III. BIỂN QUỐC TẾ VÀ ĐÁY ĐẠI DƯƠNG (La zone) 1 Biển quốc tế
1.1 Khái niệm và cách xác định
Thuật ngữ “biển quốc tế” còn gọi là “công hải” hay “biển cả”. Cho đến trước Hội nghị Luật biển lần thứ ba, về cơ bản, biển và đại dương được phân định làm hai vùng là lãnh hải thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển và công hải là phần còn lại mênh mông đặt dưới chế độ gọi là “tự do ở công hải”, mở ra cho các nước sử dụng, khai thác một cách bình đẳng, nhưng thực chất chỉ dành cho các nước có nền khoa học kỹ thuật phát triển đặc biệt là ngành hàng hải và khai thác biển.
Theo phần VII - Biển cả, mục 1, Điều 86 về phạm vi áp dụng, Công ước Luật biển năm 1982 định nghĩa biển quốc tế là: “...tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo...”. Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tính từ bờ biển ra bên ngoài, những vùng biển không phải là nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế, hoặc vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo chính là biển cả.
1.2 Chế độ pháp lý của biển quốc tế
a) Nguyên tắc tự do trên biển cả
Chế độ pháp lý của biển cả được tập trung chủ yếu trong nguyên tắc tự do ở biển cả. Theo nguyên tắc này, biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia có biển hay không có biển đều bình đẳng và tự do trong việc sử dụng biển. Quyền tự do trên biển cả bao gồm:
+ Tự do hàng hải;
+ Tự do hàng không;
+ Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ phần VI67;
+ Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
+ Tự do đánh bắt hải sản;
+ Tự do nghiên cứu khoa học, với điều kiện tuân thủ các phần VI và phần VIII.
Trong các quyền tự do nói trên, quyền tự do hàng hải và tự do hàng không bị hạn chế như đối với các quyền tự do khác thì bị hạn chế phần nào. Về quyền tự do đánh bắt cá ở biển cả không phải không có giới hạn mà ngược lại, quốc gia đánh bắt cá ở biển cả có nghĩa vụ tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích của các quốc gia ven biển; áp dụng các biện pháp để bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả; hợp tác quốc tế trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật68.
b) Địa vị pháp lý của tàu thuyền của các quốc gia trên biển cả
Khi hoạt động trên biển cả, tàu thuyền của các quốc gia có biển hay không có biển đều có quyền treo cờ của quốc gia tàu mang quốc tịch69. Các tàu thuyền chỉ được hoạt động dưới cờ của một quốc gia và, trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng trong các điều ước quốc tế hay công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia mà tàu thuyền đó mang cờ khi ở biển cả. Mặt khác, tàu thuyền của các quốc gia khi đi lại trên biển cả không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay trong một dịp đậu lại, trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu hay có thay đổi đăng ký70.
Đối với tàu chiến và tàu nhà nước dùng trong lĩnh vực phi thương mại, trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ71.
Ngoài ra, vì quyền lợi chung, tất cả các quốc gia đặc biệt là quốc gia ven biển hợp tác để giúp đỡ, tìm kiếm, cứu trợ các tàu và thủy thủ đoàn của tàu đang nguy khốn, tai nạn trên biển do đâm va72. Đồng thời, mọi quốc gia phải thi hành các biện pháp thích đáng để ngăn ngừa và trừng trị hành vi chuyên chở nô lệ73 cũng như hợp tác để trấn áp nạn cướp biển74, trấn áp việc buôn bán các chất ma túy và các chất kích thích75 hoặc phát sóng trái phép76.
Ngoài ra, trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một chiếc tàu nước ngoài ở trên biển cả mà không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ (tàu chiến và tàu nhà nước phi thương mại) thì có thể được quyền khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó:
- Tiến hành cướp biển;
- Chuyên chở nô lệ;
- Dùng vào các cuộc phát sóng không được phép;
- Không có quốc tịch, hay thật ra là cùng quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ của nước ngoài hay từ chối treo cờ của nước mình77. Cần lưu ý rằng, để tránh tình trạng tùy tiện khám xét tàu thuyền đang hoạt động trên biển quốc tế, Công ước quy định: “Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành động nào làm cho nó bị tình nghi78”.
2 Đáy đại dương (La zone)
2.1 Khái niệm và cách xác định đáy đại dương
Cho đến những năm 50 của thế kỷ XX, khoa học kỹ thuật nghiên cứu về biển và đại dương còn hạn chế nên các quốc gia trên thế giới vẫn chưa nhận thức hết ý nghĩa kinh tế lớn lao của khu vực này nên luật quốc tế chưa đề cập đến quy chế riêng của vùng đáy đại dương. Chính vì vậy mà người ta mặc nhiên coi nó là một bộ phận của biển cả và theo quy chế của biển cả.
Khi Công ước 1982 được ký kết thì vùng đã được tách ra và có chế độ pháp lý riêng biệt so với biển cả. Theo Điều 1 Công ước 1982, “vùng” (zone) là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia”. Như vậy, có thể hiểu rằng, vùng là toàn bộ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài ranh giới phía ngoài thềm lục địa của tất cả các quốc gia. Chính vì vậy, không phải tất cả phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của biển cả đều là vùng. Bởi lẽ, đối với những quốc gia có thềm lục địa rộng hơn 200 hải lý, thì một phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên dưới biển cả đang là thềm lục địa của quốc gia đó.
2.2 Chế độ pháp lý của đáy đại dương
Chế độ pháp lý của vùng được quy định từ Điều 136 đến Điều 142 Công ước 1982, theo đó vùng và tài nguyên của vùng là di sản chung của loài người (Điều 136). Đây là một nguyên tắc đặc thù của Luật biển, đặc biệt áp dụng cho vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển - vùng biển được xem là di sản chung của nhân loại. Theo nguyên tắc chung, vùng biển này là của chung, không thuộc về quyền sở hữu của bất kỳ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào. Trong thực tế thì việc khai thác và sử dụng vùng biển di sản này vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều lý do. Vấn đề quan trọng nhất đó là với khả năng công nghệ hiện tại của con người chưa thể tìm hiểu và nghiên cứu ở tất cả vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển vô cùng rộng lớn của nhân loại. Chính vì lẽ đó, hiện tại chúng ta vẫn chưa biết được chính xác ở vùng biển di sản tồn tại những loại tài nguyên gì, trữ lượng ra sao...
Thế nhưng, việc quy định nguyên tắc giữ gìn di sản chung của nhân loại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và thực hiện chế độ pháp lý về khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển. Nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau:
- Không một quốc gia nào có thể đòi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền khác ở một phần nào đó của vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển
- Không một quốc gia, pháp nhân hay cá nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ phần nào đó của vùng biển di sản.
- Toàn thể loài người mà cơ quan quyền lực quốc tế79 là đại diện có thẩm quyền tổ chức khai thác, quản lý và kiểm soát việc thực hiện các quyền đối với tài nguyên của vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
- Hoạt động ở vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được tiến hành vì lợi ích chung của nhân loại;
- Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển chỉ có thể được sử dụng vào mục đích hòa bình.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |