệt trong việc giải thích quyền bính ấy.

PERICLES FELICI


Tổng Giám mục Hiệu toà Samosate
Tổng Thư ký Công Đồng Chung Vatican II

VỀ MỤC LỤC

BỎ MÌNH THEO CHÚA VỚI THÁNH GIÁ

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XII - C

(Lc 9, 18 – 24)

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều khơi dậy lòng nhiệt thành và quí trọng của dân chúng, họ muốn tôn Chúa lên làm vua, Chúa Giêsu đã lánh riêng ra một nơi, xa cách dân chúng để trong thinh lặng, cùng với các môn đệ hàn huyên tâm sự và cầu nguyện. Chúa hỏi các môn đệ : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” (Lc 9, 20). Đại diện cả nhóm Phêrô tuyên xưng : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20 ) lập tức các ông bị cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Kitô : “Con Người phải chịu nhiều đau khổ nhiều…và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9, ), và loan báo điều kiện dành cho những ai muốn đi theo Chúa : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo” (Lc 9, 23).

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của con người là điều hiển nhiên. Khi con người thực hiện đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người.



Theo Chúa phải từ bỏ

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác biệt yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúa đã từ bỏ chính mình trước… trở nên giống chúng ta. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.



Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Ta” (Lc 9, 23). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới con mắt người đời, “chịu mất mạng sống” (Lc 9, 24) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả chúng ta và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Bài giáo lý về thập giá Đức Kitô XIII,1).

Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói : “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.

 

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ



VỀ MỤC LỤC


CĂN TÍNH CỦA CHÚA GIESU


 

CHÚA NHẬT XII-C THƯỜNG NIÊN



Dcr 12:10-11, 13:1; Gl 3:26-29; Lc 9:18-24

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD



 

 

Image: Jesus Teaching by James Tissot

 

 



CÁC ANH GỌI TA LÀ AI?

Nửa phần sau của Tin Mừng Luca là nói về cuộc di hành vĩ đại và sầu buồn của chúa Giêsu về Jerusalem. Đối với Luca, cuộc hành hương của người Kito hữu là một cuộc di hành vui được soi sáng bởi Chúa Cứu Thế.

 

Trên đường hành hương, Chúa Giêsu đã thử lòng tin của các môn đệ bằng câu hỏi: “Các anh gọi Ta là ai?”. Đây là câu hỏi mà Chúa Giêsu cỏ thể hỏi mỗi một môn đệ ở mọi thời đại trên đường theo Chúa Giêsu đi tới thập giá. Tất cả những điều Chúa nói và làm đều có ý nghĩa đặc biệt về đồi Golgotha, nơi Người sẽ biểu lộ một vâng lời tuyệt đối, tình yêu hoàn hảo và tự hiến trọn vẹn.


 

KHÁC BIỆT GIỮA CÂU CHUYỆN CỦA LUCA VÀ CỦA MARCO

 

Luca viết chuyện Tin Mừng hôm nay (Lc 9:18-24) dựa trên Marco (Mc 8:27-33), nhưng đã bỏ đi việc Phêro bị Chúa quở trách (Mc 8:33) vì không chịu nhận Chúa Giêsu bị đau khổ (Mc 8:32). Luca thường làm cho hình ảnh của Phêro và các môn đệ -thấy trong Marco (Lc 22:39-46)- trở nên nhẹ nhàng hơn. Tương tự như vậy ở một chỗ khác Phêro bị Chúa mắng thấy trong Marco (Mc 14:37-38) nhưng không thấy trong Luca.


 

ĐIỂM ĐỒNG NHẤT GIỮA LUCA VÀ MARCO


Nhưng điểm tương đồng giữa Luca và Marco là câu trả lời Chúa của các tông đồ. Các ông đã đưa ra một danh sách những vị mà người ta gán cho Chúa. Mỗi tên đều nói lên những kỳ vọng khác nhau nơi Chúa Giêsu. Có người nói Chúa là Elijah, người thường đối đầu với cường quyền thời đó. Có người nói Chúa là một trong những tiên tri cổ đại. Khi chúa Giêsu hỏi cảm nghĩ của các ông về mình, thì Chúa cũng muốn biết người ta nói gì về Chúa. Họ thấy việc làm và hành động của Chúa thế nào? Họ nghĩ Chúa là ai? Có lẽ bị hỏi bất ngờ nên các môn đệ đã bới móc mọi ký ức cố nhớ lại xem dân chúng ở những làng mạc, thị xã đánh cá của các ông trong vùng biển Galilee đã bàn tán về Chúa thế nào để tìm cách trả lời mà chính Chúa cũng biết phần nào rồi. Câu trả lời của các môn đệ thì nhiều và khác nhau, cũng như nếu ngày nay Chúa hỏi chúng ta cùng một câu hỏi như vậy thì chúng ta sẽ trả lời giống như đa số người đã nói, mạnh yếu tùy thời, tùy lúc, tùy hoàn cảnh và cá nhân. Riêng Phêro đã trả lời Chúa: “Thưa Thầy, Thấy là đấng Thiên Sai!”

 

QUAN NIỆM VỀ “ĐẤNG THIÊN SAI” TRONG DO THÁI GIÁO


 

 

Do Thái Giáo không có một quan niệm duy nhất về “Đấng Thiên Sai”. Ý tưởng về Đấng Thiên Sai hay “Đấng Được Xức Dầu” là ý niệm về một vị vua thuộc giòng David có từ thời sơ khai. Nhưng vào thời Maccabae (khoảng 160-63 B.C.), Giao Ước của 12 Tổ Phụ -là những tài liệu hiện vẫn còn được lưu giữ ở Hy Lạp- cho thấy rõ ràng niềm tin vào Đấng Thiên Sai là chi họ Levi thuộc gia đình Maccabae. Các Cảo Bản Biển Chết lại cho thấy nhiều ý niệm khác về đấng thiên sai: Đấng thiên sai hàng tư tế (priestly Messiah) và đấng thiên sai dân giã (lay Messiah) của Israel (1QSa); tiên tri như Maisen (Deuteronomy 18:18-19) là một ngôi sao thuộc họ Jacob (Numbers 23:15-17;4Q175), nhưng cũng gọi là thiên sai giòng David (4Q174). Melchizedek cũng là nhân vật giải phóng nhưng lại không được gọi là Thiên Sai (11QMelch).



 

Tuyên xưng chúa Giêsu là đấng Thiên Sai là điều rất nguy hiểm, vì đó là lý do mà kẻ thù của chúa Giêsu cần có để làm bằng cớ chống lại Chúa. Có nhiều tên đã đưa lên danh sách những tội ác tố cáo Chúa tự xưng là vua. Nhưng, những điều đó không thuộc nhiệm vụ của Chúa. Chúa không phải và không thể là thiên sai loại chính trị chuyên nghiệp hay quân phiệt. Vậy căn tính thật của Chúa là gì?


 

CĂN TÍNH THỰC CỦA CHÚA GIESU


 

Căn tính và nhiệm vụ của chúa Giêsu cho đến nay vẫn còn đang tiếp tục bàn luận. Có người nói rằng người Kito hữu và toàn thể Giáo Hội là hình ảnh của Elijah với một hệ thống, cơ chế và chính sách có tính đối đầu như đường lối và sứ mạng của Elijad (Sách Các Vua 1 chương 17 và 21). Có người nói, giống như Jeremia, phạm vi hoạt động của chúa Kito qua Giáo Hội là cuộc sống riêng tư có tính cá nhân. Nhưng Chúa Giêsu, đã vượt quá cả 2 phạm vi đó và hỏi các môn đệ: “Còn các anh, các anh nói ta là ai?”

 

Câu trả lời“Thầy là đấng Thiên Sai” đã bùng phát ra từ cửa miệng Phero, con người bộc trực và nóng nảy, cho ta thấy một quan niệm không chỉ liên quan đến cả hai điểm trên mà còn vượt lên trên nữa. Đấng Thiên Sai đã đến trong thế gian, cộng đồng xã hội và trong cả cuộc sống của mỗi cá nhân, một cách toàn diện để hòa giải những khác biệt giữa công và tư. Câu trả lời đó đã thành khuôn mẫu tuyệt hảo có giá trị cho tình môn đệ của chúng ta. Chúng ta thử nhớ lại một số dữ kiện và sự thật về cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giêsu ở trần thế đã được chuẩn bị để cho Kito Giáo thực sự trở thành một Giáo Hội hoàn vũ:


 

 1- Chúa Giêsu thuộc chi họ chính trị Judah, không phải chi họ tư tế Levi hay gia đình tư tế Zaddok. Vì vậy Chúa Giêsu không phải là một chính trị gia chuyên nghiệp.

 

 2- Chúa Giêsu có một ý thức chính trị rất cao. Sứ mạng của Chúa là toàn cầu nên không thể ở thế độc lập mà có tính chính trị hỗ tương một cách nghiêm chỉnh.



 

3- Chúa Giêsu đóng đô tại Capernaum, đúng ra là trong sa mạc hay một làng xa sôi hẻo lánh nào đó. Tỉnh của Chúa nằm dọc theo bờ Tây Bắc biển Galilee có một con đường chính, có những người thu thuế và có liên hệ với tướng quân La Mã. Chúa thường xuyên ở Capernaum hơn là ở Jerusalem.

 

4- Chúa Giêsu liên hệ với tất cả những ai bệnh hoạn và đang hấp hối, với những kẻ tội lỗi, những kẻ sống vất vưởng bên lề xã hội. Chúa tuyên dương Hạnh Phúc bằng cách đem Tin Mừng, áp dụng công lý vào thực tế qua cuộc sống của Chúa. Công lý đích thực phải là sợi dây liên kết mình với những người đau yếu bệnh hoạn, tàn tật, nghèo khổ và bị ngược đãi. Nhưng Chúa cũng không quên những người khác. Chúa ngồi ăn với những người giàu có và quyền thế cũng như những người nghèo hèn và kẻ bị áp bức. Chúa dạy chúng ta phải có tinh thần hòa đồng thực sự.



 

5- Chúa Giêsu không giảng dạy về vương quốc chính trị của David, nhưng  đặc biệt nói về vương quốc Thiên Chúa. Chúa có tài cầu cứu, ban cho chúng ta mọi sự và kết hợp mọi sự vào trong viễn kiến của người về một vương quốc tương lai. Trong suốt cuộc đời của Chúa, Chúa luôn luôn cố gắng chu toàn ước vọng của Israel.


 

KẾT HỢP MỌI MẢNH VỤN RỜI RẠC LẠI VỚI NHAU

 

Nếu bạn đã từng chơi puzzle thì bạn sẽ hiểu nó khó thế nào để kết hợp đúng chỗ những mạnh vụn nhỏ rời rạc hỗn độn thành một bức tranh. Khi nghiên cứu Kinh Thánh nơi Đất Thánh, người ta thường tham dự những cuộc thám hiểm khảo cổ để tìm tòi những mảnh vụn cổ rời rạc đó đây, rồi xếp đặt lại với nhau thành một bức tranh tổng thể. Cũng tương tự như vậy, khi chúng ta định trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay “Nhưng các anh nói Ta là ai?” (Lc 9:20), chúng ta cũng phải kết hợp lại với nhau đúng vị trí, tất cả những mảnh vụn huy hoàng rải rác khắp nơi trong cuộc đời Chúa Giêsu để thành một hình ảnh Chúa Giêsu toàn vẹn.


 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu là đấng Thiên Sai chỉ khi  Chúa chết cho thế gian. Tôi chỉ giống chúa  Giêsu khi tôi hy sinh mạng sống  tôi cho tha nhân.  Căn tính của chúa Giêsu được thể hiện khi Chúa thi hành ước nguyện của Thiên Chúa. Luca đã áp dụng cùng một nguyên tắc đó cho chúng ta là các môn đệ của Chúa. Căn tính thực và mục đích của chúng ta được biểu hiện khi chúng ta biết vong thân, hành động vượt mức của chúng ta. Đó là bổn phận hàng ngày. “Nếu ai muốn theo ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mà theo ta” (Lc 9:23). Nếu tôi mất mạng sống vì Chúa Kito, vì người nghèo khó bị áp bức, vì dân oan, tôi sẽ có lại được sự sống! Đó là đường lối chính trị của Chúa.

     

 

KỶ NIỆM KHÓ QUÊN VỀ TOR VERGATA 2000



 

Một trong những suy niệm đáng nhớ và mãnh liệt nhất về căn tính của chúa Giêsu là đêm 19 tháng 8 năm 2000 trong buổi cầu nguyện vọng Đại Hội Giới Trẻ Thế giới Năm Thánh 2000 tại Tor Vergata ở ngoại thành Roma. Người ta không thể nào quên được cái đêm nóng như thiêu như đốt ấy, lúc mà yên lặng bao trùm lên hơn 1 triệu anh chị em trẻ khi Đức Gioan Phaolo II hỏi họ câu hỏi “Anh chị em gọi Thầy là ai?”


 

Giáo Hoàng già nói với những người bạn trẻ bằng những lời vang động trong khung cảnh như khải huyền trước mặt: “Cuộc đối thoại ấy có ý nghĩa gì? Tại sao Chúa Giêsu lại muốn biết người ta nghĩ gì về Người? Tại sao Chúa lại muốn biết các môn đệ nghĩ gì về Chúa? Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải ý thức về những ý nghĩ thầm kín ẩn chứa trong tâm trí các ông và nói ra tiếng để chứng tỏ sự xác tín của mình. Đồng thời Chúa cũng biết những phán đoán của họ sẽ không đơn độc, bởi vì nó sẽ thể hiện những gì Thiên Chúa đã đổ tràn đầy lòng trí họ do ân sủng của niềm tin.”

 

Đức Thánh Cha tiếp tục: “Đây là tất cả những gì thuộc về niềm tin! Nó là đáp trả của con người có nhân tính, có tự do và có lý trí đối với Lời Chúa hằng sống. Những câu hỏi mà Chúa Giêsu hỏi, những trả lời của các môn đệ, và sau cùng của Phêrô, là một trắc nghiệm về sự trưởng thành của niềm tin của những người gần gũi Chúa Kitô nhất.” Hy sinh cho người nghèo, kẻ bị áp bức vì niềm tin vào Chúa, vì công bằng công lý dù phải hy sinh mạng sống như Chúa Giesu đã làm.


 

CHÍNH LÀ CHÚA GIESU

Thực ra, đó chính là chúa Giêsu -Đức Thánh Cha tiếp tục- là đấng mà các bạn đang tìm kiếm khi các bạn mơ ước Hạnh Phúc. Người đang chờ đợi các bạn khi các bạn không kiếm ra được ai hoặc điều gì làm bạn thỏa mãn. Người là vẻ đẹp hấp dẫn các bạn. Người là đấng khuyến khích các bạn làm tròn đầy khát vọng mà không để cho các bạn sắp đặt để mặc cả, điều đình. Người là đấng thúc dục các bạn lột bỏ bộ mặt giả dối của cuộc đời. Người là đấng biết hết mọi chọn lựa chân thật nhất trong tâm can các bạn, những chọn lựa mà người ta đang cố công tìm cách bóp chết. Chính Chúa Giêsu là người khơi động ước vọng của các bạn là phải làm một cái gì vĩ đại trong đời, ước muốn vươn theo một lý tưởng, từ chối không để cho các bạn bám rễ vào những gì gọi là tầm thường, nhưng can đảm thề hứa cương quyết cải thiện bản thân và xã hội một cách khiêm tốn và liên tục hầu làm cho thế giới có nhân tính hơn và huynh đệ hơn.”
 

Sau cùng Đức Thánh Cha kết thúc bài nói chuyện đáng ghi nhớ ấy như sau: “Các bạn thân mến, vào lúc bình minh của Thiên Niên Kỷ Ba, tôi sẽ gặp các bạn là những người “canh gác ban mai” (coi Is 21:11-12). Trong suốt thế kỷ qua, những người trẻ như các bạn ở đây, được kêu gọi tụ họp đông như vầy để học hỏi cách thức hận thù; họ được gửi đi để gây chiến, để đánh nhau. Nhiều hệ thống gọi là thiên sai nhưng không có Chúa trong đó đã cố gắng chiếm chỗ của niềm hy vọng Kito giáo, đã chứng tỏ họ thực sự tàn ác. Hôm nay các bạn đến tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong tân thế kỷ, các bạn sẽ không cam chịu để cho mình trở thành khí cụ của bạo động và phá hoại; các bạn sẽ bảo vệ hòa bình, trả giá bản thân các bạn nếu cần. Các bạn sẽ không chấp nhận một thế giới trong đó những người khác phải chết vì đói khát, nghèo khổ, sống trong môi trường độc, trong tình trạng thất học và không công ăn việc làm. Các bạn sẽ bảo vệ sự sống trong mọi lúc, trong suốt chu kỳ phát triển của nó; các bạn sẽ cố gắng với tất cả sức mạnh của các bạn để làm cho trái đất này luôn luôn có sinh khí hơn, nhiều sức sống hơn và công bằng cho tất cả mọi người.”

 

Chúa Giêsu này là ai đối với chúng ta?  Đây quả là một câu hỏi duy nhất thực sự đáng kể.



 

Fleming Island, Florida

June 15, 2016

NTC


VỀ MỤC LỤC



tải về 0.75 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương