Bán nguyệt san – Số 202 – Chúa nhật 04. 08. 2013


Theo đệ nhị luật, trưởng nam là kẻ thừa kế gia tài cha mẹ, được nhận  gấp  đôi phần của cac em    ( Đnl   21,17)



tải về 0.71 Mb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu26.12.2017
Kích0.71 Mb.
#35097
1   2   3   4
Theo đệ nhị luật, trưởng nam là kẻ thừa kế gia tài cha mẹ, được nhận  gấp  đôi phần của cac em    ( Đnl   21,17) .

Luật quy định rõ ràng như vậy, nhưng người ta vẫn vi phạm. Bài Tin Mừng  (Lc 12, 13-21)   kể truyện một người tới thưa với Chúa : “Thưa thầy, xin thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Có lẽ người anh đã chiếm giữ tất cả, người em chỉ còn nước đi kiện. Thông thường, người bị thiệt tới xin các thầy Pharisiêu, ký lục xét xử.  Phán quyết của họ có giá trị trước cộng đoàn,  bắt đôi bên nguyên /  bị phải tuân theo.

Tới Chúa Kitô xin Ngài xét xử, người ta xem Chúa như một thầy ký lục hoặc Pharisiêu nghĩa là xem Chúa ở bậc “thầy dạy”. Chúa không phân xử chính ngay nội dung vụ người ta yêu cầu. Chúa nói : “Này anh, ai đặt tôi làm thẩm phán hay làm trọng tài giữa các anh”. Qua vụ kiện nầy  Chúa vạch ra cho biết nguyên nhân sâu xa  là lòng tham lam tiền bạc và mọi thứ tham lam khác. Chúa đả kích quan niệm xem tiền bạc là bảo đảm đời sống người ta.

Dụ ngôn Chúa đưa ra rất cụ thể : một phú hộ của cải nhiều, phát đạt quá, phải làm nhà kho lớn để tích trữ thóc lúa. Ông ta tự thỏa mãn, bảo với chính mình hãy hưởng giàu sang, phú quý cả đời chưa hết, tiền  bạc bảo đảm ông.  Chúa bảo ông ta là hạng ngốc ( Giremia  17, 11 ) vì cái chết đến tiền bạc trở nên vô ích với ông  .

Dụ ngôn trên cho ta biết hai điều : tiền tài giúp người ta sống, có thể sống lâu, nhưng không thể sống lâu theo ý muốn người ta. Cái chết đến bất thình lình, lúc người ta không muốn, khi người ta đang ham sống và tiền của tỏ ra bất lực trong vấn đề này. Thứ hai lo thu tích nhiều tiền của, khi chết, hai tay buông xuôi, mọi sự vất lại cả, không có gì mang theo.

Đúng là nhà phú hộ hạng ngốc. Thánh vịnh nói hạng ngốc sống không cần biết Chúa ( Tv 13 (14), 1 ) .  Ông này chỉ biết đến tiền bạc và hưởng phú quý do tiền bạc đem lại. Cái chết đến, đống tiền của , hưởng vinh hoa phú quý trở nên vô nghĩa với ông . Trái lại, người làm giàu nơi Thiên Chúa sống theo ý Chúa, cái chết đến là lúc họ đạt tới đích của cuộc sống, tới cùng cực ý nghĩa đời sống trần gian, họ trở thành giàu có trong Thiên Chúa.

Nói như vây, không phải khinh chê tiền bạc. Tiền bạc, của cải vật chất tự nó có giá trị để phục vụ con người, để con người không bị lệ thuộc, sống đúng với nhân phẩm của mình. Tiền bạc thực sự không làm thêm tuổi đời, kéo dài đời người, nhưng giúp con người đạt tới tuổi thọ của mình. Thí dụ, vì nghèo khổ thiếu dinh dưỡng, người ta chỉ sống đến 30 tuổi, thay vì tuổi thọ 60, 90, 100. Tiền bạc sẽ giúp người ta cải thiện cuộc sống, tạo nên thuận tiện cho cuộc sống, đạt tới tuổi thọ 100. Rõ ràng tiền bạc, của cải không phải là đảm bảo tuyệt đối cho đời sống, nó chỉ là phương tiện “gia hạn” cho cuộc sống trần gian. Người phú hộ đã tưởng rằng tiền của nhiều bảo đảm đời sống ở mức tuyệt đối, cuộc sống viên mãn ở trần gian, mà không nghĩ cái chết đến chấm dứt tất cả.

Kẻ sáng suốt biết tính toán đúng, biết giá trị của tiền của, biết sử dụng nó để làm phong phú đời sống, làm giàu cho đời sống nơi Chúa, không thể dùng tiền bạc để mua Nước Trời. Có tiền mua tiên cũng được ? Chắc chắn  tiền bạc  không thể mua Nước Trời, trái lại tiền của có lúc là thần Mammon đối nghịch với Thiên Chúa ( Lc  16, 13 ) .   Phải biết sử dụng tiền của để sống theo Ý Chúa, làm giàu nơi Chúa bằng bác ái. Kẻ chỉ sống với tiền bạc, hưởng thụ mọi thứ không lành mạnh ở trần gian, cậy tiền của nhiều sống theo dục vọng, thỏa mãn lòng tham quyền chức làm thiệt hại bản thân, linh hồn và thể xác, họ đã dùng tiền của mua lấy án phạt đời đời. 

                                                     



Lời cám ơn của tác giả:

Con viết bai nầy sau ngày 28-7-2013 , ngày Đức Cha Phêro Nguyễn Văn Khảm đến  cử hành lễ nhậm chức Cha sở  của Cha Laurenso và con từ giả Giáo xứ Xây dựng . Con xin cám ơn Đức Hồng Y cho con nghỉ hưu , cám ơn Đức Cha Phêro , Cha Đại diện Đức Hồng Y đặc trách linh mục, Cha Hạt trưởng Chí hòa, Quý Cha, Quý Soeurs, Quý khách ,  cách riêng Hội đồng Mục vụ Giáo xứ Xây dựng, các Hội đoàn và Quí ông bà anh chị em Giáo xứ Xây dựng  đã cộng tác với con trong suốt bao năm qua.       

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

VỀ MỤC LỤC

Bản dịch chương II - THÔNG ĐIỆP ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ theo bản Latinh, Tiếng Anh và Tiếng Pháp của Tòa Thánh

THÔNG ĐIỆP ÁNH SÁNG ĐỨC TIN - LUMEN FIDEI CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI CHO CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

NHỮNG NGƯỜI ĐÃ THÁNH HIẾN


VÀ TÍN HỮU GIÁO DÂN
VỀ ĐỨC TIN

CHƯƠNG HAI
NẾU ANH EM KHÔNG TIN,
ANH EM SẼ KHÔNG HIỂU
(X. Is 7:9)

Đức tin và chân lý

23. Nếu ngài không tin, thì ngài không hiểu (x. Is 7: 9). Bản Hy Lạp của Thánh Kinh Do Thái, bản Bảy Mươi phát hành ở Alexandria Ai Cập, dịch những lời của ngôn sứ Isaia nói cùng vua Aha. Bằng cách này vấn đề hiểu biết về chân lý chiếm vị thế trung tâm của đức tin. Tuy nhiên, trong văn bản tiếng Do Thái, chúng ta đọc khác. Ở đó, ngôn sứ nói với nhà vua: “Nếu ngài không tin, ngài không thể đứng vững.” Ở đây có một cách chơi chữ, dựa trên hai hình thức của động từ 'amàn: “ngài tin” (ta'aminu), và “ngài có thể đứng vững” (ta'amenu). Sợ hãi vì sức mạnh của quân thù, nhà vua tìm an toàn mà việc liên minh với đại đế quốc Assyria có thể cung cấp cho vua. Khi ấy, ngôn sứ yêu cầu nhà vua nên chỉ dựa vào đá tảng thực sự, đá tảng không ai có thể lay chuyển nổi, là Thiên Chúa của dân Israel. Vì Thiên Chúa đáng tin cậy, thật là hợp lý để tin vào Ngài, để xây dựng sự an toàn thích đáng của vua dựa trên Lời Ngài. Chính Ngài là Thiên Chúa mà chằng bao lâu nữa ngôn sứ Isaia sẽ gọi hai lần, “Thiên Chúa của Amen” (x. Is 65:16), nền tảng bền vững của lòng trung thành với Giao Ước. Người ta có thể nghĩ rằng bản Hy Lạp của Thánh Kinh, khi dịch đứng vững” thay vì “hiểu”, đã tạo ra một thay đổi sâu xa trong văn bản, vì việc đổi từ khái niệm tin tưởng vào Thiên Chúa trong Thánh Kinh sang khái niệm hiểu biết của Hy Lạp. Bản dịch này, tuy chắc chắn là chấp nhận đối thoại với nền văn hóa Hy Lạp, nhưng đă không bỏ qua động lực cơ bản sâu xa của văn bản Do Thái. Thật ra, lời hứa chắc chắn của ngôn sứ Isaia cho nhà vua, là do sự hiểu biết về hoạt động của Thiên Chúa cùng sự hiệp nhất mà Ngài ban cho đời sống con người và lịch sử của dân Ngài. Ngôn sứ khuyến khích nhà vua hiểu đường lối của Chúa, bằng cách tìm kiếm trong sự thành tín của Thiên Chúa chương trình khôn ngoan đang điều khiển nhiều kỷ nguyên. Thánh Augustinô đã trình bày sự tổng hợp của “hiểu biết” và “đứng vững” trong sách Tư Thú của ngài khi ngài nói về chân lý, mà dựa vào đó chúng ta có thể đứng vững “trong Ngài [Chúa], trong chân lý của Ngài, con sẽ được kiên địnhvững vàng [17]. Từ bối cảnh này, chúng ta biết rằng Thánh Augustinô muốn vạch ra cách chân lý đáng tin cậy này của Thiên Chúa trung thành hiện diện trong lịch sử như thế nào, khả năng giữ thời gian cùa nó, qua việc kết hợp những ngày bị phân tán của con người, như thấy rõ trong Thánh Kinh [18].

24. Khi đọc dưới ánh sáng này, đoạn văn của ngôn sứ Isaia đưa đến một kết luận: con người cần sự hiểu biết, cần chân lý, bởi vì không có nó, con người không thể đứng vững được. Đức tin, nếu không có chân lý, thì không có khả năng cứu độ, không đảm bảo được bước đi của chúng ta. Nó vẫn còn là một câu chuyện đẹp, phóng chiếu những ao ước hạnh phúc của chúng ta, một cái gì đó mà chỉ thỏa mãn chúng ta vì chúng ta muốn lừa dối chính mình. Hoặc nó bị giảm xuống thành một cảm giác tốt đẹp, có thể an ủi và sưởi ấm, nhưng vẫn còn liên quan đến tâm trạng của chúng ta, theo sự thay đổi của thời gian, không có khả năng nâng đỡ một cuộc hành trình liên tục trong đời sống chúng ta. Nếu đức tin là như thế, thì vua Aha đã làm đúng vì đã không đánh cá cuộc sống và sự an toàn của vương quốc của ông trên một cảm giác. Bằng sự nối kết nội tại của nó với chân lý, đức tin có thể cung cấp một ánh sáng mới trên các tính toán của nhà vua, bởi vì nó thấy xa hơn, bởi vì nó bao gồm các hoạt động của Thiên Chúa, trung thành với Giao Ước và những lời hứa của Ngài.

25. Ngày nay, chính vì cuộc khủng hoảng chân lý trong đó chúng ta đang sống, nên hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải nhắc lại mối liên hệ giữa đức tin và chân lý. Trong văn hóa đương thời, người ta thường có khuynh hướng chỉ chấp nhận như chân lý những sự thật của kỹ thuật: chân lý là những gì con người có thể xây dựng và đo lường dựa vào kiến ​​thức của họ. Một điều là chân lý vì nó hiệu quả, do đó làm cho cuộc sống được thoải mái và dễ dàng hơn. Ngày nay chân lý ấy dường như là chân lý chắc chắn duy nhất, duy nhất mà chúng ta có thể chia sẻ với những người khác, duy nhất mà chúng ta có thể thảo luận và trong đó người ta có thể cùng nhau tham gia. Hơn nữa còn có những chân lý của mỗi người, bao gồm tình trạng đích thực mà mọi người đều cảm thấy trong lòng, những chân lý chỉ có giá trị cho cá nhân và không có thể đề nghị cho những người khác với ý định phục vụ công ích. Chân lý cao cả, chân lý giải thích tất cả mọi sự của cuộc sống cá nhân và xã hội, bị người ta nhìn với đôi mắt nghi ngờ. Người ta tự hỏi rằng nó chẳng phải là chân lý mà những chế độ chuyên chế lớn của những thế kỷ trước đã mong muốn, một chân lý áp đặt vũ trụ quan của nó để nghiền nát lịch sử cụ thể của từng cá nhân sao? Chung cuộc, chỉ còn lại một thuyết tương đối, trong đó câu hỏi về chân lý phổ quát, mà cơ bản cũng là một câu hỏi về Thiên Chúa, không còn được quan tâm nữa. Trong bối cảnh này, việc người ta muốn loại bỏ sự kết nối giữa tôn giáo với chân lý là điều hợp lý, bởi vì sự kết nối ấy sẽ là căn nguyên của cuồng tín, tìm cách để đàn áp những người không chia sẻ cùng một niềm tin. Chúng ta có thể nói, về đề tài này, về một sự mất trí nhớ lớn trong thế giới hiện đại của chúng ta. Thực ra, câu hỏi về chân lý là một vấn đề của ký ức, của ký ức sâu xa, bởi vì nó đề cập đến những người đi trước chúng ta, và nó có thể thành công trong việc kết hợp chúng ta một cách vượt trên “cái tôi” nhỏ bé và giới hạn của mình. Đây là một câu hỏi về nguồn gốc của tất cả, trong ánh sáng của nó người ta có thể nhìn thấy mục đích và cũng là ý nghĩa của con đường chung của chúng ta.

Sự hiểu biết về chân lý và tình yêu

26. Trong trường hợp này, đức tin Kitô giáo có thể cung cấp một phục vụ cho công ích về một cách thế đúng đắn để hiểu chân lý không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải suy nghĩ về loại kiến ​​thức phù hợp với đức tin. Một cách diễn tả của Thánh Phaolô có thể giúp cho điều này, khi ngài nói, “tin trong trái tim” (x. Rm 10:10). Theo Thánh Kinh thì trái tim là trung tâm của con người, là nơi giao nhau của tất cả các chiều kích khác nhau của nó: thân thể và tinh thần; nội tâm của con người và sự cởi mở của người ấy với thế giới và với những người khác; trí tuệ , ý chí và tình cảm. Vâng, nếu trái tim có khả năng kết hợp các chiều kích này, vì nó là nơi mà chúng ta mở lòng ra cho chân lý và tình yêu, và là nơi chúng ta để cho mình được chạm đến và biến đổi sâu xa bởi chúng. Đức tin biến đổi toàn thể con người, theo mức độ mà nó mở ra cho tình yêu. Chính ở nơi gặp gỡ giữa đức tin với tình yêu này mà chúng ta biết được loại hiểu biết thích hợp với đức tin, sức thuyết phục và khả năng soi sáng những bước đi của chúng ta của nó. Đức tin biết theo mức độ mà nó gắn liền với tình yêu, theo mức độ mà tình yêu tự nó mang một ánh sáng. Sự hiểu biết về đức tin là điều phát sinh khi chúng ta nhận được tình yêu cao cả của Thiên Chúa là Đấng biến đổi chúng ta từ bên trong và ban cho chúng ta đôi mắt mới để nhìn thực tại.

27. Cách thế mà triết gia Ludwig Wittgenstein giải thích về mối liên hệ giữa đức tin và sự chắc chắn được rất nhiều người biết đến. Theo ông thì tin tương tự như kinh nghiệm về yêu đương, một kinh nghiệm được hiểu như chủ quan, mà người ta không thể đề nghị như một chân lý thích hợp cho tất cả mọi người [19]. Thực ra, đối với con người hiện đại câu hỏi về tình yêu dường như không có liên quan gì đến chân lý. Tình yêu ngày nay được hiểu như một kinh nghiệm liên quan đến thế giới cảm xúc hay thay đổi, chứ không còn là chân lý.

Đây thực sự là một mô tả đầy đủ về tình yêu không? Thực ra, tình yêu không thể bị thu gọn thành một cảm xúc nay đến mai đi. Đương nhiên nó ảnh hưởng đến yếu tố tình cảm của chúng ta, nhưng để mở ra cho người mình yêu và để bắt đầu một cuộc hành trình, thì phải từ bỏ việc đóng cái “tôi” riêng lại để đi về phía người khác, để xây dựng một mối liên hệ lâu dài; tình yêu là sự hiệp thông với người mình yêu. Do đó, rõ ràng theo một nghĩa nào đó, tình yêu cần chân lý. Chỉ khi nào tình yêu dựa trên chân lý thì nó mới có thể đứng vững với thời gian, vượt trên những giây phút thoáng qua và vững vàng để nâng đỡ một cuộc hành trình chung. Nếu tình yêu không liên kết với chân lý, nó lệ thuộc vào sự bất ổn của tình cảm và không thể vượt qua được sự thử thách của thời gian. Tuy nhiên, tình yêu đích thực, kết hợp tất cả các yếu tố của con người chúng ta, và trở thành một ánh sáng mới hướng đến một cuộc sống cao cả và sung mãn. Nếu không có chân lý thì tình yêu không thể cung cấp mối dây liên hệ vững chắc, nó không thành công trong việc đem cái “tôi” ra khỏi sự cô lập, cũng không giải phóng nó khỏi những giây phút thoáng qua để xây dựng đời sống và sinh hoa kết quả.

Nếu tình yêu cần chân lý, thì chân lý cũng cần tình yêu. Tình yêu và chân lý không thể tách rời nhau được. Nếu không có tình yêu, chân lý trở nên lạnh lẽo, trở thành vô cảm và đàn áp cuộc sống cụ thể của con người. Chân lý mà chúng ta tìm kiếm đem lại ý nghĩa cho bước đường của chúng ta, soi sáng chúng ta khi chúng ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thì hiểu rằng tình yêu là một kinh nghiệm về chân lý, chính nó mở mắt chúng ta để thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong sự kết hợp với người mình yêu. Theo nghĩa này, Thánh Grêgôriô Cả đã viết rằng “amor ipse notitia est - tình yêu tự nó là kiến ​​thức, mang trong nó một luận lý mới [20]. Nó là một cách nhìn về thế giới với sự liên hệ, trở thành sự hiểu biết được chia sẻ, một cái nhìn theo nhãn quan của người khác và cái nhìn chung về tất cả mọi sự. Guillaume de Saint Thierry, thời Trung cổ, theo truyền thống này khi ông chú giải về một câu Nhã Ca mà ở đó tình quân nói với tình lang: Đôi mắt của em là mắt bồ câu (x. Nc 1:15) [ 21]. Guillaume giải thích rằng đôi mắt của người yêu, là lý trí có đức tin và tình yêu, sẽ trở thành một mắt duy nhất để chiêm ngắm Thiên Chúa, khi trí tuệ là “một trí tuệ của tình yêu được giác ngộ” [22].

28. Việc khám phá này về tình yêu, như nguồn mạch của sự hiểu biết, là một phần của kinh nghiệm ban đầu của mọi người, được diễn tả bằng một quan niệm về đức tin trong Thánh Kinh. Nhờ nếm thử tình yêu mà qua đó Thiên Chúa đã chọn họ và thiết lập họ thành một dân tộc, dân Israel cảm nhận được sự thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa, từ khởi thủy của nó cho đến hoàn thành. Sự hiểu biết về đức tin, vì được phát sinh từ tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng thực hiện Giao Ước, nên là sự hiểu biết soi sáng cuộc hành trình trong lịch sử. Đây cũng là lý do tại sao trong Thánh Kinh, chân lý và lòng trung thành đi đôi với nhau, và Thiên Chúa thật là Thiên Chúa trung tín, Đấng giữ những lời hứa của Ngài, và cho phép người ta hiểu được kế hoạch của Ngài trong thời gian. Qua kinh nghiệm của các ngôn sứ, trong đau khổ của cuộc lưu đầy và hy vọng về việc dứt khoát trở lại thành thánh, dân Israel có cảm giác rằng chân lý này của Thiên Chúa trải ra ngoài lịch sử họ của nó để bao trùm lịch sử của toàn thế giới, kể từ lúc tạo dựng. Sự hiểu biết về đức tin soi sáng không những chỉ cuộc hành trình đặc biệt của một dân tộc, nhưng toàn thể cuộc hành trình của thế giới tạo vật, từ nguyên thủy của nó để ngày viên mãn.

Đức tin như thính giácthị giác

29. Bởi vì sự nhiểu biết về đức tin nối liền với Giao Ước của một Thiên Chúa thành tín, Đấng thiết lập một liên hệ tình yêu với con người và nói với họ bằng Lời, được trình bày trong Thánh Kinh như một sự lắng nghe và liên hệ với thính giác. Thánh Phaolô sử dụng một công thức đã trở thành cổ điển: fides ex auditu, “đức tin đến bởi nghe” (Rm 10:17). Liên hệ với lời nói, sự hiểu biết luôn luôn là sự hiểu biết cá nhân, một sự hiểu biết nhận ra giọng nói, tự nguyện mở ra cho giọng nói ấy và làm theo nó trong sự vâng phục. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô đã nói về “sự vâng phục của đức tin” (x. Rm 1: 5, 16, 26) [23]. Hơn nữa, đức tin là sự hiểu biết liên quan đến quá trình thời gian, mà lời cần phải có để nói: đó là một kiến thức chỉ có thể học được bằng cách đi theo [Thầy] trong cuộc hành trình (sequela). Việc nghe giúp ta trình bày lại cách rõ ràng hơn mối liên hệ giữa kiến ​​thức và tình yêu.

Đối với kiến thức về chân lý, đôi khi thính giác lại trái ngược với thị giác, và đó là sự đặc thù của nền văn hóa Hy Lạp. Nếu, một đàng, ánh sáng giúp chúng ta chiêm ngắm toàn diện những gì mà con người vẫn luôn luôn mơ ước, thì đàng khác, dường như nó không còn dành một chỗ nào cho tự do, vì nó xuống từ trời và đi thẳng vào mắt mà không đòi mắt trả lời. Ngoài ra, nó có vẻ mời một chiêm niệm tĩnh, tách biệt khỏi điều kiện cụ thể trong đó con người vui mừng và đau khổ. Theo quan niệm này, tiếp cận Thánh Kinh về hiểu biết trái ngược với tiếp cận của Hy Lạp, vì người Hy Lạp nối kết kiến thức với thị giác trong khi theo đuổi sự hiểu biết toàn diện về thực tại.



Tuy nhiên, rõ ràng là sự đối chọi giả tạo này không phù hợp với tường thuật trong Thánh Kinh. Cựu Ước, đã dung hòa hai loại hiểu biết này, bởi vì việc lắng nghe Lời Thiên Chúa gắn liền với ước muốn được nhìn thấy Thánh Nhan Ngài. Bằng cách này, có thể khai triển một cuộc đối thoại với nền văn hóa Hy Lạp, đối thoại là trung tâm của Thánh Kinh. Thính giác minh chứng cho ơn gọi cá nhân và sự vâng phục, cùng sự thật là chân lý được mặc khải trong thời gian; thị giác cung cấp một viễn tượng đầy đủ về toàn thể cuộc hành trình và cho phép nó nằm trong kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa; không có cái nhìn này, chúng ta sẽ chỉ có những mảnh vụn riêng rẽ của một tổng thể hoàn toàn không ai biết đến.

30. Sự kết nối giữa thị giác và thính giác, như các cơ quan của sự hiểu biết về đức tin, hiển hiện rõ ràng hơn trong Tin Mừng Thánh Gioan. Theo Tin Mừng thứ tư thì tin chính là lắng nghe và đồng thời nhìn thấy. Sự lắng nghe của đức tin xảy ra trong hình thức hiểu biết đặc trưng cho tình yêu: đó là một sự lắng nghe cá nhân, phân biệt được và nhận ra giọng của Chúa Chiên Lành (x. Ga 10:3-5); một sự lắng nghe đòi hỏi nơi các môn đệ, như đã xảy ra với các môn đệ đầu tiên, những người “nghe những lời ấyđi theo Chúa Giêsu” (Ga 1:37). Đằng khác, đức tin cũng liên quan đến thị giác. Đôi khi việc nhìn thấy những dấu chỉ của Chúa Giêsu đi trước đức tin, như với người những Do Thái, sau khi ông Ladarô sống lại, “nhìn thấy những gì Người đã làm tin vào Người” (Ga 11:45). Lần khác, chính đức tin dẫn đến một cái nhìn sâu sắc hơn: “Nếu con tin, con sẽ nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 11:40). Cuối cùng, tin và nhìn thấy gắn bó với nhau: “Ai tin Tôi (...) tin Đấng đã sai tôi; ai thấy Tôi thấy Đấng đã sai Tôi(Ga 12:44-45). Nhờ sự liên kết với việc nghe này, cái nhìn trở thành một quyết tâm đi theo Đức Kitô, và đức tin xuất hiện như một tiến trình chăm chú nhìn, trong đó đôi mắt học được thói quen nhìn theo chiều sâu. Và như thế, vào buổi sáng Phục Sinh, chúng ta chuyển từ Gioan, người vẫn còn trong bóng tối trước ngôi mộ trống, đã thấy và đã tin” (Ga 20:8) sang Maria Magdalena là người từ khi nhìn thấy Chúa Giêsu (x. Ga 20:14) và muốn ôm chặt lấy Người, nhưng được mời chiêm ngắm việc Người lên cùng Chúa Cha; cho đến lời thú nhận trọn vẹn của cũng Maria Magdalena này với các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa! (Ga 20:18).

Làm thế nào chúng ta đạt được sự tổng hợp này giữa việc nghe và việc nhìn thấy? Điều này có thể được qua chính con người Chúa Giêsu, là Đấng chúng ta có thể thấy và nghe. Người là Ngôi Lời Nhập Thể, mà chúng ta đã chiêm ngắm vinh quang của Người (x. Ga 1:14). Ánh sáng đức tin là ánh sáng của một Dung Nhan mà trên đó chúng ta thấy Chúa Cha. Thật vậy, trong Tin Mừng thứ tư, chân lý mà đức tin cảm nhận được, là việc tỏ lộ Chúa Cha trong Chúa Con, trong thân xác của Người và trong các việc làm của Người khi còn tại thế, chúng ta có thể định nghĩa chân lý là “cuộc đời đầy ánh sáng” của Chúa Giêsu [24 ]. Điều này có nghĩa là sự hiểu biết về đức tin không mời gọi chúng ta nhìn vào một chân lý hoàn toàn nội tâm. Chân lý mà đức tin mở ra cho chúng ta là một chân lý đặt trọng tâm vào cuộc gặp gỡ Đức Kitô, vào việc chiêm ngắm cuộc đời của Người, vào ý thức về sự hiện diện của Người. Theo ý nghĩa này, Thánh Thôma Aquinô nói về oculata fides của các Tông Đồ - một đức tin nhìn thấy! – trước việc nhìn thấy thân thể của Đấng Phục Sinh [25]. Các ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh với đôi mắt của các ông và các ông đã tin, nghĩa là các ông đã có thể thấu suốt chiều sâu của những gì các ông thấy để tuyên xưng Con Thiên Chúa, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha.

31. Chỉ bằng cách này, qua việc Nhập Thể, qua việc chia sẻ bản tính của nhân loại chúng ta, mà sự hiểu biết đúng về tình yêu có thể hoàn toàn th hiện. Thực ra, ánh sáng tình yêu nảy sinh khi con tim chúng ta được chạm đến, và chúng ta đón nhận sự hiện diện nội tâm của Đấng mình yêu, là Đấng cho phép chúng ta nhận ra mầu nhiệm của Người. Như vậy, chúng ta hiểu lý do tại sao, với thính giác và thị giác, đức tin, theo Thánh Gioan, là một “sự chạm đến”, như ngài nói trong thư thứ nhất: “(...) điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt (...) điều tay chúng tôi đã chạm đến Lời ban sự sống (1 Ga 1: 1). Qua việc Nhập Thể của Người, qua việc đến giữa chúng ta, Chúa Giêsu đã chạm vào chúng ta, và qua các Bí Tích Người cũng chạm vào chúng ta hôm nay; bằng cách này, qua việc biến đổi tâm hồn chúng ta, Người đã và đang cho phép chúng ta nhận ra và tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta có thể chạm đến Người và nhận được sức mạnh của ân sủng Người. Thánh Augustinô, khi chú giải về ​​đoạn nói về người phụ nữ bị băng huyết chạm vào Chúa Giêsu để được chữa lành (Lc 8:45-46) xác quyết rằng: “Chạm đến bằng con tim, đó chính là tin” [26]. Đám đông vây quanh Người, nhưng họ không đến được với Người bằng việc chạm đến cách cá nhân của đức tin, là điều nhận ra mầu nhiệm của Người, bản chất Chúa Con của Người là Đấng mặc khải Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thì chúng ta mới nhận được đôi mắt đầy đủ để nhìn thấy.

Cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí

32. Vì rao giảng chân lý về tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa và mở lòng ra với quyền năng của tình yêu này, mà đức tin Kitô giáo đi thật sâu vào trung tâm của kinh nghiệm của mỗi người, là những kẻ đến cùng ánh sáng nhờ tình yêu và được mời gọi yêu thương để ở lại trong ánh sáng. Được thúc đẩy bởi ước ao soi sáng tất cả thực tại bằng tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu và tìm cách yêu thương với tình yêu này, các Kitô hữu tiên khởi tìm thấy trong thế giới Hy Lạp, trong sự đói khát chân lý của nó, một đối tác thích hợp cho cuộc đối thoại. Cuộc gặp gỡ giữa sứ điệp Tin Mừng và các tư tưởng triết học của thế giới cổ đại là một bước quyết định để Tin Mửng đến với mọi dân tộc. Nó thuận lợi cho một sự tương tác hiệu quả giữa đức tin và lý trí, một tương tác luôn luôn phát triển qua nhiều kỷ nguyên cho đến thời đại chúng ta. Chân Phước Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp Fides et Ration (Đức tin và Lý trí), đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố lẫn nhau thế nào [27]. Khi chúng ta tìm thấy ánh sáng trọn vẹn của tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng, trong tất cả tình yêu của chúng ta, đã có một tia của ánh sáng ấy và chúng ta hiểu được mục tiêu cuối cùng của nó gì. Và, đồng thời, sự thể là tình yêu của chúng ta chứa đựng một ánh sáng trong nó, giúp chúng ta nhìn thấy con đường tình yêu hướng đến sự viên mãn của món quà tự hiến hoàn toàn của Con Thiên Chúa dành cho chúng ta. Trong chuyển động vòng tròn này, ánh sáng đức tin soi sáng tất cả các mối liên hệ nhân loại của chúng ta, để chúng ta có thể sống trong sự hiệp thông với tình yêu và sự ân cần của Đức Kitô.

33. Trong cuộc đời của Thánh Augustinô, chúng ta thấy một ví dụ quan trọng về cuộc hành trình này, trong đó việc tìm kiếm của lý trí, với ước ao của ngài về chân lý và sự rõ ràng, đã hòa nhập vào chân trời đức tin, từ đó nó đã nhận được một sự hiểu biết mới. Một mặt, Thánh Augustinô chấp nhận triết lý Hy Lạp về ánh sáng với việc nhấn mạnh đến thị giác. Cuộc gặp gỡ với chủ nghĩa Tân Platon giới thiệu ngài với mô thức ánh sáng, là ánh sáng chiếu từ trên xuống để soi sáng mọi sự, và do đó cũng là một biểu tượng của Thiên Chúa. Bằng cách này, Thánh Augustinô đã hiểu sự siêu việt của Thiên Chúa và đã khám phá ra rằng tất cả mọi sự đều có trong chính mình một sự trong sáng nào đó, và có thể nói rằng chúng có thể phản ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa, là Đấng Nhân Lành. Ngài được giải thoát khỏi học thuyết của Mani giáo mà ngài sống trước đó, là thuyết làm cho ngài tin rằng lành và dữ liên tục đối chọi nhau, pha trộn và kết hợp với nhau, mà không có đường nét rõ ràng. Việc hiểu rằng Thiên Chúa là ánh sáng cho ngài một hướng đi mới trong cuộc đời, cho ngài khả năng nhận ra sự dữ và tình trạng tội lỗi của ngài, và trở về với điều lành.

Tuy nhiên, mặt khác, trong kinh nghiệm thực tế của Thánh Augustinô, như ngài kể trong Tự Thú của ngài, giây phút quyết định trong cuộc hành trình đức tin của ngài không phải là một thị kiến về Thiên Chúa ở trên cao và vượt ra ngoài thế gian này, mà là giây phút lắng nghe, trong vườn khi ngài nghe có tiếng nói với mình: “Hãy cầm lấy và đọc”; và ngài cầm quyển sách có các Thư của Thánh Phaolô lên và ngừng lại ở chương thứ mười ba của Thư gửi tín hữu Rôma [28]. Bằng cách này Thiên Chúa cá nhân của Thánh Kinh tỏ mình ra với ngài, có thể nói chuyện với con người, xuống để sống với họ và đồng hành với họ trong hành trình qua lịch sử, qua việc xuất hiện trong giây phút lắng nghe và đáp trả.

Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Lời đã không đưa Thánh Augustinô đến việc chối bỏ ánh sáng và thị giác. Luôn được hướng dẫn bởi mặc khải về tình yêu Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, ngài dung hợp hai quan điểm. Và do đó ngài đã khai triển một triết lý về ánh sáng có thể đón nhận vào mình sự hỗ tương thích hợp với lời và mở ra một không gian tự do nhìn về phía ánh sáng. Cũng như lời là một đáp trả tự do, thì ánh sáng cũng tìm thấy một hình ảnh phản chiếu nó như một sự đáp trả. Như thế, Thánh Augustinô có thể nói về “lời chiếu sáng nội tâm con người” nhờ kết hợp thính giác và và thị giác [29]. Bằng cách này, chúng ta có thể nói rằng, ánh sáng trở thành ánh sáng của một lời, bởi vì nó là ánh sáng của một Dung Nhan cá nhân, một ánh sáng chiếu soi trong chúng ta, mời gọi chúng ta và muốn phản ảnh trên khuôn mặt chúng ta ngõ hầu cũng tỏa sáng từ bên trong chính chúng ta. Hơn nữa, ao ước được nhìn thấy toàn thể, chứ không chỉ những mảnh vụn của lịch sử, vẫn còn đó và chung cuộc sẽ được thỏa mãn, khi con người, như Giám Mục thành Hippo nói, sẽ thấy và sẽ yêu [30]. Và điều này, không phải vì người ấy sẽ có tất cả ánh sáng, là điều không bao giờ thiếu, nhưng bởi vì người ấy sẽ hoàn toàn bước vào trong ánh sáng.

34. Ánh sáng của tình yêu, thích hợp với đức tin, có thể soi sáng những câu hỏi của thời đại chúng ta về chân lý. Ngày nay chân lý thường bị giảm xuống thành sự xác thực chủ quan của mỗi người, chỉ có giá trị cho cuộc sống cá nhân. Một chân lý chung làm cho chúng ta sợ hãi bởi vì chúng ta đồng hóa nó với việc áp đặt không nhượng bộ của chủ nghĩa chuyên chế. Nhưng nếu chân lý là chân lý của tình yêu, nếu nó là chân lý được tìm thấy trong việc gặp gỡ Đấng Khác và những người khác, như thế nó được giải phóng khỏi việc bị đóng kín trong cá nhân và có thể trở thành một phần của công ích. Bởi vì chân lý của tình yêu không phải là một chân lý cần phải được áp đặt bằng bạo lực, không phải là một chân lý đè bẹp cá nhân. Vì được sinh ra từ tình yêu, nó có thể đến tận con tim, đến trung tâm của mỗi người. Như thế rõ ràng là đức tin không cố chấp, nhưng lớn lên trong sự chung sống và tôn trọng người khác. Các tín hữu không kiêu căng, trái lại, chân lý làm cho họ khiêm tốn, vì biết rằng mình không phải là người sở hữu chân lý, nhưng chính chân lý bao trùm và sở hữu mình. Thay vì làm cho họ thành cứng ngắt, sự an toàn của đức tin đặt họ trên một cuộc hành trình, làm cho họ có thể thành chứng nhân ​​và có thể đối thoại với mọi người.

Mặt khác, ánh sáng đức tin, trong việc kết hợp với chân lý của tình yêu, không xa lạ gì với thế giới vật chất, bởi vì tình yêu luôn luôn sống trong thân xác và linh hồn; ánh sáng Đức tin là một ánh sáng nhập thể tỏa ra từ cuộc đời đầy ánh sáng của Chúa Giêsu. Nó cũng chiếu soi vật chất, tùy thuộc vào trật tự của có, biết rằng tự nó sẽ mở ra một con đường hòa hợp và hiểu biết rộng lớn hơn bao giờ hết. Cái nhìn về khoa học như thế có lợi cho đức tin: điều này mời gọi các nhà nghiên cứu tiếp tục đón nhận thực tại, trong tất cả sự phong phú vô tận của nó. Đức tin đánh thức tinh thần phê phán bằng cách tránh cho việc nghiên cứu hài lòng với những công thức của mình và giúp nó hiểu rằng thiên nhiên luôn luôn rộng lớn hơn. Bằng cách mời gọi nó kinh ngạc trước mầu nhiệm của việc tạo dựng, đức tin mở rộng chân trời của lý trí để làm sáng tỏ hơn về thế giới là điều tự mở ra cho nghiên cứu khoa học.



Đức tin và việc tìm kiếm Thiên Chúa

35. Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng là con đường của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và cung cấp sự đóng góp cụ thể của Kitô giáo trong cuộc đối thoại với những người theo các tôn giáo khác nhau. Thư gửi tín hữu Do Thái nói cho chúng ta về chứng từ của những người công chính, là những người đã tìm kiếm Thiên Chúa bằng đức tin, trước khi có Giao Ước với ông Abraham. Về ông Enoch, Thư nói rằng ông đã được chứng giám là đẹp lòng Thiên Chúa (Dt 11:5), là điều không thể được nếu không có đức tin, bởi vì ai đến gần Thiên Chúa thì phải tin là Ngài hiện hữu và Ngài thưởng công những ai tìm kiếm Ngài (Dt 11: 6). Chúng ta cũng có thể hiểu rằng con đường của con người tôn giáo đi qua lời tuyên xưng về một Thiên Chúa, là Đấng chăm sóc họ và là Đấng họ có thể tìm thấy được. Còn phần thưởng nào khác Thiên Chúa có thể ban cho những kẻ tìm kiếm Ngài, nếu không phải là để cho họ gặp Ngài? Trước nữa, chúng ta tìm thấy nhân vật Abel, mà người ta cũng ca ngợi đức tin vì Thiên Chúa chấp nhận những của lễ của ông dâng lên Ngài, những con chiên đầu lòng của đàn chiên của ông (x. Dt 11:4). Con người tôn giáo tìm cách nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa trong những kinh nghiệm hàng ngày của cuộc đời họ, trong chu kỳ các mùa, trong hoa mầu ruộng đất và tất cả chuyển động của vũ trụ. Thiên Chúa là ánh sáng, và Ngài cũng có thể được tìm thấy bởi những kẻ tìm kiếm Ngài với một tấm lòng thành.

Hình ảnh của cuộc tìm kiếm này có thể được tìm thấy nơi các nhà đạo sĩ, được hướng dẫn bởi ngôi sao đến tận Bethlehem (x. Mt 2:1-12). Đối với họ, ánh sáng của Thiên Chúa tỏ lộ như con đường, như ngôi sao hướng dẫn họ trên một con đường khám phá dài. Ngôi sao cũng nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa với đôi mắt của chúng ta, cần phải trở nên quen thuộc với sự rạng ngời của Ngài. Con người tôn giáo đang trên đường đi và sẵn sàng để cho mình được hướng dẫn, ra khỏi nhà để tìm thấy Thiên Chúa, Đấng luôn luôn bất ngờ. Đối với đôi mắt của con người thì khía cạnh này của Thiên Chúa cho chúng ta thấy rằng, khi con người tiến lại gần Ngài, ánh sáng của con người không bị hòa tan trong ánh sáng bao la của Thiên Chúa, như một ngôi sao bị tràn ngập bởi bình minh, nhưng sẽ trở nên rực rỡ hơn khi nó đến gần ngọn lửa nguyên thủy, như tấm gương phản ánh huy hoàng. Lời tuyên xưng của Kitô giáo về Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, xác nhận rằng tất cả ánh sáng của Thiên Chúa được tập trung vào Người, vào “cuộc đời đầy ánh sáng” của Người, trong đó tỏ lộ khởi thủy và cùng đích của lịch sử [31]. Không có kinh nghiệm nào của con người, không có con đường nào của con người hướng về Thiên Chúa, mà không thể được đón nhận, thanh lọc và soi sáng bởi ánh sáng này. Một Kitô hữu càng đắm chìm trong vòng được mở ra bởi ánh sáng của Đức Kitô, thì càng có khả năng hiểu và đi cùng con đường của tất cả mọi người người về phía Thiên Chúa.



Vì đức tin được hình thành như một con đường, nó cũng liên quan đến cuộc sống của con người, ngay cả trong những kẻ không tin, những kẻ ước muốn tin và những kẻ không ngừng tìm kiếm. Theo mức độ mở lòng ra với tình yêu từ một con tim chân thành và bắt đầu lên đường với ánh sáng này mà họ có thể nắm bắt được, họ đã sống trên đường hướng về đức tin mà không biết. Họ cố gắng hành động như thể Thiên Chúa hiện hữu, đôi khi vì họ nhận ra tầm quan trọng của Ngài trong việc tìm hướng đi vững chắc trong cuộc sống bình thường hay vì họ cảm nghiệm một ao ước ánh sáng giữa bóng tối, nhưng cũng vì ý thức được rằng cuộc sống cao quý và đẹp đẽ như thế nào, họ thấy trước rằng sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm cho nó thậm chí cao cả hơn. Thánh Irênê kể lại rằng ông Abraham, trước khi lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa, đã tìm Ngài bằng “một ao ước mãnh liệt của linh hồn” và “ông chạy khắp trái đất tìm xem Thiên Chúa ở đâu” cho đến khi “Thiên Chúa thương xót ông, là người một mình đã tìm Ngài trong thinh lặng” [32]. Bất cứ ai bắt đầu con đường làm việc lành cho tha nhân thì đã được gần Thiên Chúa rồi, đã được nâng đỡ bởi sự giúp đỡ của Ngài, bởi vì nó là đặc trưng của sự năng động của ánh sáng thần linh để thắp sáng đôi mắt của chúng ta khi chúng ta bước đi về phía sự viên mãn của tình yêu.

Đức tin và thần học

36. Vì đức tin là một ánh sáng, nó thúc đẩy chúng ta bước vào chính nó, để khám phá rộng rãi hơn nữa chân trời mà nó soi sáng, để hiểu rõ hơn những gì mà chúng ta yêu thích. Thần học Kitô giáo được sinh ra từ ước muốn này. Như vậy rõ ràng là thần học không thể không có đức tin, và nó là thành phần của chính tiến trình đức tin, tìm kiếm sự hiểu biết sâu xa hơn nữa của việc tự mặc khải của Thiên Chúa, đạt đến tột đỉnh trong Mầu Nhiệm Đức Kitô. Kết quả đầu tiên là thần học không chỉ cung cấp, như trong các ngành khoa học thực nghiệm, một nỗ lực của lý trí để nghiên cứu kỹ lưỡng và hiểu biết. Không thể thu gọn Thiên Chúa thành một đối tượng. Ngài là một chủ thể, Đấng mặc khải chính mình và tỏ mình ra trong mối liên hệ giữa người với người. Đức tin đúng hướng dẫn lý trí để mở ra cho ánh sáng đến từ Thiên Chúa, do đó, được hướng dẫn bởi tình yêu của chân lý, nó có thể nhận biết Thiên Chúa cách sâu xa hơn. Các tiến sỹ Hội Thánh và các thần học gia vĩ đại thời Trung Cổ đã quả quyết rằng thần học, như một khoa học của đức tin, là việc thông phần vào sự hiểu biết của chính Thiên Chúa. Do đó, thần học không chỉ là một lời về Thiên Chúa, nhưng trước hết là chấp nhận và tìm kiếm một sự hiểu biết sâu xa hơn về những lời mà Thiên Chúa nói với chúng ta, lời mà Thiên Chúa nói về chính Ngài, bởi vì Ngài là một cuộc đối thoại vĩnh cửu về sự hiệp thông, và Ngài đón nhận con người vào cuộc cuộc đối thoại này [33]. Như thế, sự khiêm nhường tham dự vào thần học bằng cách cho phép nó được Thiên Chúa “chạm đến”, nhìn nhận những giới hạn của nó trước những Mầu nhiệm và cố gắng tìm hiểu sự phong phú khôn lường của Mầu Nhiệm này với kỷ luật lý thích hợp cho lý trí.

Thần học cũng chia sẻ hình thức Hội Thánh của đức tin; ánh sáng của nó là ánh sáng về chủ đề đức tin là Hội Thánh. Một mặt, điều này có nghĩa là thần học được dùng để phục vụ đức tin Kitô giáo, nó phải khiêm tốn gìn giữ và đào sâu niềm tin của mọi người, đặc biệt là những người đơn sơ nhất. Mặt khác, thần học, vì sống nhờ đức tin, không được coi Huấn Quyền của Giáo Hoàng và các Giám Mục hiệp thông với ngài như một điều gì bên ngoài, một điều giới hạn sự tự do của mình, nhưng trái lại, phải như một trong những yếu tố nội tại và cấu thành của nó, bởi vì Huấn Quyền tiếp xúc với suối nguồn nguyên thủy, do đó cung cấp sự chắc chắn cho điều được rút ra từ Lời của Đức Kitô trong sự toàn vẹn của nó.

Chú thích

[17] XI, 30, 40: PL 32, 825.

[18] X. như trên., 825-826.

[19] X. Vermischte Bemerkungen / Văn hóa và Giá trị, ed. G.H. von Wright, Oxford, 1991, 32-33, 61-64.

[20] Homiliae in Evangelia, II, 27, 4: PL 76, 1207.

[21] X. Expositio sur Cantica Canticorum, XVIII, 88: CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 67.

[22] Như trên, XIX, 90:. CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 69.

[23] “Sự vâng phục của đức tin (Rm 16:26; so với Rm 1:5, 2; Cor 10:5-6) phải là sự đáp trả của chúng ta với Thiên Chúa là Đấng mạc khải. Nhờ đức tin mà một người tự nguyện dâng hiến toàn tâm trí và ý chí cho Thiên Chúa là Đấng mạc khải, và sẵn sàng chấp nhận sự mặc khải mà Thiên Chúa ban. Để có đức tin này, chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa tiền liệu và giúp đỡ, cũng như sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng chạm đến tâm hồn và hoán cải nó để trở về với Thiên Chúa, cùng mở đôi mắt của tâm trí và làm cho ‘mọi người dễ dàng đón nhận và tin vào chân lý’. Cùng một Chúa Thánh Thần liên tục hoàn thiện đức tin bằng những hồng ân của Ngài, ngõ hầu mặc khải càng ngày càng được hiểu biết sâu xa hơn” (Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa, Dei Verbum, 5).

[24] X. H. Schlier, Meditationen über den Johanneischen Begriff der Wahrheit, in: Besinnung auf das Neue Testament. Exegetische Aufsätze und Vorträge 2, Freiburg, Basel, Wien 1959, 272.

[25] X. S. Th. III, q. 55, a. 2, ad 1.

[26] Sermo 229/L, 2 : PLS 2, 576 : “Tangere autem corde, hoc est credere”.

[27] X. Thông Điệp Fides et Ratio (14 tháng 9 năm 1998), 73: AAS (1999), 61-62.

[28] X. Confessiones, VIII, 12, 29: PL 32, 762.

[29] De Trinitate, XV, 11, 20: PL 42, 1071: “verbum quod intus lucet”.

[30] X. De Civitate Dei, XXII, 30, 5: PL 41, 804.

[31] X. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), 15: AAS 92 (2000), 756.

[32] Demonstratio Apostolicae Predicationis, 24: SC 406, 117.

[33] X. S. Bonaventura, Breviloquium, Prol.: Opera omnia, V, Quaracchi 1891, 201; In I Sent., prooem., q. 1, resp.: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 7; S. Thomas Aquinas, S. Th. I, q. 1. 



VỀ MỤC LỤC



tải về 0.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương