Bài Giảng Cuối Cùng Dr Randy Pausch Vũ Duy Mẫn Dịch o0o Nguồn



tải về 323.64 Kb.
trang4/7
Chuyển đổi dữ liệu13.10.2017
Kích323.64 Kb.
#33531
1   2   3   4   5   6   7

05.Thang máy ở nhà trệt


Sự tưởng tượng của tôi nhiều khi người khác khó có thể hình dung được. Cuối cấp phổ thông, tôi có một thôi thúc phải thể hiện những ý tưởng nung nấu trong đầu lên các bức tường ở phòng ngủ của mình.

“Con muốn vẽ các thứ lên tường ở phòng con,” tôi xin phép cha mẹ.

“Những thứ gì?” cha mẹ tôi hỏi.

“Những gì có ý nghĩa đối với con,” tôi nói. “Những gì con nghĩ là rất hay, rất độc đáo. Rồi ba mẹ sẽ thấy.”

Giải thích như vậy là đủ với cha tôi. Đó chính là điều thật tuyệt vời ở ông. Ông động viên sự sáng tạo của tôi bằng một nụ cười khích lệ. Ông ưa thích quan sát niềm say mê của tôi đơm hoa kết trái. Ông hiểu tôi và hiểu sự cần thiết được thể hiện mình theo những cách dị thường của tôi. Do vậy cha tôi nghĩ cuộc phiêu lưu vẽ lên tường của tôi là một ý tưởng thú vị.

Mẹ tôi thì chẳng mấy thích thú, nhưng cũng dễ dãi chấp thuận khi thấy tôi quá hào hứng. Bà cũng biết cha tôi thường thắng khi tranh cãi về những việc như thế này, do vậy bà thấy nên thỏa hiệp một cách hòa bình thì hơn.

Hai ngày liền, với sự giúp đỡ của chị tôi, Tammy, và bạn tôi, Jack Sheriff, tôi đã vẽ lên tường phòng ngủ của tôi. Cha tôi ngồi đọc báo trong phòng, đợi xem tác phẩm. Mẹ tôi thì đi lại dọc hành lang, vô cùng sốt ruột. Bà theo dõi, tìm cách ngó nghiêng, nhưng chúng tôi đã cố thủ ở trong phòng. Giống như người ta nói trong phim, đây là “một việc bí mật.”

Chúng tôi đã vẽ những gì?

Tôi vẫn muốn vẽ một công thức bậc hai lên tường. Trong một phương trình bậc hai, số mũ lớn nhất của ẩn số là bình phương. Là một cậu bé mê học, tôi nghĩ đó là thứ xứng đáng để kỷ niệm. Ngay bên cạnh cửa, tôi vẽ:

Jack và tôi vẽ một cửa thang máy màu bạc thật to. Phía bên trái cửa, chúng tôi vẽ các nút bấm “Lên” và “Xuống”, và phía trên cửa thang máy, vẽ một bảng với các số tầng từ một tới sáu. Số “ba” được vẽ chiếu sáng. Chúng tôi sống trong một ngôi nhà trệt – chỉ có một tầng – nên tôi đã thực hiện việc tưởng tượng ra sáu tầng. Nhìn lại, không hiểu sao tôi không vẽ tám hay chín tầng? Nếu tôi là người mơ ước lớn, sao thang máy của tôi lại dừng ở tầng ba? Không hiểu nổi. Có thể đó là một dấu hiệu của sự cân bằng giữa mơ ước và thực tiễn trong cuộc đời tôi.

Do khả năng mỹ thuật có hạn, tôi nghĩ tốt nhất là mình vẽ mọi thứ theo kiểu hình học cơ bản. Tôi vẽ một tàu hỏa tiễn đơn giản với cánh vây. Tôi vẽ chiếc gương Bạch Tuyết với dòng chữ: “Xin nhớ, nếu tôi nói với bạn rằng bạn là người đẹp nhất, thì tức là tôi nói dối!”

Trên trần, Jack và tôi viết dòng chữ “Tôi đang bị mắc kẹt trên gác xép!” Chúng tôi viết các chữ ngược chiều, để tạo cảm giác như chúng tôi đang bị cầm tù trên đó và đang cào cấu, gào lời kêu cứu.

Vì tôi thích chơi cờ vua, Tammy đã vẽ những quân cờ (chị là người duy nhất trong chúng tôi có năng khiếu vẽ). Trong khi chị vẽ những quân cờ, tôi vẽ một chiếc tàu ngầm đang bí mật lặn trong nước, bên dưới chiếc giường tầng. Tôi vẽ một chiếc kính ngắm trồi khỏi thành giường, đang quan sát các tàu của địch.

Tôi luôn thích thú với câu chuyện về hộp Pandora, nên Tammy và tôi vẽ lại câu chuyên theo cách nghĩ của chúng tôi. Pandora, trong thần thoại Hy Lạp, được trao cho một cái hộp chứa tất cả những tội lỗi của thế gian ở bên trong. Cô đã không tuân thủ lệnh cấm mở hộp. Khi cô mở hộp ra, tội lỗi đã lan truyền đi khắp nơi. Tôi luôn hướng tới kết cục lạc quan của câu chuyện: phần để lại dưới đáy hộp là “hy vọng.” Do vậy bên trong hộp Pandera, tôi viết chữ “Hy vọng.” Jack nhìn thấy và đã không nén nổi, viết thêm chữ “Bob” phía trên chữ “Hy vọng (Hope).” Khi bạn bè tới thăm phòng tôi, họ luôn phải suy nghĩ tí chút để hình dung tại sao lại có chữ “Bob” ở đó. Rồi ai cũng tròn mắt.

Đó là những năm cuối 1970, phong trào nhảy disco đang lan tràn. Tôi viết hàng chữ “Disco tởm” trên cửa phòng. Mẹ tôi thấy hơi thô tục, nên một ngày, khi tôi không để ý, bà lấy sơn xóa chữ “tởm.” Đó là thứ duy nhất bà sửa.

Bạn bè tôi tới chơi luôn rất ấn tượng về công việc tôi làm. “Tớ không tin nổi là bố mẹ cậu cho cậu vẽ như vậy,” bạn tôi thường nói.

Thật ra, lúc đó mẹ tôi chẳng mấy thích thú, nhưng bà đã không hề sơn lại căn phòng, kể cả hàng chục năm sau khi tôi đã đi khỏi nhà. Rồi, với thời gian, phòng tôi đã trở thành tiêu điểm để bà giới thiệu mỗi khi có khách tới thăm. Mẹ tôi đã bắt đầu cảm nhận: mọi người đều thấy đó là một điều thật hay, thật độc đáo. Và họ cũng nghĩ mẹ tôi thật hay, thật độc đáo vì đã cho phép tôi làm một việc như vậy.

Với những ai ở đây là cha mẹ, nếu con bạn muốn vẽ ở phòng ngủ của chúng, thì hãy cho tôi một đặc ân, để chúng làm điều đó. Mọi việc sẽ tốt đẹp. Đừng lo lắng là ngôi nhà của bạn sẽ bị mất giá.

Tôi không biết sẽ còn bao nhiêu lần về thăm lại ngôi nhà tuổi thơ của tôi nữa. Nhưng mỗi lần về đó là một phần thưởng đối với tôi. Tôi vẫn ngủ trên chiếc giường tầng do cha tôi đóng. Nhìn những bức tường kỳ thú, tôi nghĩ về việc cha mẹ đã cho tôi vẽ, và đi vào giấc ngủ với cảm giác thật may mắn và toại nguyện.

---o0o---


06.Đạt trạng thái không trọng lượng


Điều quan trọng là có những mơ ước cụ thể.

Khi tôi còn ở trường phổ thông, nhiều học sinh thích được trở thành nhà du hành vũ trụ. Với tôi, từ nhỏ tôi đã biết là NASA18 sẽ không nhận tôi. Tôi nghe nói là các nhà du hành vũ trụ không thể mang kính cận. Điều đó không sao. Tôi chẳng muốn thành nhà du hành vũ trụ lắm, chỉ muốn được ở trạng thái nổi bồng bềnh.

NASA có một chiếc máy bay để giúp các nhà du hành vũ trụ thích nghi với trạng thái không trọng lượng. Mọi nguời gọi nó là “Sao chổi nôn,” mặc dù NASA đã đặt tên cho nó là “Kỳ quan Vô trọng lượng,” như một cố gắng làm lạc hướng sự chú ý đến hậu quả khó chịu của thiết bị.

Dù máy bay đuợc gọi với tên gì, thì đó vẫn là một thiết bị máy móc rất kỳ thú. Nó chuyển động theo hình cung pa ra bôn, và tại đỉnh của mỗi cung, bạn có khoảng hai mươi lăm giây trải nghiệm cảm giác tương đương với không trọng lượng. Khi máy bay lao xuống, bạn có cảm giác như đang rơi tự do, nhưng lại bị kéo lại, bay vòng quanh.

Uớc mơ của tôi trở thành khả thi, khi NASA có chương trình cho sinh viên đại học đăng ký các đề tài nghiên cứu thí nghiệm trên chiếc máy bay này. Năm 2001, nhóm sinh viên trường Carnegie Mellon của tôi đã đăng ký đề án sử dụng hiện thực ảo (virtual reality19).

Không trọng lượng là một hiện tượng đặc biệt, khó nhận thức được một cách thấu đáo, khi cả đời bạn sống trên trái đất. Ở trạng thái không trọng lượng, tai trong, bộ phận điều khiển sự thăng bằng, sẽ không hoàn toàn đồng bộ với những gì mà mắt bạn nhìn thấy. Và kết quả là bạn buồn nôn. Liệu hiện thực ảo có thể giúp khắc phục được điều này? Đó là câu hỏi trong đề án của chúng tôi, và đề án đã được chọn. Chúng tôi được mời tới trung tâm vũ trụ Johnson ở Houston để đi thử máy bay.

Có lẽ tôi là người phấn khích hơn bất kỳ sinh viên nào của tôi. Nhưng ngay sau đó, tôi nhận được tin không vui: NASA tuyên bố rất rõ ràng là, trong mọi trường hợp, giáo viên không được bay cùng sinh viên.

Tôi vô cùng buồn chán, nhưng không vì thế mà chịu bó tay. Tôi sẽ phải tìm một con đường để đi quanh bức tường gạch này. Và tôi đã tìm thấy một cách: vì luôn coi trọng việc quảng bá, NASA sẽ cho phép một nhà báo địa phương nơi sinh viên học tới tham gia bay cùng.

Tôi gọi điện cho một viên chức NASA để hỏi số máy fax. “Anh sẽ fax cái gì cho chúng tôi?” ông ta hỏi. Tôi giải thích: đơn từ chức cố vấn sinh viên và đơn xin làm nhà báo.

“Tôi sẽ tháp tùng các sinh viên của tôi trong vai trò mới là một thành viên của giới truyền thông,” tôi nói.

Và ông ta đáp, “Việc đó khá lộ liễu, anh có thấy thế không?”

Tôi chỉ muốn trôi bồng bềnh …

“Chắc chắn rồi,” tôi nói, nhưng tôi cũng hứa với ông ta rằng tôi sẽ đưa các thông tin về thí nghiệm của chúng tôi lên mục thời sự của các trang Web, và sẽ gửi phim về các hoạt động hiện thực ảo của chúng tôi tới các nhà báo chính thống khác. Tôi biết là tôi có thể làm tốt được điều này, và đó là thương lượng thắng – thắng cho cả đôi bên. Ông ta đã đưa số máy fax cho tôi.

Ở đây có thêm một bài học: Hãy mang cái gì đó tới bàn thương lượng, bởi nó sẽ làm cho bạn được đón tiếp nhiệt thành hơn.

Kinh nghiệm của tôi với trạng thái không trọng lượng là vô cùng kỳ diệu (và tôi không bị nôn). Tôi có bị ngã và bị va đập chút ít, bởi khi kết thúc giai đoạn hai mươi lăm giây, lúc sức nặng trở lại trong máy bay, bạn sẽ thật sự trở nên nặng gấp đôi trọng lượng của bạn. Bạn có thể rớt xuống khá mạnh. Bởi vậy chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở: “Đặt chân xuống!” Chắc chắn là bạn không muốn ngã dập cổ rồi.

Vậy là tôi đã lên được chiếc máy bay để trải nghiệm trạng thái không trọng lượng, gần bốn mươi năm sau khi ước mơ được trôi nổi bồng bềnh trở thành một trong những mục tiêu sống của tôi. Nó cũng chứng tỏ rằng, nếu tìm được một kẽ hở, bạn rất có thể tìm được một cách để trôi qua.

---o0o---

07.Không vào được Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia


Tôi yêu thích môn bóng bầu dục20. Nhất là việc chặn cản bóng. Tôi bắt đầu chơi từ năm chín tuổi, và môn bóng bầu dục đã rèn luyện tôi, đã giúp hình thành con người tôi như hiện nay. Mặc dù không vào được Liên đoàn Quốc gia, nhưng đôi khi tôi nghĩ, tôi đã đạt được nhiều thứ hơn qua việc theo đuổi ước mơ này mà không hoàn tất được nó, so với việc theo đuổi và hoàn tất được nhiều ước mơ khác.

Sự gắn bó với môn bóng khởi nguồn khi cha tôi lôi kéo, thậm chí bắt ép và hò hét để tôi tham gia một đội bóng. Lúc đầu tôi hoàn toàn không muốn làm việc đó. Tôi yếu đuối, nhút nhát, và là đứa nhỏ nhất trong đám trẻ. Nỗi lo lắng đã trở thành sự sợ hãi khi tôi gặp huấn luyện viên, Jim Graham. Ông to lớn, cao hơn mét chín, vĩ đại như một bức tường. Ông từng chơi ở vị trí hậu vệ lót của đội Penn State21 và là người vô cùng bảo thủ. Xin nhấn mạnh rằng, ông thật sự bảo thủ, thí dụ ông coi việc ném bóng về hướng vạch cuối của đối phương là một lối chơi mánh khóe.

Ngày tập đầu tiên, chúng tôi đều hãi tới chết. Thêm nữa, ông không mang bóng theo. Một cậu bé rốt cuộc đã thay mặt chúng tôi hỏi. “Xin lỗi ông. Sao không có bóng?”

Và ông đã trả lời, “Chúng ta đâu cần bóng.”

Tất cả chúng tôi đều im lặng, suy nghĩ về điều đó.

“Có bao nhiêu cầu thủ trên sân bóng?” ông hỏi chúng tôi.

“Mười một người mỗi đội,” chúng tôi trả lời. “Như vậy tổng cộng là hai mươi hai.”

“Và bao nhiêu người chạm bóng tại một thời điểm?”

“Một người trong số đó.”

“Đúng!” ông nói. “Vậy chúng ta sẽ tập những gì hai mươi mốt người kia cần làm.”

Nền tảng. Đó là phần thưởng lớn nhất mà huấn luyện viên Graham đã ban phát cho chúng tôi. Nền tảng, nền tảng, nền tảng. Là một giáo sư đại học, tôi thấy đây là một bài học mà rất nhiều sinh viên đã lờ đi, và chính họ luôn luôn là những người phải chịu thiệt hại. Bạn phải trau dồi nền tảng trước nhất, bởi nếu không, bạn sẽ không làm nổi bất kỳ một thứ cao siêu nào khác.

---o0o---

Huấn luyện viên Graham rất khắt khe với tôi. Tôi còn nhớ về một bài tập. “Em làm sai hoàn toàn rồi, Pausch. Quay trở lại! Làm lại!” Và tôi cố làm động tác mà ông muốn. Nhưng vẫn không đủ. “Pausch! Sau giờ tập, em sẽ phải bị phạt làm chống tay.”

Khi giải tán, một trợ lý huấn luyện viên bước tới tôi. “Huấn luyện viên Graham hành em khá dữ có đúng không?” ông hỏi.

Tôi gần như không còn nổi sức để thốt lên tiếng “vâng.”

“Đó là một điều tốt,” ông trợ lý nói. “Khi em làm sai mà không còn ai nói với em một điều nào nữa, thì có nghĩa là họ đã bỏ em.”

Bài học này đã lưu lại trong tôi suốt cuộc đời. Khi bạn thấy bạn làm điều gì đó xấu xa mà không ai thèm nói với bạn nữa, thì đó chắc chắn là chỗ không tốt cho bạn. Có thể bạn không muốn nghe, nhưng những lời phê bình thường cho bạn biết mọi người vẫn còn yêu mến bạn, quan tâm tới bạn, và muốn giúp bạn tiến bộ.

Ngày nay, chúng ta nói rất nhiều về việc tạo cho trẻ em lòng tự trọng. Nhưng, đó không phải là thứ có thể ban phát, mà là thứ phải tự rèn luyện và phát triển. Huấn luyện viên Graham không chiều chuộng chúng tôi. Lòng tự trọng? Ông biết chỉ có một cách để dạy trẻ tự phát triển phẩm chất này: Hãy đưa cho các em một việc mà các em không làm nổi ngay, các em sẽ phải phấn đấu cật lực cho tới khi làm được việc đó, và liên tục lặp lại quy trình này.

Khi huấn luyện viên Graham bắt đầu chú ý đến tôi, tôi là một đứa trẻ nhút nhát, không có kỹ năng gì, thể chất yếu đuối, và không cân bằng. Nhưng ông đã làm cho tôi nhận thức đuợc rằng, nếu tôi cố gắng rèn luyện, thì những điều tôi chưa làm được ngày hôm nay, tôi sẽ làm được vào ngày mai. Bây giờ, ngay cả khi vào tuổi bốn mươi bảy, tôi vẫn tự hào có thể làm được động tác đứng ba điểm không kém gì một cầu thủ tiền vệ bóng bầu dục hạng quốc gia.

Có thể bây giờ, một người như huấn luyện viên Graham sẽ bị gạt bỏ khỏi liên đoàn thể thao thanh thiếu niên, vì ông qúa nghiêm khắc và các bậc cha mẹ sẽ phản đối.

Tôi nhớ có một trận, đội chúng tôi chơi quá dở. Lúc nghỉ giữa giờ, vì vội vã để uống, chúng tôi đã cùng lao tới và gần như xô đổ thùng nước. Huấn luyện viên Graham tức giận: “Từ lúc trận đấu bắt đầu, sao bây giờ mới thấy mọi người chuyển động!” Chúng tôi đều mới mười một tuổi, chỉ biết đứng sững đó, sợ ông sẽ túm từng đứa, bẻ vụn bằng đôi bàn tay hộ pháp của ông. “Nước?” ông hét. “Mọi người muốn uống nước?” Ông nhấc bổng thùng và đổ tất cả nước xuống đất.

Chúng tôi đứng nhìn ông bỏ đi, rồi nghe ông thì thầm với một trợ lý: “Có thể đưa nước cho tuyến phòng ngự đầu. Mấy cậu đó chơi được.”

Cần phải nói rõ một điều ở đây là huấn luyện viên Graham không bao giờ gây nguy hiểm cho bất kỳ một ai. Một lý do khiến ông rất nghiêm khắc trong rèn luyện thể lực cho bọn trẻ chúng tôi, vì ông biết điều đó sẽ giúp giảm gây chấn thương. Hôm thi đấu đó là một ngày mát trời, chúng tôi lại đều đã được uống nước trong hiệp đầu. Việc tất cả cùng đổ xô tới thùng nước, chỉ chứng tỏ chúng tôi là một bầy nhóc hơn là do chúng tôi cần giải khát.

Kể cả là như vậy, nếu việc tương tự xảy ra vào thời buổi ngày nay, chắc các bậc phụ huynh đứng bên sân đã rút điện thoại di động để gọi ủy viên liên đoàn bóng, hoặc thậm chí gọi các luật sư của họ.

Thật đáng buồn là bây giờ nhiều đứa trẻ được quá nuông chiều. Nghĩ lại về sự kiện lúc nghỉ giữa giờ ngày hôm đó, tôi cảm thấy nhục nhã. Tất cả chúng tôi đã làm cho huấn luyện viên Graham thất vọng, và ông đã thể hiện cho chúng tôi biết điều đó theo một cách để chúng tôi không bao giờ quên được. Ông đã đúng. Chúng tôi đã tỏ ra dành nhiều năng lượng cho thùng nước giải khát hơn là cho trận đấu bóng. Và việc bị ông xỉ nhục đã có ý nghĩa đối với chúng tôi. Khi trở lại sân trong hiệp hai, chúng tôi đã thi đấu hết sức cố gắng.

Tuy không còn gặp huấn luyện viên Graham từ khi mười mấy tuổi, nhưng hình ảnh của ông luôn hiện lên trong trí nhớ của tôi, nhắc nhở tôi phải làm việc cố gắng hơn mỗi  khi tôi định đầu hàng, nhắc nhở tôi phải phấn đấu để hoàn thiện mình hơn. Ông đã cho tôi một bài học quý giá cho suốt cả cuộc đời.

---o0o---

Khi gửi con cái đi chơi thể thao – bóng bầu dục, bóng đá, bơi, v.v. – phần đông chúng ta không chỉ vì muốn chúng học được những thứ phức tạp của môn thể thao đó.

Cái chúng ta thực sự muốn chúng học được còn quan trọng hơn nhiều: đó là tinh thần đồng đội, tính kiên trì, tinh thần thể thao, giá trị của sự nỗ lực, và khả năng ứng xử đối với các nghịch cảnh. Cái gián tiếp học được như vậy, chúng ta gọi là “giả đầu (head fake).”

Có hai loại giả đầu. Loại thứ nhất là đơn giản dễ thấy. Trên sân bóng, một cầu thủ nghiêng đầu về một hướng, làm cho bạn tưởng anh ta sẽ chạy về hướng ấy, nhưng sau đó lại chạy về hướng ngược lại. Điều đó giống như một nhà ảo thuật dùng kỹ thuật đánh lạc hướng. Huấn luyện viên Graham thường nhắc chúng tôi phải quan sát thắt lưng của đối phương. “Bụng anh ta chuyển tới hướng nào, thì anh ta cũng sẽ chuyển tới hướng đó,” ông nói.

Loại giả đầu thứ hai quan trọng hơn nhiều – đó là dạy bạn điều mà bạn không hình dung là mình đang học, cho tới khi bạn dần học được điều đó. Nếu bạn là một chuyên gia về giả đầu, mục tiêu dấu kín của bạn sẽ là để cho mọi người học điều bạn muốn họ học.

Loại học giả đầu như vậy là vô cùng thiết yếu, và huấn luyện viên Graham là một bậc thầy trong lĩnh vực này.

---o0o---



tải về 323.64 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương