Bán nguyệt san – Số 218 – Chúa nhật 13. 04. 2014


TĨNH TÂM LINH MỤC GP. VINH 12/2013 - BÀI 5: NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ ĐỨC TIN HÔM NAY



tải về 0.58 Mb.
trang7/7
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích0.58 Mb.
#28735
1   2   3   4   5   6   7

 TĨNH TÂM LINH MỤC GP. VINH 12/2013 - BÀI 5: NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ ĐỨC TIN HÔM NAY

        




Giới thiệu tác phẩm: LINH MỤC GIÁO PHẬN NHƯ LÒNG MONG ƯỚC

 

Trọng kính Đức Hồng Y, Quí Đức Cha, Quí Cha, Quí Độc Giả CGVN.

 

Trong niềm tri ân cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội Công Giáo một Vị Mục Tử Như Lòng Mong Ước Là Đức Thánh Cha Phanxico - Đúng dịp Đại Lễ Phục Sinh Năm Thánh Đức Tin 2013 - Nhà Sách Đức Mẹ ( email: nsachdcct@gmail.com ) thuộc Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã phát hành tác phẩm Linh Mục Giáo Phận Như Lòng Mong Ước do Linh mục Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss. biên soạn.



  

Tập sách rất vinh hạnh vì đã được ưu ái cấp IMPRIMATUR: bởi Đức Cha Pet. NGUYỄN VĂN ĐỆ, SDB. Giám mục Giáo phận Thái Bình. Quí Đức Tổng Phero Nguyễn Văn Nhơn, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, Đức Cha Anton Vũ Huy Chương vui mừng viết Lời Giới thiệu.


Sách được phục vụ tại các nhà sách Công Giáo.

 

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và Giáo Hội Việt Nam bay lên!

 

Chúng con xin chân thành cảm ơn.



 

BBT CGVN

TĨNH TÂM LINH MỤC GP. VINH 12/2013 - BÀI 5: NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ ĐỨC TIN HÔM NAY

Năm Đức Tin vừa khép lại, nhưng việc sống và truyền bá đức tin vẫn luôn mở rộng và khẩn trương, vì “ánh sáng đức tin không chỉ soi chiếu đời sống nội bộ của Hội Thánh hoặc chỉ để xây dựng thành đô vĩnh cửu trong thế giới mai sau, mà còn giúp chúng ta xây dựng xã hội hiện nay nhằm hướng tới một tương lai hi vọng[1]. Đường hướng mục vụ của Giáo Hội Việt Nam là Tân Phúc Âm hóa để truyền đạt Đức Tin Kitô giáo. Trong bối cảnh đó, chúng ta cùng suy gẫm về những thách đố và trách nhiệm của chúng ta về Đức Tin hôm nay.  

ĐHY Ivan Dias, đặc sứ của ĐTC nhắc nhở tại Lavang: “Chúng ta phải tự vấn lương tâm – trong tư cách cộng đồng Giáo Hội cũng như trong tư cách cá nhân – chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và có thể thực hành khá hơn sứ mệnh chúng ta đã nhận lãnh từ Chúa chúng ta[2]. Huấn lệnh này ngày nay rất khẩn trương và nghiêm khắc hạch hỏi lương tâm chúng ta, khi chúng ta nghĩ đến 94% người Việt Nam chưa biết Chúa Giêsu.[3] 

1. Cám dỗ của giáo thuyết trừu tượng

Đối mặt với cơn cám dỗ giản lược Đức Tin vào những ý niệm trừu tượng, chúng ta phải tỉnh thức trong giáo huấn, trong thực hành mục vụ, và trong sự đối đầu với những sự dữ xã hội cần phải uốn nắn. Thập giá Chúa Kitô dạy chúng ta rằng đức tin không thể bị giản lược vào bất cứ hệ thống triết lý hay chính trị, bất cứ ý thức hệ, hay bất cứ “tinh thần thời đại” nào. Chúng ta được mời gọi làm chứng tá không phải cho một cái gì trừu tượng, nhưng cho một Con Người cụ thể, là Đức Giêsu - Con Thiên Chúa làm người. Do đó, chúng ta phải cảnh giác chống lại một liên minh rộng lớn những thứ thay thế Chúa Giêsu và các công việc cứu độ của Ngài. Chúng ta phải có nhiệt huyết của Phêrô, người đã lướt thắng nỗi sợ hãi của mình nhờ Chúa Thánh Thần, để có thể đứng vững trước các thủ lãnh Dothái mà nói “Không có ơn cứu độ nơi một ai khác, vì không có danh nào khác dưới gầm trời được ban cho loài người, mà nhờ danh đó chúng ta được cứu độ[4].  

Huấn quyền đã mạnh mẽ nói đến những mối nguy hiểm giảm trừ Chúa Kitô và giáo huấn của Ngài ở cấp độ trừu tượng và chỉ dừng lại ở thế giới này thôi. Đồng thời Huấn quyền cũng đã khuyến cáo lối đọc chọn lọc giảm trừ giáo huấn của Giáo Hội nhằm biện minh cho những đối nghịch với sự canh tân đổi mới của Công Đồng Vaticanô II. Giáo Hội đã thực hiện một sự cảnh tỉnh lớn lao bằng cách chỉ rõ mối nguy hiểm của một Phúc Âm không có Chúa Kitô.         

Trong tinh thần ấy, chúng ta hãy nhìn sâu hơn vào chính tâm hồn chúng ta, xem xét chính đời sống đức tin cá nhân của chúng ta, giáo huấn và sứ vụ của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta tự hỏi xem Chúa Kitô chết và sống lại có là trọng tâm của tất cả những gì chúng ta nói và làm không? Lắm khi vô tình, chúng ta có thể che khuất phần nào Chúa Kitô và việc cứu độ của Ngài. Chẳng hạn các bài giảng của chúng ta có thể hùng hồn, đầy những tư tưởng đẹp đẽ và những khuyên răn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội, nhưng lại thiếu chứng tá của con tim được biến đổi mỗi ngày của chúng ta nhờ giao tiếp với Chúa Kitô. Quả thế, chúng ta có thể hiểu tường tận và lặp đi lặp lại giáo huấn của Giáo Hội, nhưng lại thiếu gắn bó mật thiết với Giáo Hội. Chúng ta luôn nói về một cái gì, nhưng lại ít nói về Đấng ở trong nội tâm sâu thẳm của chúng ta và làm nên bản chất đích thực sứ vụ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô.   

Hãy can đảm xin Mẹ Maria cứu chúng ta khỏi rơi vào nguy hiểm giản lược đức tin vào những giáo thuyết trừu tượng. Khi chăm nhìn Con đang chết, Mẹ hiểu rằng chính Ngài là Đấng Cứu Độ, chứ không phải ai khác. Mẹ có được điều này từ mối liên hệ yêu thương mãnh liệt của Mẹ đối với Chúa Giêsu. Mẹ đã nắm bắt sự thật về quyền năng của Con Mẹ đang hấp hối chết, chỉ vì đức tin dũng mạnh đã biến đổi tình yêu từ mẫu của Mẹ thành sự kết hiệp trọn vẹn với cái chết cứu độ của Con Mẹ. Và Mẹ làm phát sinh trong chúng ta một hiểu biết và kết hiệp cá nhân sâu xa với Con Mẹ. Mẹ hiện diện với chúng ta khi chúng ta cầu nguyện, giúp đỡ chúng ta nhận biết và đụng chạm đến Con Mẹ. Mẹ đứng với chúng ta khi chúng ta rao giảng về Con Mẹ, giúp chúng ta công bố mầu nhiệm tình yêu cứu độ của Ngài cho những người chúng ta phục vụ. Mẹ ở với chúng ta khi chúng ta truyền đạt một giáo huấn của Giáo Hội, bắt nguồn từ sự khôn ngoan của Chúa, được mạc khải nơi Thập giá và sự Phục sinh của Chúa Kitô. Mẹ khích lệ chúng ta mở rộng lòng cho Chúa Thánh Thần, Đấng cho chúng ta có khả năng nói cách xác tín về Chúa Giêsu và công việc cứu độ của Ngài, đến độ có thể nói như Đức Phaolô VI: “Tôi không bao giờ có thể thôi nói về Chúa Kitô: Ngài là sự thật và là sự sống của chúng ta… Ngài là bánh, là nguồn nước hằng sống của chúng ta, Ngài làm dịu cơn đói và thỏa mãn cơn khát của chúng ta. Ngài là Chủ Chiên, là Lãnh Đạo, là Lý Tưởng, là Đấng Trợ Lực, là Anh của chúng ta[5]

Nhờ đó, chúng ta không bao giờ do dự nói về Chúa Giêsu và các việc cứu thế của Ngài, cũng như về những gì Chúa đòi hỏi các người đi theo Ngài. Quả thế, cái chết của Chúa Kitô trên thập giá khiến chúng ta có thể từ bỏ tội lỗi, chết cho tội và chỗi dậy với Ngài. Việc hoán cải đời sống là một phần căn bản của việc nhận biết Chúa Kitô. Là linh mục, chúng ta phải hoán cải trước ai hết. Các Giáo phụ nêu rõ cho các tân tòng hiểu rằng điều kiện trước tiên để đi vào Cộng đoàn Tín Hữu chính là sự biến đổi đời sống này, qua đó các công việc của bóng tối bị loại bỏ. Các ngài không chỉ đơn giản trao ban cho các thành phần tương lai của Giáo Hội những luật lệ mới để sống, nhưng đúng hơn một lối sống mới khiến Lời Chúa có thể thấm nhập trí óc và con tim của họ. Sự hoán cải này không chỉ đơn giản là sự chấp nhận những ý tưởng và quan điểm mới, song đúng hơn là những đòi hỏi Tin Mừng đã thực sự ảnh hưởng đến cách sống cuộc đời mình. 

Chúng ta phải can đảm rao giảng một Phúc Âm nguyên vẹn, không thỏa hiệp, không bớt xén, vì cái chết của Chúa Kitô có giá trị là một cái chết thực sự cho tội. Có thể chúng ta giảng hết bài này đến bài khác, nhưng chẳng bao giờ thúc đẩy lương tâm giáo dân mình hoán cải, vì chưa có cái chết thực sự cho tội nơi chúng ta. Lắm khi các đòi hỏi luân lý không được nhắc đến, bị bỏ lơ trong thinh lặng. Thật đáng tiếc là sự thinh lặng được coi như đồng lõa với nền văn hóa sự chết của thế gian. Chúng ta cần kiểm điểm xem mình sẽ phải trả lời cho Chúa và quyền năng cứu độ của Ngài thế nào, nhất là trong việc cổ võ và xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống. Dĩ nhiên các đòi hỏi luân lý của đời sống công giáo không đứng riêng một mình. Chúng không phải là phần phụ thêm vào bản chất đức tin, nhưng phải là hình thức cụ thể của đức tin chúng ta. Những đòi hỏi này phát xuất từ đức tin và việc thờ phượng. Các chân lý và thực tại mà chúng ta nắm giữ bằng đức tin và cử hành bằng phượng tự phải được biểu lộ trong các biến cố lớn nhỏ của cuộc sống thường ngày: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết[6]. Nếu không có sự hoán cải luân lý đích thực, đức tin chỉ là những tư tưởng đẹp đẽ và trừu tượng mà thôi.  

Đức tin vào Đấng Chịu Đóng Đinh mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải trình bày thật đầy đủ giáo huấn của Giáo Hội, phải can đảm nói “Không” với thế gian, mà không sợ bị chê là “quá tiêu cực” hay “lạc hậu”. Những đòi hỏi luân lý không chỉ đơn giản là những kết luận của một hệ thống đạo đức, song là câu trả lời cần thiết của chúng ta với Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh. Chính Chúa Giêsu mà chúng ta phải rao giảng ngày này qua ngày khác, và ao ước thấy Danh Ngài vang dội qua mọi thời đại, đến tận cùng trái đất. Xin Mẹ Maria trở nên gương mẫu đức tin cho chúng ta. Xin cho chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần phủ bóng như Mẹ, nhờ đó Chúa Kitô và Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh thực sự sống trong chúng ta[7]



2. Những thách đố về đức tin trong thế giới hôm nay

Chúng ta sống và đụng chạm sự vô tín hôm nay của thế giới, một thế giới thường thích tối tăm và xa tránh ánh sáng chân lý. Một số người vẫn chế nhạo đức tin của Giáo Hội, đức tin tuôn ra từ thập giá Chúa Kitô. Một số nữa tìm cách loại bỏ sự điên rồ của thập giá khỏi lời rao giảng của Giáo Hội. Số khác chỉ dán chặt mắt vào những mối bận tâm tức thời trần thế. Những người khác vẫn sống trong tối tăm, vì không có ai rao giảng Phúc Âm cho họ, như thánh Phaolô nói “tin là nhờ nghe, mà nghe thì phải có ai rao giảng cho.” 

Thảm kịch đồi Golgotha xưa ngày nay vẫn tiếp diễn. Nhưng Giáo Hội vẫn đứng kề thập giá Chúa Kitô cùng với Mẹ Maria. Mỗi ngày Giáo Hội liên kết chính mình với Hy Tế Chúa Kitô và đổi mới chính mình trong tình yêu cứu độ của Ngài. Đức tin sống động của Giáo Hội vào Chúa Kitô và các việc cứu độ của Ngài phải chọc thủng tối tăm của vô tín trong thế giới hôm nay. Giáo Hội đứng kề thập giá Chúa Kitô như ánh sáng trong tối tăm. Nhờ ân sủng, Giáo Hội nỗ lực đẩy lùi ranh giới của tội lỗi và vô tín, đồng thời làm cho con người hôm nay sống như con cái ánh sáng, được cứu chuộc nhờ máu của Chúa Kitô. 

Chúng ta cũng đang sống và rao giảng Tin Mừng trong thời đại của chủ nghĩa hoài nghi. Dân chúng muốn tin vào một cái gì hay một người nào đó, nhưng họ được dạy từ chối hay bỏ lửng niềm tin. Trong việc huấn luyện tri thức, người ta dạy thực hành phương pháp hoài nghi, nhấn mạnh rằng mọi thứ phải được chứng minh theo kiểu khoa học. Chân lý của cái không thể đo lường, quan sát hay kiểm chứng được bị đặt dưới một hệ thống hoài nghi. Chúng ta tán dương những kỹ năng tri thức cần thiết cho nghệ thuật, khoa học, xã hội, văn hóa và cả kinh tế chính trị, nhưng chúng ta phải loại trừ đòi hỏi của chủ nghĩa hoài nghi muốn nó là lời nói cuối cùng. Chúng ta phải phản đối khi nó xâm phạm niềm tin của Giáo Hội và tự phụ đi tìm câu trả lời mà chẳng bao giờ nó tìm thấy. Chúng ta phải phản đối chủ nghĩa hoài nghi vì nó làm tha hóa và đẩy xa dân chúng hôm nay khỏi ân sủng sự sống, sự thật và ơn cứu độ.

Chúng ta cũng đang sống trong một thời đại mà kỹ thuật đang làm bừng sáng viễn ảnh tương lai của con người: Phương tiện vận chuyển đưa chúng ta từ nơi này đến nơi khác cách nhanh chóng; các sản phẩm y khoa mang lại nhiều kết quả diệu kỳ cho sức khỏe; kỹ thuật cống hiến nhiều tiện nghi cho cuộc sống, nhất là các phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Nhưng nhiều người đặt lòng tin cậy không đúng chỗ vào kỹ thuật. Lắm khi người ta theo đuổi kỹ thuật mà không hề quan tâm đến sự sống và phẩm giá con người. Họ coi trọng cái hữu dụng hơn cái tốt và cái đúng. Chúng ta phải coi chừng mối nguy hiểm của kỹ thuật, khi nó trở nên rào cản đức tin và đóng lòng lại với Thiên Chúa Tạo Hóa, Đấng gìn giữ và cứu chuộc thế giới. 

Là linh mục và chủ chăn, chúng ta phải quan tâm đặc biệt đến tình trạng làm tha hoá giới trẻ. Họ lớn lên trong một thế giới hoài nghi và thù nghịch tôn giáo, có ít cơ hội trau dồi và tuyên xưng đức tin. Vì thiếu niềm tin, lắm khi họ cảm thấy vô dụng. Cuộc đời họ xem ra ảm đạm và vô nghĩa. Họ là nạn nhân của một xã hội chẳng cho họ cái gì đáng tin tưởng. Họ chẳng thực sự tin tưởng vào một ai, và cũng chẳng tin tưởng vào chính họ. Họ mất phương hướng tương lai, và vì thế lao mình vào hưởng thụ, nghiện ngập và trụy lạc giới tính. Chúng ta phải đồng hành với giới trẻ, hiện diện với gia đình của họ, lắm khi bị đổ vở vì ích kỷ và ly dị. Chúng ta phải chỉ cho họ thấy họ được yêu thương, quan trọng và hữu ích. Giới trẻ phải được đích thân mời gọi đứng với Giáo Hội bên cạnh Mẹ Maria gần thập giá và xác tín rằng Chúa Giêsu yêu thương họ, tin tưởng họ và đã hiến mạng sống cho họ. Ngày Đại Hội Thế Giới Giới Trẻ với ĐTC là một đáp ứng tuyệt vời. Thật đáng cảm phục và tán dương Ngày Giới Trẻ được tổ chức luôn phiên hàng năm của 10 giáo phận Giáo Tỉnh Miền Bắc chúng ta.  



3. Trách nhiệm của chúng ta

Lẽ nào chúng ta không nghe Chúa Kitô hỏi “Liệu khi Con Người đến có còn tìm thấy niềm tin trên mặt đất nữa chăng?[8]. Ngài sẽ tìm thấy bóng tối của vô tín hay một cộng đồng đức tin “tỉnh thức cầu nguyện và chúc tụng, lòng đầy hân hoan”? Vấn nạn này phải hằng ngày choán lấy tâm trí chúng ta và nằm ở đàng sau mọi việc chúng ta nói hay làm. Vâng, mọi người phải có thể nhìn vào cuộc sống của chúng ta và tìm được ở đó niềm tin sâu xa nhất. Chúng ta mắc nợ đức tin ấy với Chúa Cứu Thế, với Giáo Hội và với đoàn chiên. Chúng ta đã được căn dặn trong ngày thụ phong linh mục: “Hãy tin điều con đọc, giảng điều con tin và đem ra thực hành điều con giảng”.   

Chúng ta phải trông nom đức tin của những ai cùng chúng ta phục vụ, đặc biệt của các chủng sinh, nam nữ tu sĩ, giáo lý viên, Hội đồng mục vụ và các đoàn thể công giáo tiến hành. Chúng ta phải giúp họ có một đức tin sống động, phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải khích lệ họ “nếm thử và nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao”[9]. Họ không thể chu toàn tốt ơn gọi của họ, nếu đức tin của họ không mạnh mẽ can trường. Chúng ta có trách nhiệm chăm sóc mục vụ bất cứ ai ở trong nhiệm sở của chúng ta, họ có quyền được nghe sự thật và bước đi trong ánh sáng đức tin. Nhiệm vụ chúng ta là phải qui tụ họ lại với Giáo Hội cùng Mẹ Maria dưới chân thập giá. Chỉ ở đó và nhờ đức tin, mọi người mới khám phá được sức mạnh để sống và chết cho Chúa. 

Chúng ta cũng phải mở rộng sứ vụ tiên tri của chúng ta cho mọi người: vừa sống và loan báo niềm tin vào tình yêu nồng cháy của Chúa Giêsu, vừa tố cáo thói giả hình, bất công, áp bức, dù có khi phải trả giá đắt của thập giá và cái chết. Tuy sứ vụ tiên tri là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, linh mục chúng ta phải đóng vai trò chỉnh sửa những lối sống nghịch lại đức tin, ở trong Giáo Hội cũng như ở ngoài Xã Hội. Dĩ nhiên chỉ khi nào đức tin của chúng ta vào Chúa và sự sống đời đời đủ mạnh để giúp chúng ta sống được cái đức dũng này: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không ham, nghèo hèn không thay đổi lòng, bạo lực không khuất phục được), vì đã có Chúa làm gia nghiệp. 

Muốn được thế, chúng ta phải để Kế hoạch của Chúa là tiên quyết trong cuộc đời mình; phải lắng nghe và để Lời Chúa biến đổi mãnh liệt như Mẹ Maria. Mẹ qủa đã hoàn toàn sẵn sàng đón nhận các kế hoạch của Chúa. Hai đặc điểm của cuộc đời Mẹ làm nổi bật sự sẵn sàng của Mẹ đối với Chúa: Trước hết là sự khó nghèo giản dị của Mẹ. Mẹ chẳng có gì, ngoại trừ Chúa Giêsu. Và Mẹ đã trao ban Ngài cho chúng ta. Đặc điểm thứ hai của cuộc đời Mẹ Maria đã làm cho Mẹ trở nên sẵn sàng hơn cho Chúa, chính là đức đồng trinh của Mẹ. Đức đồng trinh của Mẹ biểu lộ mạnh mẽ sự tận hiến của Mẹ cho Chúa. Sự sẵn sàng của Mẹ cho Chúa và các kế hoạch của Chúa được biểu lộ rõ nét nhất dưới chân Thập giá. Mẹ đứng đó, hiện diện với Con Mẹ khi Ngài chu toàn chương trình của Chúa Cha. Mẹ có mặt, bất chấp khổ đau và nhạo cười từ mọi phía chung quanh Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ bên cạnh Đấng Chịu Đóng Đinh hoàn tất sự tận hiến của Mẹ.  

Đức tin của Mẹ phải là khuôn mẫu cho đức tin của chúng ta. Chúng ta không có được tính cảm thụ trọn vẹn đối với Lời Chúa như Mẹ, nhưng là những người đã lãnh nhận chức thánh, chúng ta phải tín cẩn lắng nghe Lời Chúa, vì lợi ích của đoàn chiên và vì ơn cứu độ của chúng ta. Là linh mục triều, chúng ta năng dễ bị cám dỗ bớt xén thời giờ cầu nguyện lặng lẽ trong phòng riêng hay trước Chúa Giêsu Thánh Thể, với lý do quá bận công việc mục vụ. Nhưng chúng ta chỉ thực sự tìm được sức mạnh trong cầu nguyện để phục vụ tốt đoàn chiên. Quả thế, muốn nói với người khác về Chúa, trước hết chúng ta phải nói với Chúa trong cầu nguyện. Chúa Giêsu trong Nhà Tạm vẫn mời gọi và hằng chờ đợi chúng ta[10]. Đáng buồn thay nếu chúng ta không làm được cho việc cử hành Thánh Lễ thành trung tâm và chóp đỉnh đời sống tông đồ của mình. Qua cầu nguyện và nhận lãnh các Bí tích, chúng ta nỗ lực đào sâu tính cảm thụ của mình đối với Lời Chúa; đồng thời hướng đời sống chúng ta khỏi quá dính bén của cải, lạc thú và vinh dự thế gian, không để bị giàu sang và ân huệ của xã hội bắt lấy, để rồi một ngày nào đó sẽ phải trở về tay không, như Mẹ Maria đã mô tả trong kinh Magnificat[11]. Đó là một thách đố lớn cho chúng ta trong thời đại này. Chúng ta dễ phàn nàn về sự “đối kháng gia tăng” của giáo dân. Nhưng chúng ta cũng phải xem xét đức tuân phục của chính mình đối với Lãnh đạo Giáo Hội và giáo huấn của Giáo Hội. Có lẽ đến lúc chúng ta cũng phải qùy gối xuống trong sự chấp nhận trọn vẹn những gì Giáo Hội dạy, và tự nhắc nhở: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi[12]. Đức tin của chúng ta chỉ có thể được nên hoàn hảo trong cầu nguyện, trong hiệp thông với Chúa Giêsu và với Giáo Hội. 

Sự cách biệt giàu nghèo mỗi ngày mỗi lớn. Nhiều người nghèo phải ở trong những khu ổ chuột, chẳng có gì ăn, áo quần thì xoàng xỉnh rách nát làm đau lòng chúng ta. Nhưng không chỉ có nghèo nàn thể xác. Còn tệ hơn sự nghèo khó của thân xác, là sự nghèo khó của tinh thần, là bị bần cùng hóa về mặt thiêng liêng. Người thiếu bánh ăn làm chúng ta suy nghĩ, nhưng còn đáng suy nghĩ hơn về người thiếu Bánh Sự Sống. Không áo che thân là tàn phá nhân phẩm, sự tàn phá còn đau đớn hơn nữa khi sống và chết mà không được biết Chúa Kitô và đi theo Ngài. Bao nhiêu người trong xã hội chúng ta không biết đến Chúa Kitô, mà cũng chẳng biết đến Giáo Hội của Ngài. Họ thức tỉnh lương tâm chúng ta là những người có trách nhiệm xây dựng Thân Thể Chúa Kitô bằng một tiếng kêu đáng sợ.  

Sứ vụ phục vụ người bị bần cùng hóa thiêng liêng này của chúng ta được mô tả là “công trình thiêng liêng của lòng nhân hậu thương xót”: hoán cải tội nhân, dạy dỗ người dốt nát, cố vấn cho người hoài nghi, nâng đỡ người buồn sầu, nhẫn nại chịu đựng kẻ lầm lạc, tha thứ những lăng mạ, cầu nguyện cho người sống kẻ chết. Chúng ta học được lòng nhân hậu này từ thập giá Chúa Giêsu cùng với Mẹ Maria. Một khi đã tiến sâu vào lịch sử cứu độ, Mẹ thấm nhuần và làm vang vọng những giáo lý quan trọng về Đức Tin. Mẹ thúc đẩy tín hữu đến với Con Mẹ, với Hy Tế của Ngài và với tình yêu của Chúa Cha. Chúng ta cố gắng mỗi ngày bắt chước Mẹ và tiếp tục tiến bộ trong đức tin, trong niềm hy vọng và đức ái, tìm kiếm và thực thi Ý Chúa trong mọi sự. Vì thế, việc tông đồ của chúng ta là trao ban Chúa Kitô, làm cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn tín hữu. Mẹ Maria là mẫu gương của tình mẫu tử ban sức sống cho những ai liên kết với sứ vụ tông đồ của Giáo Hội cho mọi thế hệ nhân loại[13].   



4. Các đối tượng đặc biệt của trách nhiệm chúng ta

Là linh mục, chúng ta có trách nhiệm đặc biệt đối với những đối tượng này:

Trước hết là giới trẻ hôm nay: Làm sao tiếp cận được cách tốt nhất với giới trẻ của chúng ta. Họ tuôn ra các thành phố và đô thị để học hành và làm việc kiếm sống trong đủ mọi ngành nghề. Họ mang theo nhiều tài năng và nghị lực, với rất nhiều thiện chí. Nhưng rất nhiều người trong họ không được đào luyện và nuôi dưỡng về đức tin, rất nhiều người trong họ không phát triển được một đời sống cầu nguyện, và họ thực sự nghèo nàn về mặt thiêng liêng. Họ trải nghiệm một nội tâm trống rỗng, bất chấp ảnh hưởng lớn họ thực thi và những lợi lộc vật chất họ thụ hưởng! Đời sống luân lý lại quá dư thừa sai phạm, với những tệ nạn xã hội thời đại.

Chăm sóc giới trẻ và tất cả những ai có nhu cầu thiêng liêng là trách nhiệm lớn lao của chúng ta. Giáo dân giáo phận Vinh chúng ta đa số sống về nông ngư nghiệp. Giới trẻ dần dần bỏ nông thôn di dân ra thành phố làm ăn. Nhiệm vụ trước mắt của chúng ta là làm sao giữ liên lạc và đồng hành thiêng liêng được với họ. Những nỗ lực liên kết với giáo dân Vinh di dân làm việc, học hành khắp nơi là những nỗ lực dưỡng giáo và truyền giáo đúng hướng rất đáng trên trọng. ĐTC khích lệ các vị tưyên uý nhiệt thành đáp ứng các nhu cầu của họ và phát triển cuộc sống thiêng liêng cho họ. Di cư bởi bất cứ lý do gì cũng bao gồm các lo âu, vấn đề và nguy hiểm, vì họ bị bẻ gẫy với các nguồn gốc lịch sử văn hóa và cả gia đình nữa. Do đó, phải giúp họ duy trì đức tin và là chứng nhân trong các xã hội họ sinh sống[14].

Nhiệm vụ thứ hai quan trọng hơn và xem ra vượt quá tầm tay của chúng ta là làm sao gợi hứng và thúc đẩy phát triển nhiều ngành công nghiệp, tạo công ăn việc làm cho dân hầu thăng tiến cuộc sống giáo dân, về mặt nhân bản cũng như thiêng liêng, mở ra với sứ mệnh truyền giáo. ĐTC Phanxicô cho rằng những cột trụ của giáo dục là “chuyển giao kiến thức, chuyển giao phương pháp và chuyển giao các giá trị. Qua các phương thế này, đức Tin được thông truyền. Nhà giáo dục phải có đủ khả năng giảng dạy và phải xem xét kỹ lưỡng làm thế nào loan báo về Chúa Giêsu Kitô cho một thế hệ đang chuyển biến”[15]

Tiếp đến là những Nicôđêmô thời đại: Trong Phúc Âm, chúng ta gặp những người tranh luận với Chúa Giêsu về mầu nhiệm Nước Trời. Ngày nay chúng ta cũng gặp những người như thế ở bất cứ đâu mà sứ vụ đưa chúng ta đến. Họ là những người thuộc Tôn giáo bạn, những người thờ kính ông bà tổ tiên, những người không theo tôn giáo nào, cả những người vô thần, lý thuyết hay thực hành. Chúng ta gặp những Nicôđêmô thời đại đó đến với chúng ta, có khi trong âm thầm, gần như bí mật, để đặt câu hỏi, để nói lên những mối nghi ngờ, để tìm cách tiếp cận Giáo Hội, và tìm kiếm Chúa. Chúng ta không thể lờ đi mà không nói với họ về Chúa Kitô. Dù đón tiếp họ với nhẫn nại và yêu thương, chúng ta phải nói cho họ hay rằng cuối cùng chỉ có thể đạt tới Chúa bằng một bước nhảy vọt của đức tin tín thác. Chúng ta cầu nguyện và nỗ lực làm cho các cuộc gặp gỡ ấy sinh hoa kết quả, những Nicôđêmô thời đại ấy sẽ sẵn sàng đến gần Chúa, Đấng đã thí mạng vì tất cả mọi người và họ sẽ trở lại với Chúa. Đừng sợ những kẻ bạo lực bách hại, những người chống đối Chúa và tìm mọi cách làm cho người khác chối bỏ Chúa hay không được tự do tôn thờ Chúa: một Saolô bách hại Đạo sẽ trở nên người truyền Đạo và chết vì cái Đạo mà mình muốn tiêu diệt; rất lắm người chỉ vô thần trên lý thuyết và trong tập thể vì sự nghiệp hay miếng cơm manh áo, khi thực sự va chạm với cái chết và sự chóng qua của đời này và tiếng nói lương tâm được thức tỉnh, họ sẽ cần đến chúng ta đưa họ về với Chúa. Nhiều kẻ bách hại Đạo đã được ơn trở lại khi chứng kiến chứng tá Đức Tin của các thánh tử đạo. 

Sau nữa là những người thanh niên giàu có tân thời: Cũng thế, nhiều khi chúng ta cũng gặp những chàng thanh niên giàu có tân thời. Họ có nhiều nguồn tài nguyên; lắm khi mang nhiều thiện chí đối với Giáo Hội. Có lẽ nghề nghiệp, địa vị xã hội hay quyền lực của họ không lấp đầy được lòng họ. Họ muốn có được sự sống đời đời, nhưng không dám từ bỏ mọi thứ họ đang gắn bó. Chúng ta không mang lại cho họ lợi ích gì nếu không nói với họ về kho tàng của ơn thánh Chúa, luôn sẵn sàng trao ban cho họ nơi các Bí Tích của Giáo Hội. Chúng ta không mang lại cho họ lợi ích nào, khi để họ ra đi mà không được biến đổi gì cả.   

Sau cùng là những con chiên lạc: Chúng ta cũng gặp những người tội lỗi, nhưng đôi khi chúng ta ngần ngại chỉnh sửa và khiển trách, vì chúng ta ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta chưa phục vụ các tội nhân đúng mức, khi vì những yếu đuối và nhát đảm của mình, chúng ta thất bại trong việc khuyên ngăn họ đừng phạm tội. Nỗ lực nhằm hoán cải người có tội chỉ thực sự sinh hoa kết quả khi chúng ta hướng về thập giá và cải thiện đời sống của chính mình, nhất là đối với những con chiên lạc do trách nhiệm và tội lỗi, hay gương xấu của chúng ta mà họ lìa bỏ Giáo Hội, có khi xa cả Chúa. Chúng ta phải đền tội và ra sức đi tìm kiếm những con chiên lạc này về lại cho Chúa và Giáo Hội.  

Sứ vụ hoán cải tội nhân, giáo hóa người dốt nát, khuyên bảo người hoài nghi… nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải sống rất mật thiết với Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh. Muốn hoán cải người khác, mà chính mình không hoán cải, không phải là một con người cầu nguyện, hay không khắc ghi trong lòng các mầu nhiệm của Chúa Giêsu, thì nhất thiết chúng ta sẽ bị thất bại. Đó chỉ là “thanh la inh ỏi và não bạt rền vang mà thôi”[16]. Nếu không có tâm hồn cầu nguyện, chúng ta chẳng bao giờ hy vọng thuyết phục được những người nghe. Chúng ta phải nói về một tình yêu mà chính chúng ta đã trải nghiệm, thì chúng ta mới giúp được người khác trải nghiệm tình yêu sâu xa của Chúa Giêsu.  

5. Sứ mệnh truyền giáo

Thế giới đang cần được tân Phúc Âm hoá. Công Đồng Vatican II mở rộng tầm nhìn của chúng ta ra với Nước Thiên Chúa, lớn hơn là Giáo Hội mà chúng ta thường quan niệm, và thúc đẩy chúng ta truyền giáo, đặc biệt trong Ad Gentes, đến với muôn dân. ĐTC Biển Đức XVI dùng hình ảnh ngôi nhà chung của mọi dân tộc để diễn tả Nước Thiên Chúa này trong ý hướng truyền giáo như sau: “Trong một xã hội đa sắc tộc càng ngày càng kinh nghiệm những hình thức cô độc và dửng dưng đầy quan ngại, các kitô hữu phải học biết đề nghị những dấu chỉ hy vọng và trở nên những người anh em đại đồng, bằng việc vun trồng những lý tưởng lớn lao biến đổi lịch sử, và không ảo tưởng sai lạc hay sợ hãi vô ích, dấn thân biến hành tinh này thành ngôi nhà chung của mọi dân tộc.”[17] 

Hoạt động tryền giáo không chỉ là một chức năng hay phận vụ của Giáo Hội, nhưng “tự bản chất Giáo Hội là truyền giáo”[18]. ĐTC Phanxicô thúc đẩy “đi ra ngoại ô”. Sứ vụ của chúng ta trong thế giới là đi vào các đô thị và làng mạc, trang trại, vùng sâu vùng xa, miền xuôi miền ngược, nghĩa là bất cứ nơi đâu dân chúng đang sinh sống, để mang Tin Mừng cho họ. Chúng ta nghiêng mình kính phục và tri ân các nhà truyền giáo ngoại quốc đã mang Tin Mừng cho tổ tiên chúng ta trước đây. Các ngài không cùng tiếng nói, không cùng văn hóa, không cùng cách sống, lại trải qua bao nhiêu gian khó và cấm cách, thế mà các ngài đến được những nơi và cải đạo được những người mà chính chúng ta ngày nay không tới được, không tiếp cận được, dù chúng ta cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa, cùng giống nòi, lại nhiều phương tiện hơn, và được nhiều dễ dàng hơn. Phải chăng vì chúng ta chưa có Chúa đủ trong lòng? Phải chăng vì chúng ta quá ham dưỡng giáo và chưa nhiệt thành đủ cho truyền giáo? Thánh Phaolô nói: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm[19]

Truyền giáo không chỉ nhắm tới lương dân hầu đưa người ngoài vào trong Giáo Hội, mà còn nhằm thăng tiến người ở trong Giáo Hội, nhằm làm cho Phúc Âm thấm nhuần đời sống người tín hữu, đời sống và mọi hoạt động của Giáo Hội và xã hội: phải có đủ nội lực và sức sống mới tiếp sức cho kẻ khác được. Trong nỗ lực này, lời khuyên của thánh Phaolô cho môn đệ Timôthêô vẫn luôn còn là thời sự và nặng ý nghĩa cho chúng ta hôm nay: “Anh hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, ... mà sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.”[20] Từ đó, chúng ta có cụm từ tái Phúc Âm hóa[21] và có thể liên kết với bất cứ phạm trù nào, ví dụ tái Phúc Âm hóa Phụng vụ, tái Phúc Âm hóa nhân sự, tái Phúc Âm hóa cơ cấu, tái Phúc Âm hóa cộng đoàn, tái Phúc Âm hóa giảng thuyết v.v... Và chính việc tái Phúc Âm hóa này làm cho chúng ta có đủ nội lực và khả năng thực hiện công cuộc truyền giáo hiệu quả, như thánh Phaolô quả quyết “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” khiến “tôi có thể làm đuợc mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.”[22] Quả thế, chính khi chúng ta nỗ lực truyền giáo thì đời sống và sứ vụ của mình tìm được nguồn năng lực mới, như ĐTC Biển Đức nói trong Sứ điệp truyền giáo 2011: “việc không ngừng loan báo Tin Mừng cũng tái tạo sức sống cho Hội Thánh, sự nhiệt tình và tinh thần tông đồ của Hội Thánh; nó giúp đổi mới các phương pháp mục vụ của Hội Thánh để có thể luôn phù hợp hơn với các hoàn cảnh mới – cả những hoàn cảnh đòi hỏi một cuộc tân Phúc Âm hóa – và được sinh động hóa bằng nhiệt tình truyền giáo.”[23]  

Sức mạnh để làm việc truyền giáo đến từ Chúa Giêsu và Thần Khí của Ngài, nhưng chúng ta học cách thức phục vụ từ nơi Mẹ Maria. Khi đã nhận lãnh Tin Mừng từ thiên sứ, Mẹ vội vã ra đi đến với bà Ysave. Mẹ muốn giúp đỡ người chị họ đang mang thai trong tuổi già. Nhưng việc phục vụ yêu thương chính của Mẹ là mang Tin Mừng đến cho bà chị họ. Điều Mẹ đã mang đến cho bà Ysave và Gioan Tẩy Giả, không chỉ đơn giản là thông tin về Chúa, song là chính Chúa Nhập Thể trong dạ Mẹ. Mẹ dạy chúng ta biết làm thế nào để mang tình yêu bao la của Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Mẹ là gương mẫu tuyệt vời cho hoạt động truyền giáo của chúng ta.  

Nhưng Mẹ Maria đã dạy gì cho chúng ta trong sứ vụ truyền giáo? Trước hết, hoạt động truyền giáo là thực sự khẩn thiết. Như Mẹ, chúng ta phải mang đến cho dân chúng trong mọi điều kiện sống, không chỉ một sứ điệp an ủi, nhưng là chính Chúa. Chúng ta phải vội vã lên đường, ý thức sâu xa về nhu cầu của dân chúng là phải được tái sinh bởi nước và Thánh Thần. Chúng ta không thể nấn ná, chậm chạp… Chúng ta không được do dự mang Chúa Kitô vào các nền văn hóa, xã hội vì sợ làm phiền người ta. Tình yêu của Chúa Kitô không bị giới hạn trong các biên giới văn hóa, xã hội. Tình yêu của Chúa Kitô hướng tới mỗi con người và mỗi nền văn hóa, xã hội. Nhưng trong việc hội nhập văn hóa, chúng ta phải chú trọng tới tinh thần, chứ không dừng lại ở hình thức chắp vá bên ngoài. Tuy nhiên, chúng ta không được áp đặt văn hóa của chúng ta trên vùng đất chúng ta được sai đến. Ngôn ngữ và phong tục thay đổi, nhưng sứ điệp Phúc Âm luôn luôn là một. Đó là sứ điệp tình yêu khôn lường của Chúa Kitô được mạc khải và truyền thông qua thập giá. Chúa Kitô đã chết cho tất cả mọi người. Mỗi nền văn hóa và mỗi con người đều được biến đổi và thăng tiến nhờ gặp gỡ Chúa Kitô. Nhưng sự biến đổi đó phải được thực hiện thế nào để cái gì là tốt, là cao thượng, là thích hợp với nhân phẩm đều được tôn trọng và bảo tồn. 

Thứ hai, chúng ta phải mang Chúa đến cho người khác với tình yêu, sự dịu dàng và khiêm tốn như Mẹ Maria. Với niềm vui, Mẹ đã mang Chúa đến cho bà Ysave và con bà; với khiêm tốn, Mẹ đã tỏ ra quan tâm đến các nhu cầu của người chị họ. Mẹ mang Chúa đến không phải để vinh danh những đặc ân của Mẹ, nhưng để tình yêu của Chúa được tỏa chiếu qua người khác. Cũng vậy, chúng ta phải mang Chúa đến cho mọi người trong khiêm tốn chứ không áp đặt. Trong khi chống lại áp bức, bất công và tìm xoa dịu đau khổ, chúng ta phải bảo đảm rằng Phúc Âm mà chúng ta mang đến không bị giới hạn nơi vài chương trình từ thiện và hoạt động xã hội. Tình yêu của Chúa không thể bị giới hạn như thế. 

Thứ ba, phải quan tâm đặc biệt những người chuyên lo việc truyền giáo. Quan trọng biết bao trách nhiệm cống hiến sự nâng đỡ và khích lệ thường xuyên cho họ. Họ phải chăm chú biết bao khi mang Chúa đi cho người khác! Họ phải cẩn thận biết bao khi bảo vệ Lời Hằng Sống và bảo đảm rằng Lời được mang đi nguyên vẹn đến cho những ai khao khát Chúa. Ơn gọi đó ngày nay phải chịu nhiều thách đố và cần được chúng ta trợ lực biết bao! Chúng ta cần nghĩ đến và quan tâm hơn đến các tu sĩ nam nữ, các thành viên Hội Đồng Mục Vụ, các thiện nguyện giáo dân, các giáo lý viên, các chủng sinh, tu sinh... Quả thế, sứ vụ này rất cần đến thời giờ, nghị lực và tài nguyên. Bất cứ cái gì chúng ta làm đều phải hướng đến công cuộc truyền giáo. Mẹ Maria dạy các nhà truyền giáo trước hết phải sống mật thiết với Chúa Giêsu, đặc biệt là phải được chuẩn bị đứng với Ngài nơi thập giá. Không có Chúa Kitô và Chúa Kitô Chịu Đóng Định, chúng ta không thể làm được gì hết. Lịch sử của các thánh tử đạo chỉ rõ điều này. Chúng ta được kêu gọi mang Chúa Kitô tới bất cứ đâu mà chúng ta có thể tới: trường học, cơ quan, phòng thí nghiệm, nhà máy, chợ búa, siêu thị, đồng áng, chung cư, gia đình… để mời gọi mọi người đón nhận Chúa Giêsu. 

Tự bản chất, Giáo Hội là truyền giáo. Và do đó, căn tính và bản chất của linh mục là truyền giáo. Chúng ta đang bảo tồn và phát huy bản chất của mình hay đã bị biến chất? Có một sự thiếu quân bình trong sứ vụ linh mục của chúng ta là chúng ta dồn nỗ lực và tài nguyên quá nhiều cho hoạt động dưỡng giáo (tuy cũng rất cần thiết), nhưng chưa đầu tư bao nhiêu hay chưa đầu tư đủ cho hoạt động truyền giáo. Công Đồng Vaticanô II đem lại một sự hiểu biết mới và mở ra một viễn ảnh bao quát hơn về Nước Thiên Chúa, đúng với ý định cứu độ yêu thương của Chúa Cha, Đấng “đã yêu thương thế gian đến độ trao ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống[24], và cũng đúng với đường lối của Chúa Giêsu: “Thầy còn nhiều chiên khác chưa thuộc về đàn này cần được qui tụ về”. Đường lối của Chúa Giêsu có tính cách bao gồm, chứ không hề loại trừ ai. 

Được kêu gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, chúng ta phải huy động hơn nữa tài nguyên tinh thần, thiêng liêng cũng như vật chất cho hoạt động truyền giáo. Càng động viên giáo dân dấn thân vào việc truyền giáo, công cuộc dưỡng giáo càng trở nên mạnh mẽ, phong phú và hữu hiệu, vì không ai có thể cho cái mình không có. Càng rút về để củng cố pháo đài thì càng yếu. Trái lại, càng mở rộng giới tuyến ra bốn chung quanh, ảnh hưởng và sức mạnh càng lớn và pháo đài càng được an toàn. Chúng ta có thể lấy hình ảnh đó để so sánh việc truyền giáo và dưỡng giáo của chúng ta. Hãy mời gọi mỗi gia đình giáo dân nhận một gia đình không công giáo để cầu nguyện, thăm viếng, chia sẻ tình người và tình Chúa cho họ, như Giáo Hội Đại Hàn đã làm. Cuộc truyền giáo bằng cuộc sống chứng tá và hành động yêu thương đó sẽ làm cho người giáo dân càng ngày càng trở nên kitô hữu tốt hơn, và chắc chắn công cuộc truyền giáo sẽ hữu hiệu hơn.  

Con xin được kết thúc với lời cầu nguyện của ĐGH Clêmentê XI: “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin cho đức tin của con được kiên vững hơn; con trông cậy, nhưng xin cho niềm cậy trông của con được tín thác hơn; con yêu mến, nhưng xin cho tình yêu mến của con được nồng nàn hơn; con ăn năn, nhưng xin cho lòng ăn năn của con được sâu sắc hơn. Lạy Chúa, con dâng cho Chúa tư tưởng của con, xin cho chúng được hướng về Chúa; lời nói của con, xin cho chúng nên lời của Chúa; việc làm của con, xin cho chúng được đẹp lòng Chúa; những gánh nặng của con, xin cho chúng được mang vác cho Chúa. Amen[25].  

[1] ĐGH Phanxicô, Lumen fidei, số 51.

[2] Mt 28, 19-20.

[3] Trích bài giảng của ĐHY Ivan Dias, đặc sứ của ĐTC Biển Đức tại Lavang ngày 6/1/2011.

[4] Cv 4,12.

[5] Bài giảng tại Manila ngày 29.11.1970.

[6] Gc 2,17.

[7] x. 1 Cr 1,23.

[8] Lc 18,8.

[9] Tv 34,8.

[10] x. Mt 11,28.

[11] x. Lc 1,52.

[12] Ga 7,16.

[13] x. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 65.

[14] Xem diễn từ buổi tiếp kiến ngày 20/11/2013 của ĐTC do Linh Tiến Khải, RadioVaticana 20.11.2013.

[15] ĐTC Phanxicô nói với Đại Hội lần 82 của Liên Hiệp Bề trên Tổng quyền tại Rơma ngày 27-29/11/2013 http://www.hdgmvietnam.org/tiep-cac-be-tren-tong-quyen-duc-thanh-cha-thong-bao-nam-2015-la-%E2%80%9Cnam-doi-song-thanh-hien%E2%80%9D/5605.57.7.aspx 

[16] 1 Cr 13,1.

[17] x. Zenit.org Rôma này 25/3/2010.

[18] Ad Gentes 2.

[19] 1 Cr 9,16.

[20] 2 Tm 4,2-4.

[21] Trong các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II có 49 lần cụm từ tái Phúc Âm hóa được sử dụng.

[22] 2Cr 5,14; Phil 4:13.

[23] Sứ điệp Truyên giáo 2011 của ĐGH Biển Đức XVI.

[24] Ga 3,16.

[25] Lời nguyện của ĐGH Clêmentê XI.


VỀ MỤC LỤC

HÔI MIỆNG



 

Cô Mộng Hoàng tâm sự rằng người yêu của cô không vui lắm, vì khi gần nhau thì dường như có mùi không thơm từ miệng cô toát ra. Cô đã được nhiều bác sĩ, nha sĩ điều trị mà miệng vẫn còn phảng phất mùi hôi hôi. Bạn cô nói tại vì cô ăn uống không giữ gìn, lại hay ăn quà vặt luôn miệng nên bị như vậy.

 Cô muốn biết tại sao miệng lại hôi, vì chẵng những người yêu không vui mà bản thân cô cũng buồn buồn. Và làm sao để miệng thơm trở lại. 

Chúng tôi thông cảm với hoàn cảnh của cô và nỗi buồn của một thanh nữ đang nhiều sức sống mãnh liệt mà rơi vào tình trạng trầm buồn. Theo như cô tả lại thì cô bị chứng hôi miệng từ lâu và đã điều trị mà không hết. Thực tâm mà nói, chứng bệnh này không phải chỉ mình cô mắc phải đâu, mà còn nhiều người khác cũng vướng phải và cũng đang ngượng ngập, buồn buồn.           

Trước hết, xin cùng với cô ôn lại về miệng và bệnh này một chút nhé.

Ở loài người, miệng là cửa ngõ của sự tiêu hóa và hô hấp, nơi mà không khí cũng như thực phẩm ra vào. Cấu trúc của miệng cũng khá phức tạp với phía trước là cặp môi và hàm răng; hai bên cạnh là xương hàm và má, phía sau thông với cuống họng. Phía trên là hàm ếch, mặt dưới là lưỡi.

Miệng có nhiệm vụ quan trọng trong việc tiêu hóa thực phẩm.

Răng để nhai nhuyễn món ăn với sự trợ giúp của lưỡi. Tuyến nước miếng tiết ra nước miếng để làm món ăn nhuyễn nhỏ đồng thời cũng để giữ gìn vệ sinh răng miệng, giúp phát âm hoạt bát. Nước miếng còn chứa men tiêu hóa amylase để chuyển hóa tinh bột ra đường.

Miệng còn chứa thanh quản, một cơ quan phát âm. Không khí cũng ra vào theo miệng mặc dù mũi là cơ quan chính sự hô hấp.

Xét vậy thì miệng có vai trò quan trọng trong vấn đề sức khỏe, như các cụ ta thường nói “Bệnh từ miệng mà vào, vạ từ miệng mà ra”. Ý giả các cụ bảo là nhiều bệnh gây ra ro sự ăn uống cẩu thả mà nhiều tai ương cũng từ cửa miệng khi phát ngôn bừa bãi mà nên chuyện. Chẳng khác chi câu nói cổ nhân “miệng nhà sang có gang có thép”.

Miệng quan trọng như vậy mà không khéo giữ gìn thì cũng bệnh, cũng đau. Mà hôi miệng là một trong những bệnh đó.

Sanh ra em bé miệng thơm tho sạch sẽ, ai cũng muốn “thơm” một tý. Vì em chỉ bú sữa mẹ dễ tiêu, và cũng vì chưa có răng cho nên vi sinh vật có hại chưa có nơi ẩn núp. Lớn lên, răng bắt đầu nhú mà kém vệ sinh răng miệng là lúc bắt đầu có vấn đề.

Hôi miệng, hơi thở hôi hoặc thối miệng là dấu hiệu một bệnh nào đó của cơ thể. Ðây là một chứng bệnh rất phổ biến với nhiều nguyên nhân phức tạp. Thậm chí danh từ chuyên môn y học gọi là Halitosis cũng bắt nguồn từ hai ngôn ngữ khác nhau: “halitus” từ tiếng La tinh có nghĩa  là hơi thở,  và suffix Hy Lạp “osis” là tình trạng.

Thường thường, khi nói tới hôi miệng thì nhiều người cứ cho là do bao tử mà nên nỗi. Nhưng thực ra những 85% trường hợp hôi miệng lại chính từ miệng, còn lại 15% đến từ nhiều lý do khác nhau, trong đó có vấn đề dinh dưỡng, ăn uống như bạn cô nói.

Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân đưa tới hôi miệng



a- Từ miệng

Miệng được một số khoa học gia ví như một sở thú, trong đó chen chúc sinh sống cả dăm ba trăm loại vi sinh vật lành dữ khác nhau, đặc biệt là ở phần sau của lưỡi. Đa số các vi khuẩn này thuộc nhóm kỵ khí nghĩa là chúng chỉ tăng sinh trong môi trường không có oxy như trong bựa răng, khe răng, túi nha chu nhất là ở mặt sau của lưỡi.

Khi há miệng soi vào gương, ta thấy lợn cợn những vệt trắng với nhiều vi khuẩn phủ trên lưỡi. Thức ăn sót lại trong miệng hoặc ở các kẽ răng là món ăn hấp dẫn đối với chúng và sẽ bị phân hóa tạo ra mùi hôi.

- Nhiễm trùng ở nướu răng cũng lại mấy cô cậu vi khuẩn bám vào các cục bựa chất béo, calci ở chân răng mà ra. Bựa vôi đóng vào chân răng là môi trường tốt cho vi khuẩn tác dụng vào và đưa đến hôi miệng.

- Khi miệng khô, như ngủ ban đêm thở bằng miệng hoặc dưới tác dụng của vài dược phẩm, hút thuốc lá khiến cho miệng khô, đóng bựa, vi khuẩn tác dụng vào và tạo ra mùi hôi.

- Các bệnh nấm trong miệng tạo mùi ngọt trái cây

- Răng giả không được chùi rửa sạch sẽ. 

b- Một số thực phẩm có chất dầu gây hôi cho hơi thở như tỏi, hành. Các thực phẩm này sau khi được tiêu hóa, chất bay hơi của chúng đều được hấp thụ vào máu, lên phổi và theo không khí hít thở mà bay ra cửa miệng.

Mùi rượu sau khi uống vào cũng thoát ra như vậy trong hơi thở.



c- Một số bệnh về bộ máy hô hấp  như nhiễm trùng phổi kinh niên, viêm xoang mãn tính, chất lỏng ở sau miệng nhỏ giọt xuống cuống họng, ung thư phổi, viêm cuống họng, tiểu đường với mùi trái cây hư ủng, bệnh gan mùi trứng thối, thận mùi tanh cá ươn, rối loạn tiêu hóa cũng tạo ra hơi thở hôi. Đặc biệt là bệnh nhân tiểu đường là hay bị bệnh nớu răng, máu lưu thông giảm. dinh dưỡng kém, nớu mau hư.

Những bệnh về bao tử ít gây ra hôi miệng vì van thực quản-dạ dày luôn luôn khép kín, hơi không bốc lên được ngoại trừ khi ói mửa hoặc ợ chua, trào ngược nước chua từ bao tử vào thực quản, thoát vị khe thực quản (hiatal hernia) hoặc hẹp môn vị (pyloric stenosis)

Nhiễm trùng tổng quát, bị nóng sốt làm cho miệng khô

d- Rối loạn về sự co bóp của bao tử,  thực phẩm chậm tiêu hóa ở lâu trong dạ dầy, bị lên men cũng tạo ra mùi hôi, nhất là khi ta ợ.

e- Một nguyên nhân Tâm Lý là nhiều người  quá chú tâm tới dung nhan mình, có ảo tưởng là cơ thể mình hư hao, phát tiết ra mùi khó chịu. Nhiều người mỗi khi nói chuyện là che miệng, như thể là miệng mình hôi.

g- Trong thời kỳ kinh nguyệt cũng hay có mùi hôi lưu huỳnh từ miệng gây ra do thay đổi kích thích tố trong cơ thể.

h- Dược phẩm gây ra khô miệng cũng gián tiếp tạo mùi hôi như thuốc chống dị ứng benadryl, trị tâm thần, trầm cảm, thuốc lợi tiểu tiện, trị bệnh Parkinson, cao huyết áp

Phân tích mùi hôi

Đa số mùi hôi là do chất hơi có lưu huỳnh (Sulfur), như hydrogen sulfide có mùi hôi trứng thối, methyl mercaptan, và dimethyl disulfides. Đôi khi, mùi hôi do những chất hơi acids béo (fatty acids) như propionic, butyric, hay valeric acids hay những chất amin (indole, skatole, cadaverine và putrescine).

           

Bình thường các chất này được hòa tan trong nước miếng và hấp thụ vào tế bào ở miệng. Nhưng khi có quá nhiều hoặc miệng quá khô, chúng sẽ tỏa ra hơi thở từ miệng, khiến cho hơi thở kém thơm tho.



Chẩn đoán hôi miệng

Nhiều người cứ tự hỏi không biết miệng mình thơm hôi ra sao nhất là khi cần rù rì tâm sự sát với tai người khác. Sau đây là mấy phương thức:

           

- Tự mình tìm hiểu bằng cách thở hoặc bôi nước miếng vào lòng bàn tay đợi vài giây cho nước miếng khô rổi hửi xem thơm hôi ra sao.

           

- Khi ta bịt mũi thở ra  bằng miệng mà thấy hôi thì đa phần là mùi xuất phát từ miệng. Ngược lại ngậm miệng thở ra bằng mũi mà hôi là do bệnh cơ quan nội tăng. Mùi hôi ngấm vào máu, thoát lên phổi rồi thở ra ngoài.

           

- Nhờ người khác khám phá khi họ kề sát mũi vào miệng mình hửi hơi thở. Nhớ giữ khoảng cách an toàn, tránh nước miếng văng vào mũi miệng mình.

           

- Dùng máy khám phá mùi hôi (Halimeter). Máy rất chính xác có thể đo nồng độ cao thấp khác nhau của mùi lưu huỳnh trong hơi thở.



Xin cô thử duyệt lại các nguyên do kể trên, xem mình ở vào trường hợp nào rồi ta từ từ loại bỏ, chữa trị.          

Điều trị

Về điều trị thì xin đề nghị với cô các phương thức sau đây:

a- Nguyên nhân thông thường nhất của hôi miệng là từ  miệng.

Đề nghị với cô để ý nhiều đến vấn đề vệ sinh răng miệng. Đánh răng sau khi ăn, nhất là nếu cô có thói quen hay ăn vặt, ưa món ăn ngọt. Cô không cần dùng kem đánh răng, mà chỉ cần trà nhẹ mặt trong mặt ngoài của răng cho sạch hết thức ăn sót trong miệng, đặc biệt là ở kẽ răng.

- Mua thêm dây chỉ nylon (Dental Floss) để cà khe răng cho sạch thức ăn kẹt ở đó.

- Cô nên khám Nha sĩ coi có bị sâu răng, nhiễm độc nớu thì xin chữa.

- Giữ miệng ẩm ướt bằng cách lâu lâu uống một chút nước.

- Nếu lưỡi đóng bựa, bám nhiều vi khuẩn thì cạo cho hết, nhất là mặt sau của lưỡi.

b- Xin bác sĩ khám nghiệm coi có các bệnh kinh niên như tôi kể trên và điều trị.

Nhắc nhở với cô là trước khi gặp người yêu, không nên ăn các thực phẩm có thể gây mùi hôi ở miệng như hành tỏi, cá mú. Đồng thời có thể tạm thời làm giảm mùi hôi với:

- Nhai kẹo cao su không đường để tăng tiết nước miếng mà công dụng là vừa loại các miếng bựa vừa diệt vi khuẩn trong miệng,

- Xúc miệng với các mỹ phẩm làm thơm miệng. Các chất này chỉ có tác dụng che đậy, làm bớt hôi miệng trong thời gian ngắn sau khi dùng, chứ không trị dứt được hôi miệng đâu.

- Trái cây có nhiều chất xơ như táo, cà rốt, lê khi nhai có thể làm sạch miệng.

- Ăn một ly sữa chua, một miếng pho mát cũng có tác dụng sạch miệng, trừ hôi.

- Các loại cây lá có mùi thơm như quế, gừng, rau mùi tây, bạc hà, hồi, chè xanh …cũng tạm thời át mùi hôi ở miệng.

- Pha một chút bột nở baking soda với nước cũng diệt vi khuẩn, giảm mùi hôi ở miệng.

- Mạnh hơn nếu cô pha 50% nước oxy già hydrogen peroxide với 50% nước rồi xúc miệng. Đây là dung dịch diệt trùng rất tốt.

Nhớ đừng quá chén, nhiều rượu hoặc cà phê nhé, vì các chất này lợi tiểu, làm miệng mau khô, lời nói không dẻo mà vi khuẩn lại tăng sinh, hôi miệng. 

Chúc cô có nhiều niềm vui trong hơi thở vẫn thơm, cho tăng tình yêu lứa đôi.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.

Texas-Hoa Kỳ.



www.bsnguyenyduc.com
Tuyển tập Videos Sống Vui Sống Khoẻ

Vài hàng giới thiệu : Xin trân trọng giới thiệu tuyển tập Videos "Sống Vui Sống Khoẻ" của BS Nguyễn Ý Đức. Tuyển tập này là những bài nói chuyện hữu ích về y tế, dinh dưỡng và sức khoẻ của BS Nguyễn Ý Đức trên các đài truyền hình được đưa lên Internet. Cùng với bộ sách "Câu Chuyện Thầy Lang" và những ấn phẩm đã được xuất bản, những bài viết trên Internet, tuyển tập Videos "Sống Vui Sống Khoẻ" này sẽ cung cấp nhiều thông tin hữu ích, đóng góp vào việc cải thiện vấn đề sức khỏe cho cộng đồng người Việt Nam khắp nơi.

http://www.youtube.com/user/DrNguyenYDuc/videos


VỀ MỤC LỤC


GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014 - BẢN TIN 08


Thưa quý độc giả và quý tác giả,

Bốn năm nữa, đến năm 2018 sẽ là kỷ niệm 400 năm Tin mừng Nước Trời đến với Giáo phận Qui Nhơn. Năm 1618, nhờ sự giúp đỡ của ông Trần Đức Hòa, quan Tuần phủ khám lý Qui Nhơn hồi ấy, các nhà truyền giáo dòng Tên gồm ba linh mục Francesco Buzomi, Francisco de Pina, Christoforo Borri và tu sĩ António Dias đã lập cơ sở đầu tiên tại Nước Mặn (nay thuộc thôn An Hòa, Xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Nước Mặn cũng được các nhà nghiên cứu ngày nay ghi nhận là cái nôi phát sinh của chữ Quốc ngữ. Mời xem http://loanbaotinmung.net/noidung/439.

Góp phần vào những nỗ lực nhằm dọn mừng kỷ niệm trọng đại ấy, Ban mục vụ Văn hóa và Giáo dục của Giáo phận Qui Nhơn hiện đang tiến hành thực hiện hằng năm hai giải văn thơ song song, nhằm phát hiện và phát huy những tài năng văn thơ trẻ cho Giáo hội:

- “Giải văn thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn”, dành riêng cho các học sinh giáo lý trong Giáo phận Qui Nhơn (18 tuổi trở xuống). Cuộc thi lần thứ năm của giải này (2014) đang tiến vào giai đoạn cuối và sẽ trao giải vào giữa tháng 7-2014.

- “Giải Viết Văn Đường Trường” dành cho các bạn trẻ Công giáo từ 40 tuổi trở xuống, mở rộng cho tất cả các giáo phận trong toàn quốc, được tổ chức liên tục từ 2013 tới 2018. Cuộc thi lần II (2014) đã thu hút được sự tham gia của các tác giả từ 15 Giáo phận khác ngoài Giáo phận Qui nhơn, vừa kết thúc nhận bài và dự kiến sẽ tổng kết trao giải vào tối 21-9-2014.

Các bạn trẻ đạt giải Đặng Đức Tuấn hằng năm được quy tụ thành những câu lạc bộ sáng tác, tổ chức những ngày tập huấn và in ấn các tập nội san làm sân chơi văn chương và rèn luyện tay bút. Sau hơn 4 năm, đã thấy có những tín hiệu phát triển tốt. Tại “Giải Viết Văn Đường Trường” năm nay, trong số 64 tác giả tham dự, đã có 20 tác giả thuộc Giáo phận Qui Nhơn, hầu hết đều xuất thân từ chương trình văn thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn nói trên.

Trong bản tin này, chúng tôi xin giới thiệu 9 truyện dự thi mới của Giải Viết Văn Đường Trường 2014.



http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=12381

Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.

Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người. Xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và gopnhattho@yahoo.com.

Nếu quý độc giả phát hiện bài dự thi nào sao chép, copy ý tưởng, hoặc chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.

Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.

Qui Nhơn, ngày 06-4-2014



Thay lời Ban Tổ chức

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ

VỀ MỤC LỤC


Giáo sĩ: xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân



- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca Phạm Quốc Sử USA





tải về 0.58 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương