Ban biên tập chương I chức năNG, nhiệm vụ, quyền hạn ngành lao đỘng- thưƠng binh và XÃ HỘI



tải về 5.01 Mb.
trang3/48
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích5.01 Mb.
#19765
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   48

6. Về quản lý chất lượng dạy nghề

6.1. Kiểm định chất lượng dạy nghề

- Đã thí điểm công tác kiểm định chất lượng tại 15 trường thuộc Dự án ADB.

- Ban hành 05 Quyết định quy định về hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung tâm dạy nghề; quy định về kiểm định viên chất lượng dạy nghề; quy định về quy trình kiểm định chất lượng dạy nghề.

- Đào tạo 896 cán bộ tự kiểm định; 298 kiểm định viên (trong đó có 33 kiểm định viên được đào tạo theo chương trình và chuyên gia Mỹ trực tiếp giảng dạy).

- Năm 2008 đã tiến hành kiểm định chất lượng dạy nghề cho 10 trường cao đẳng nghề và 5 trường trung cấp nghề, trong đó có 9 trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng dạy nghề theo quy định. Năm 2009 đã tiến hành kiểm định chất lượng cho 20 trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề. Kết quả có 14 trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng dạy nghề ở cấp độ 3. Năm 2010 đã tiến hành kiểm định 42 trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề. Trong đó, có 30 trường, trung tâm đạt cấp độ 3, 8 trường, trung tâm đạt cấp độ 2 và 4 trường, trung tâm đạt cấp độ 1.

6.2. Đánh giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia

- Trước khi có Luật Dạy nghề, xây dựng 48 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề (Dự án ADB), 13 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề cơ bản trong lĩnh vực du lịch (Dự án EU).

- Sau khi có Luật dạy nghề, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 09/2008/QĐ-BLĐTBXH, quy định nguyên tắc, quy trình xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia mới gồm 5 bậc (với cấu trúc phù hợp với các nước EU, Anh, Malaysia, Trung Quốc,... có khả năng so sánh và công nhận lẫn nhau trong tương lai); ban hành Thông tư số 15/2011/TT-BLĐTBXH ngày 10/5/2011 quy định tổ chức và quản lý việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; đã ban hành 10 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 10 nghề của nhóm nghề xây dựng, 85 nghề còn lại đã và đang tổ chức lấy ý kiến đánh giá, phản biện của các hội nghề nghiệp và một số doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động trong các nghề này trước khi thoả thuận cho các Bộ, ngành ban hành.

- Một số Bộ, ngành và Hội nghề nghiệp đang xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho một số nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp phát triển nông thôn và giao thông vận tải.

- Thí điểm đánh giá và công nhận kỹ năng nghề cho người lao động trong 02 nghề thủ công truyền thống (sơn mài và gốm sứ mỹ nghệ) ở một số làng nghề.

- Tập huấn phương pháp đánh giá kỹ năng nghề theo quy trình của Hiệp hội Phát triển kỹ năng nghề Nhật Bản (JAVADA) cho 30 người thuộc 15 trường.

- Đã hình thành một số trung tâm đánh giá kỹ năng nghề quốc gia (năm 2010 Trường Cao đẳng nghề Mỏ Hồng Cẩm đã xây dựng được Trung tâm đánh giá kỹ năng nghề quốc gia cho 03 nghề đặc thù của ngành than); đang thiết kế thành lập trung tâm đánh giá kỹ năng nghề quốc gia của ngành điện, lắp máy...

7. Công tác Kế hoạch và huy động nguồn lực cho dạy nghề

7.1. Công tác kế hoạch đào tạo nghề

- Chuyển từ giao chỉ tiêu đào tạo sang cơ chế các cơ sở dạy nghề tự xác định số lượng tuyển sinh hàng năm trên cơ sở năng lực đào tạo của mình, nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường lao động và đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.

- Thí điểm đặt hàng đào tạo nghề theo địa chỉ làm việc đối với một số nghề đặc thù, xuất khẩu lao động. Đối tượng tham gia các khoá dạy nghề theo địa chỉ là các đối tượng chính sách, nhóm yếu thế và nông dân mất đất. Ưu tiên các đơn đặt hàng đào tạo của các doanh nghiệp. Năm 2006, thực hiện 17 hợp đồng đặt hàng dạy nghề 2855 người; năm 2008 tiếp tục triển khai đặt hàng với 9 tập đoàn kinh tế, tổng công ty để dạy nghề gắn với yêu cầu tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp cho 7.000 người là những đối tượng chính sách, nhóm yếu thế và nông dân mất đất.

- Chương trình mục tiêu quốc gia ngoài việc đầu tư nâng cấp trang thiết bị dạy nghề; xây dựng chương trình dạy nghề; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề cần hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, dân tộc thiểu số, người tàn tật,....



7.2. Huy động nguồn lực cho dạy nghề

- Năm 1998 tỷ lệ ngân sách đầu tư cho dạy nghề chiếm 3,5% trong tổng ngân sách dành cho giáo dục - đào tạo; năm 2007 là 7%.

- Đã thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ sở dạy nghề.

- Chương trình mục tiêu giai đoạn 2001-2005 là 870 tỷ; giai đoạn 2006- 2010 được phê duyệt 5.500 tỷ; trong 4 năm 2006-2009 đó được bố trí 3.400 tỷ đồng.

- Các dự án ODA từ năm 2000 đến nay đó thu hút được khoảng 130 triệu USD đầu tư cho dạy nghề.

- Từ doanh nghiệp và người học: năm 2004 huy động là 635 tỷ đồng, năm 2008 là 2.185 tỷ đồng.



8. Đa dạng hóa các hình thức, phương thức dạy nghề

Giai đoạn 2001 - 2010, đã phát triển các mô hình dạy nghề năng động, linh hoạt gắn đào tạo với sử dụng lao động theo hướng cầu của thị trường lao động để đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa phương. Trong đó, đa dạng hoá hình thức, phương thức đào tạo nghề: dạy nghề chính quy, dạy nghề thường xuyên; dạy nghề tập trung, dạy nghề lưu động, dạy nghề tại doanh nghiệp, làng nghề. Đã thí điểm triển khai đặt hàng đào tạo nghề cho đối tượng chính sách, đối tượng bị thu hồi đất canh tác, người dân tộc thiểu số. Cụ thể:



a) Dạy nghề tại doanh nghiệp

Đến nay, cả nước có 143 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp; hầu hết các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế mạnh đều có trường dạy nghề để chủ động đào tạo nguồn nhân lực và góp phần cung cấp cho xã hội. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn đã chủ động tổ chức dạy nghề, bổ túc nghề, bồi dưỡng kỹ năng nghề, chuyển giao công nghệ cho người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp.

Năm 2006 đặt hàng dạy nghề 5 nghề (Khai thác mỏ, Hàn, Cán kéo kim loại, Vận hành máy xúc đào, Mộc dân dụng) với 2.853 lao động. Năm 2008 đặt hàng dạy nghề Hàn trình độ 3G, 6G cho 520 lao động để đi xuất khẩu; đặt hàng dạy nghề trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề đáp ứng nhu cầu lao động của các tập đoàn, Tổng công ty Than và Khoáng sản, Dệt May, Vinashin, LILAMA, Thép, Đường sắt; dạy nghề trình độ SCN cho Tổng công ty thuốc lá (tổng số là 21 nghề đào tạo với 6.400 lao động).

Qua khảo sát dạy nghề tại doanh nghiệp cho thấy hầu hết học sinh tốt nghiệp dạy nghề dài hạn đều có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp.



b) Dạy nghề cho lao động nông thôn

Đã triển khai dạy nghề cho lao động nông thôn dưới nhiều hình thức: dạy nghề ngắn hạn, dạy các nghề truyền thống, bồi dưỡng kèm cặp nghề, dạy nghề lưu động, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ… Từ 2006 đến 2008, mỗi năm đã có 300.000 lao động nông thôn được dạy nghề (chủ yếu là thanh niên đối tượng chính sách và lao động bị thu hồi đất nông nghiệp do chuyển đổi mục đích sử dụng).

Đã và đang triển khai thí điểm đặt hàng dạy nghề đối với lao động nông thôn bị thu hồi đất nông nghiệp, đối tượng chính sách, người dân tộc thiểu số, lao động nữ chưa có việc làm, lao động thuộc các làng nghề, vùng chuyên canh và lao động nông thôn khác có nhu cầu học nghề.

Mô hình này đã thực sự đáp ứng được nhu cầu của đông đảo lao động nông thôn, góp phần nâng cao trình độ, chuyên môn kỹ thuật, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm đáp ứng mục tiêu đến năm 2010 lao động nông nghiệp chỉ còn 50%.

Ngày 28/10/2008 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 24/2008/NĐ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đó nghiên cứu, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, trong đó mục tiêu bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn.



c) Dạy nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số

Đã thí điểm và triển khai dạy nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số qua 2 hình thức:

- Dạy nghề ngắn hạn cho thanh niên dân tộc (QĐ 81/2005/QĐ-TTg): Thực hiện chủ trương của Chính phủ về dạy nghề cho thanh niên dân tộc, nhiều địa phương đó chủ động có chính sách và đầu tư để tổ chức dạy nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số như: hỗ trợ kinh phí cho người học nghề; tổ chức dạy nghề miễn phí; cấp kinh phí thường xuyên cho các cơ sở dạy nghề công lập để dạy nghề ngắn hạn cho thanh niên dân tộc (An Giang, Sóc Trăng, Đồng Nai, Quảng Ngãi, Kon Tum, Hoà Bình, Quảng Nam...).

- Dạy nghề dài hạn cho thanh niên dân tộc thiểu số nội trú: Đối tượng là những học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông dân tộc nội trú đã tốt nghiệp, nhưng không có điều kiện vào học tại các trường cao đẳng và đại học, họ sẽ được học nghề với sự hỗ trợ kinh phí toàn phần của nhà nước. Đến nay đã có hàng nghìn học sinh được học nghề.

Học sinh sau học nghề, đã có việc làm và đi xuất khẩu lao động; tại một số tỉnh, số lao động này đã trở thành lực lượng nòng cốt tham gia phát triển kinh tế ở địa phương.

d) Dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ

Hàng năm, theo Luật Nghĩa vụ quân sự có 2 đợt tuyển quân và tương ứng cú 2 đợt xuất ngũ. Số lượng bộ đội xuất ngũ hàng năm khoảng 85.000 người (đợt 1 : 47.000 người, đợt 2 : 38.000 người). Số bộ đội xuất ngũ hàng năm có nhu cầu học nghề khoảng từ 70%-80% (50.000 - 70.000 người). Theo thống kê trong 3 năm (2006-2008) số lượng bộ đội xuất ngũ học nghề tại các cơ sở dạy nghề quân đội khoảng từ 36-56% (năm 2006: 30.568 người, năm 2007: 47.000 người, năm 2008: 48.000 người), số bộ đội xuất ngũ còn lại theo học tại các cơ sở dạy nghề ngoài quân đội. Sau khi tốt nghiệp họ đều tìm được việc làm tại các doanh nghiệp hoặc đi xuất khẩu lao động.

Ngày 9/10/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 121/2009/QĐ-TTg về cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề. Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ quy định bộ đội xuất ngũ học nghề trình độ trung cấp nghề, trình độ cao đẳng nghề được học nghề theo cơ chế đặt hàng đối với các cơ sở dạy nghề theo quy định tại Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008; được vay vốn học nghề theo quy định tại Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007; bộ đội xuất ngũ học nghề trình độ sơ cấp được cấp  Thẻ học nghề có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương tối thiểu chung tại thời điểm học nghề và có giá trị sử dụng trong 01 năm kể từ ngày cấp thẻ.

9. Xã hội hóa và thực hiện công bằng trong dạy nghề

- Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để thúc đẩy xã hội hóa trong dạy nghề. Nhiều Bộ, ngành, địa phương đã ban hành các nghị quyết, chương trình hành động để thực hiện xã hội hóa dạy nghề và đã đạt được kết quả bước đầu, như: đa dạng hóa các hoạt động và nguồn lực đầu tư cho dạy nghề; nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đã đầu tư thành lập các cơ sở dạy nghề (Năm 2008, số cơ sở dạy nghề ngoài công lập chiếm 32,4%, số học sinh học nghề trong các cơ sở dạy nghề ngoài công lập chiếm khoảng 35%).

- Đã có nhiều cơ chế chính sách tạo cơ hội học nghề cho mọi người có nhu cầu; đồng thời đã hỗ trợ kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia, từ nguồn ODA cho các vùng khó khăn và người học nghề thuộc đối tượng chính sách (chính sách đối với người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người tàn tật, lao động nông thôn, dạy nghề cho người nghèo trong chương trình xóa đói giảm nghèo, dạy nghề theo Nghị quyết 30a của Chính phủ).

- Hợp tác quốc tế về dạy nghề được mở rộng với trên 40 quốc gia và tổ chức quốc tế.

- Các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp đã tích cực tham gia dạy nghề và tuyên truyền, vận động các đoàn viên, hội viên tham gia học nghề; gắn học nghề với lập thân, lập nghiệp.

10. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn thấp, nhất là lao động nông thôn.

- Cơ cấu đào tạo nghề theo trình độ và nghề đào tạo chưa đáp ứng được cơ cấu lao động cần sử dụng của các ngành kinh tế và thị trường lao động (có những nghề phải được đào tạo nhưng chưa có cơ sở đào tạo, nhiều vị trí lao động chưa được đào tạo nghề).

- Chất lượng đào tạo nghề còn thấp, do đó, còn khoảng cách giữa đào tạo nghề và sử dụng lao động, nhất là kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, thể chất, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp của học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn yếu; lao động nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá hiện đại trong bối cảnh hội nhập. Về cơ bản lao động sản xuất nông nghiệp chưa được đào tạo nghề, nên kiến thức, kỹ năng nghề c̣òn nhiều hạn chế dẫn đến năng xuất thấp, sản phẩm chất lượng kém, thu nhập của lao động nông nghiệp thấp. Lao động kỹ thuật cao, phục vụ khu vực công nghiệp thiếu, vì vậy lao động nước ngoài chiếm các vị trí đ̣òi hỏi kỹ thuật cao và thu gnhập cao.

- Các điều kiện đảm bảo chất lượng còn bất cập, chưa được đầu tư đúng mức.

b) Nguyên nhân

- Các cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ về dạy nghề, nên chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển dạy nghề. Cá biệt có hiện tượng cản trở, gây mất ổn định đối với dạy nghề. Không ít các doanh nghiệp đi vào hoạt động không tuyển đủ lao động có tay nghề phù hợp. Công tác thông tin, tuyên truyền, tư vấn và hướng nghiệp về dạy nghề chưa đủ mạnh.

- Số lượng cơ sở dạy nghề còn ít, quy mô nhỏ, phân bố chưa hợp lý, đặc biệt là khu vực nông thôn; mạng lưới mới chỉ được quy hoạch phân bổ cơ sở dạy nghề theo ngành, vùng, miền, chưa quy hoạch theo nghề, cấp trình độ đào tạo; các trường dạy nghề chuyên sâu bị mai một, chưa có các trường có năng lực đào tạo nghề chất lượng cao tiếp cận trình độ các nước phát triển của khu vực Đông Nam Á và thế giới.

- Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề còn bất cập so với yêu cầu tăng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng. Nhiều cơ sở dạy nghề còn đào tạo trên cơ sở năng lực có sẵn; chưa chủ động tổ chức đào tạo theo hướng cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động; chưa có sự gắn kết hữu cơ với doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề.

- Chưa có các giải pháp tạo ra sự đột phá về chất lượng ở một số nghề mang tính cạnh tranh cao.

- Chưa huy động được nhiều nguồn lực của xã hội cho đào tạo nghề; tỷ lệ đầu tư cho dạy nghề trong tổng chi từ Ngân sách Nhà nước cho giáo dục- đào tạo còn thấp3; chưa tập trung đầu tư đồng bộ để hình thành các nghề trọng điểm, chuyên sâu, để đào tạo lao động có kỹ năng nghề cao. Chưa thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài cho dạy nghề.



II. Định hướng đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020

1. Bối cảnh và xu thế dạy nghề trên thế giới

a) Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tạo sự hợp tác và cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các nền kinh tế trên thế giới, trong đó chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Việc mở cửa thị trường lao động tạo sự dịch chuyển lao động giữa các nước đòi hỏi các quốc gia phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình.

b) Nền kinh tế tri thức đang hình thành, khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin đã xóa đi những trở ngại về khoảng cách và tạo ra sự gắn kết giữa các nền kinh tế. Nhờ đó, các quốc gia đang phát triển có cơ hội tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ một cách nhanh chóng, nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia. Do đó, kỹ thuật, công nghệ được áp dụng vào thực tiễn sản xuất rất nhanh chóng ngay cả đối với các nước đang phát triển, đòi hỏi lao động phải thường xuyên cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề và phải có năng lực sáng tạo, có khả năng thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của công nghệ. Học tập suốt đời là yêu cầu bắt buộc đối với người lao động.

c) Dịch vụ đào tạo từ các nước phát triển vào các nước đang phát triển ngày càng tăng, tạo cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp cận được nền giáo dục, dạy nghề tiên tiến.

d) Hầu hết các nước đã chuyển dạy nghề từ “hướng cung” sang “hướng cầu”, trong đó các quốc gia phát triển đã thực hiện rất hiệu quả và thành công trong việc đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất phục vụ cho phát triển nền kinh tế. Chương trình việc làm toàn cầu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã khuyến cáo các quốc gia tổ chức đào tạo nghề linh hoạt theo hướng cầu của thị trường lao động, nhằm tạo việc làm bền vững. Tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Các cơ sở Dạy nghề Châu Âu (17-19/09/2009, tại Roma, Italia) đã bàn đến vấn đề cải cách dạy nghề để đáp ứng xu thế toàn cầu hóa, nâng cao chất lượng dạy nghề.

2. Bối cảnh trong nước và dự báo nhu cầu lao động kỹ thuật trực tiếp giai đoạn 2011-2020

a) Nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng ở mức cao. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành kinh tế mũi nhọn ngày càng phát triển, đầu tư trong nước, nước ngoài ngày càng tăng. Công nghệ mới, tiên tiến được ứng dụng trong sản xuất ngày càng nhiều.

b) Đến năm 2020 dân số Việt Nam khoảng 96 triệu người (4), trong đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 54,5 triệu người(5). Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đòi hỏi cơ cấu lao động nông, lâm, ngư nghiệp là 29%, công nghiệp, xây dựng là 32,4% và dịch vụ là 38,6%(6). Hàng năm số lao động trong khu vực nông nghiệp chuyển dịch sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, khoảng một triệu người.

c) Đến năm 2020 có khoảng 55 triệu lao động có việc làm và có khoảng 28 triệu người được đào tạo nghề (khoảng 55% lực lượng lao động trong độ tuổi). Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong tổng số lao động của từng lĩnh vực: Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 35%; Công nghiệp, xây dựng 63% và Dịch vụ 50%. Cơ cấu tỷ lệ lao động theo các cấp trình độ dạy nghề: sơ cấp nghề và dạy nghề dưới ba tháng khoảng 72%, trình độ trung cấp nghề chiếm 14,4%, cao đẳng nghề 13,6%.

d) Nhu cầu lao động của 11 tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, từ nay đến năm 2020, bình quân mỗi năm các tập đoàn, tổng công ty cần khoảng 60-70 ngàn người, trong đó 80% trình độ trung cấp nghề trở lên. Mặt khác, nhu cầu nhân lực trình độ cao cho một số tập đoàn kinh tế khi mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ ngày càng tăng lên.

đ) Đối với xuất khẩu lao động, dự báo giai đoạn 2010 - 2020 sẽ đưa khoảng 800.000 người đi làm việc ở nước ngoài; bảo đảm 100% lao động xuất khẩu được đào tạo nghề, trong đó 50% có trình độ trung cấp trở lên.



3. Thách thức đối với dạy nghề - đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại

a) Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường lao động tạo thách thức lớn cho nước ta vì nguồn lao động nhiều7, nhưng chất lượng thấp so với các nước trong khu vực và thế giới8, lao động nông thôn là chủ yếu và chưa được đào tạo nghề. Vì vậy, việc đào tạo nghề để góp phần thay đổi cơ cấu lao động từ một nước nông nghiệp chuyển sang một nước công nghiệp phát triển trong thời gian 10 năm là một thách thức lớn.

Những điều kiện để đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động đặc biệt là lao động có tay nghề cao hiện đã rất bất cập, nên việc đào tạo đội ngũ lao động để đáp ứng nhu cầu thị trường lao động ở một nước công nghiệp theo hướng hiện đại cũng là một thách thức lớn.

Ngay cả những nước thuộc khu vực EU hiện nay, theo các Báo cáo tại Hội nghị của Hiệp Hội dạy nghề Châu Âu ngày 17 đến 19 tháng 9 năm 2009 (Roma, Italia), có đến 18 triệu người bị thất nghiệp, trong khi đó các Doanh nghiệp cần tuyển 4 triệu lao động nhưng số người thất nghiệp này không đáp ứng được.

b) Đào tạo chưa gắn với sử dụng; nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp để phục vụ cho CNH, HĐH đất nước rất lớn, nhưng vào học nghề chỉ xem là thứ yếu, xếp sau đại học và số đông người tốt nghiệp đại học lại chiếm chỗ làm việc của người học nghề, gây lãng phí lớn đối với nhà nước, cá nhân và xã hội về tiền của cũng như thời gian.

Trong khi đó ở những nước phát triển, theo Báo cáo của Ông Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hóa chất phần Đông nước Đức tại Hội nghị của Hiệp hội dạy nghề Châu Âu (17-19/9/2009), năm 2008 riêng ngành Công nghiệp hóa chất của các Bang thuộc phần Đông nước Đức cần khoảng 50 ngàn lao động, trong đó cơ cấu trình độ đào tạo như sau: Đại học là 16%, Cao đẳng 9%, Học nghề lên tới 65% và Lao động phổ thông là 10%.

c) Yêu cầu tăng nhanh quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng dạy nghề đòi hỏi đầu tư lớn, nhưng các nguồn lực, nhất là ngân sách Nhà nước còn thấp.

d) Nhu cầu đào tạo lao động kỹ thuật trực tiếp có trình độ cao để phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập rất lớn, trong khi có ít cơ sở đào tạo có đủ năng lực thực hiện.

đ) Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập, trong khi yêu cầu thay đổi về quản lý để dạy nghề phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

e) Nhận thức giữa các cấp, các ngành và xã hội về dạy nghề chưa sâu sắc trong khi việc tổ chức thực hiện chưa được thực hiện triệt để.



III. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển dạy đến năm 2020

1. Mục tiêu tổng quát phát triển dạy đến năm 2020

a) Tạo sự đột phá về chất lượng dạy nghề theo hướng tiếp cận trình độ khu vực và thế giới nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có kiến thức, năng lực thực hành nghề, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong công nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động có kỹ thuật; tăng quy mô đào tạo nghề để vào năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 55%; gắn kết giữa dạy nghề với doanh nghiệp, đảm bảo về cơ cấu trình độ, cơ cấu nghề đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp cho sự phát triển kinh tế- xã hội, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn phục vụ cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020;

b) Hệ thống dạy nghề có đủ năng lực đào tạo để đáp ứng về chất lượng, số lượng lao động, các cấp trình độ đào tạo nghề cho các ngành kinh tế và xuất khẩu lao động có kỹ thuật (thị trường lao động và xã hội). Theo đó, hệ thống dạy nghề phát triển dạy nghề theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập, đủ năng lực đào tạo một số nghề đạt trình độ các nước phát triển của khu vực và thế giới nhằm tạo ra sự đột phá về chất lượng đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề, năng lực sáng tạo, sức khỏe và tác phong công nghiệp cho người lao động. Hướng tới sự phù hợp về chất lượng và cơ cấu sử dụng lao động của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đảm bảo cho người lao động sau khi được đào tạo có được kỹ năng nghề cần thiết, có được việc làm trong môi trường cạnh tranh cao.

c) Hệ thống dạy nghề được tổ chức liên thông, dễ tiếp cận và phát triển bền vững, có sự tham gia của tất cả các lực lượng xã hội, đảm bảo sự công bằng, đáp ứng được nhu cầu học tập suốt đời cho tất cả mọi người dân, các nhóm xã hội, đặc biệt là nhóm yếu thế, đáp ứng nhu cầu việc làm trong nước, cũng như xuất khẩu lao động.



2. Mục tiêu cụ thể

a) Giai đoạn 2011-2015 thực hiện đột phá về chất lượng dạy nghề ở một số nghề, một số lĩnh vực và hoàn tất việc chuẩn bị các điều kiện để tổ chức triển khai đột phá về chất lượng dạy nghề ở giai đoạn 2016-2020, cụ thể:

- Dạy nghề cho 10 triệu người, trong đó trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 2,23 triệu người, tăng trung bình 8,2%/năm (trong đó 15 nghìn sinh viên được học theo chương trình đào tạo áp dụng của các nước phát triển trong khu vực và thế giới);

- Thành lập mới hoặc nâng cấp 70 trường cao đẳng nghề, 50 trường trung cấp nghề; 5 trường cao đẳng nghề, mỗi trường có từ 3 - 5 nghề đạt chuẩn thế giới (trong đó có 2 trường cao đẳng nghề tư thục); 8 trường cao đẳng nghề, mỗi trường có 3 - 5 nghề đạt chuẩn khu vực (trong đó có 3 trường cao đẳng nghề tư thục); 70 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có năng lực đào tạo từ 2-3 nghề đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 20 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề tư thục);

- Đào tạo nghiệp vụ sư phạm dạy nghề và kỹ năng nghề cho 15.000 người để trở thành giáo viên dạy nghề; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề ở nước ngoài; 2.000 cán bộ quản lý dạy nghề các cấp, hiệu trưởng trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, giám đốc trung tâm dạy nghề được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dạy nghề; 600 cán bộ quản lý học sinh, sinh viên của trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý học sinh, sinh viên;

- Đến năm 2012 xây dựng chương trình và biên soạn giáo trình trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho 100 nghề đào tạo phổ biến; áp dụng 20 chương trình đào tạo nghề của các nước phát triển trong khu vực và 10 chương trình đào tạo nghề của nước phát triển trên thế giới. Xây dựng danh mục chuẩn thiết bị dạy nghề cho 250 nghề đào tạo;

- 295 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, 300 trung tâm dạy nghề và 500 chương trình đào tạo trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề được kiểm định chất lượng dạy nghề;

- Có 250 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; có ngân hàng đề thi đánh giá kỹ năng nghề quốc gia cho 150 nghề; tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho 2 triệu người lao động.

b) Giai đoạn 2016 - 2020 thực hiện đồng bộ, toàn diện đột phá chất lượng dạy nghề, cụ thể:

- Dạy nghề cho 11,2 triệu người, trong đó đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp sản xuất có trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 2,92 triệu người, tăng trung bình 5,2%/năm (trong đó 100 nghìn sinh viên được học chương trình theo chương trình đào tạo áp dụng của các nước phát triển trong khu vực và thế giới);

- Thành lập mới hoặc nâng cấp 40 trường cao đẳng nghề, 10 trường trung cấp nghề; 10 trường cao đẳng nghề, mỗi trường có từ 3 - 5 nghề đạt chuẩn thế giới (trong đó có 3 trường cao đẳng nghề tư thục); 17 trường cao đẳng nghề, mỗi trường có 3 - 5 nghề đạt chuẩn khu vực (trong đó có 2 trường cao đẳng nghề tư thục); 70 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có năng lực đào tạo từ 2 - 3 nghề đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 20 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề tư thục);

- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề và kỹ năng nghề cho 5.000 người để trở thành giáo viên dạy nghề; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề ở nước ngoài; 500 cán bộ quản lý dạy nghề các cấp, hiệu trưởng trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, giám đốc trung tâm dạy nghề được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dạy nghề; 500 cán bộ quản lý học sinh, sinh viên của trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý học sinh, sinh viên;

- Áp dụng 30 chương trình đào tạo nghề của các nước phát triển trong khu vực và 20 chương trình đào tạo nghề của nước phát triển trên thế giới. Xây dựng danh mục chuẩn thiết bị dạy nghề cho 100 nghề đào tạo;

- 500 trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, 600 trung tâm dạy nghề và 1.000 chương trình đào tạo trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề được kiểm định chất lượng dạy nghề;

- 400 nghề có bộ tiêu chuẩn và bộ đề thi đánh giá kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho 6 triệu người lao động.



tải về 5.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương