Ba Mươi Triết Gia Tây Phương Nguyễn Ước


Wittgenstein (1889 - 1951)



tải về 439.67 Kb.
trang15/16
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2018
Kích439.67 Kb.
#37062
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16

22. Wittgenstein (1889 - 1951) 


Triết gia Áo. Tên đầy đủ Luwid Josef Johann Wittgenstein. 

Chào đời tại thủ đô Vienna. Wittgenstein theo học ngành kỹ sư ở Berlin, Ðức, và Manchester, Anh, nhưng ông ngày càng quan tâm tới luận lý toán học lúc theo học với Bertrand Russell. Khi đang phục vụ trong quân đội Áo thời Thế chiến Một, Wittgenstein viết cuốn Tractatus logico-philosophicus (Luận về triết học lô-gic, 1921). Trong đó, ông lập luận rằng để một báo cáo về ngôn ngữ đạt tiêu chuẩn thích đáng, nó phải thừa nhận rằng bất cứ câu nào cũng là hình ảnh của sự việc mà nó tiêu biểu, và rằng bất cứ tư tưởng nào cũng là một câu. 

Kế đó, Wittgenstein tạm thời không ngó ngàng gì tới triết học, cho tới khi tiêu hết số tiền thừa kế và sống cuộc đời khắc khổ, giản dị. Năm 1929, ông bắt đầu giảng dạy tại Ðại học Cambridge, và đăng ký cuốn Tractatus như một luận án tiến sĩ. Thời Thế chiến Hai, Wittgenstein làm việc tại các nhà thương ở Luân Ðôn và Newcastle vùng Tyne. Sau đó, ông quay lại dạy ở Cambridge, cho tới năm 1947 thì từ chức giáo sư. 

Từ năm 1936 tới năm 1949, trong suốt 14 năm, ông viết đi viết lại mãi cuốn Philosophische Untersuchungen (Các thẩm tra triết học), được xuất bản năm 1953, hai năm sau khi ông từ trần. Trong cuốn đó, Wittgenstein từ khước các học thuyết của mình trong cuốn Tractatus và tuyên bố rằng ý nghĩa ngôn ngữ học là chức năng của sử dụng đối với cái được diễn tả, hoặc ‘trò chơi ngôn ngữ’ mà trong đó chúng ta dự phần. 

---o0o---

23. Russell (1872 - 1970) 


Triết gia, nhà toán học và nhà nghị luận người Anh. Tên đầy đủ Bertrand Arthur William Russel the 3rd Earl. 

Xuất thân từ một dòng họ quí tộc. Ông chào đời tại Wales. Ông theo học Ðại học Cambridge, nơi về sau ông trở thành giảng viên rồi giáo sư và ban quản trị. Thời Thế chiến Một, những vận động hòa bình của Russell khiến ông mất chức trong ban quản trị, phải ở tù một thời gian vì xuất bản sách báo phản chiến. Năm 1931, ông kế thừa tước hiệu Bá tước. Tới năm 1938, ông sang Hoa Kỳ, dạy tại Ðại học Chicago và Ðại học California. Khi việc bổ dụng ông vào Ðại học New York không thành công do quan điểm cấp tiến của ông, Russell đến dạy tại Cơ sở Barnes Foundation ở Merion, Pennsylvania. 

Phần lớn các văn bản của Russell trong thời kỳ đầu đều tập trung vào toán học và luận lý học. Chung với Alfred Whitehead (1861–1947), ông viết bộ ba quyển Principia Mathematica (Nguyên tắc toán học, 1910–1913), vạch ra những mâu thuẫn trong hệ thống ký hiệu của Frege, và là một đóng góp lớn vào luận lý học biểu tượng. Bị quyến rũ mạnh mẽ vì tính chất hoàn hảo của toán học nên Russell ra sức tìm cách trả lời các vấn đề triết học theo những hình thức khắc nghiệt và trừu tượng của toán học. Tuy nhiên, về sau, trong cuốn Human Knowledge (Tri thức của con người, 1948), Russell không còn nhấn mạnh tới quyền năng của phân tích có tính luận lý học. Cũng trong thời kỳ này, ông khởi sự nỗ lực cho một công trình suốt đời, kéo giới hàn lâm đại học tới sát với giới đại chúng bình dân hơn, thí dụ cuốn Introduction to Mathematical Philosophy (Nhập môn triết học toán học, 1919). 

Thời Thế chiến Hai, nhờ từ bỏ chủ trương phản chiến và tuyên bố bênh vực chiến tranh trong một số tình huống nhất định, Russell được phục hồi địa vị trong ban quản trị Ðại học Cambridge vào năm 1944. Tới năm 1950, ông được giải Nobel Văn chương. Sau chiến tranh, Russell trở thành khuôn mặt hàng đầu cổ vũ cho chủ nghĩa hòa bình và đẩy mạnh ý tưởng tuyệt đối chống lại chương trình vũ trang và chạy đua vũ khí hạt nhân. Vào những năm cuối thập niên 1960, Russell cùng với Jean Paul Sartre chống lại Chiến tranh Việt Nam. Cả hai mở tại Geneve phiên tòa nổi tiếng, gọi là ‘Phiên tòa Russell xử tội ác chiến tranh Việt Nam’. 

Bên cạnh toán học và triết học, Russell viết về rất nhiều đề tài, gồm tâm lý học, đạo đức, giáo dục, cải tổ xã hội. Các văn bản của ông rất thông minh, sáng sủa với những ẩn dụ sống động. Trong cuốn Power (Quyền lực) Russell lập luận rằng động cơ chi phối những biến động và tranh đoạt chính trị trong một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau chính là lòng ham muốn quyền lực. 

Russell đã xuất bản hàng chục tác phẩm. Nổi tiếng nhất về triết học là những cuốn Philosophical Essays (Các tiểu luận triết học, 1910); History of Western Philosophy(Lịch sử triết học Tây phương, 1945); My Philosophical Development (Sự mở mang triết học của tôi, 1959); Wisdom of the West (Minh triết của Tây phương, 1959); Why I am not a Christian (Lý do tôi không là Kitô hữu, 1957), v.v. Bộ sách xuất bản sau cùng của ông là Autobiography (Tự truyện, 3 cuốn, 1967–1969). 

Bỏ qua một bên những quan điểm chiến tranh và chính trị đầy tranh cãi của Russell, sự đóng góp của ông về toán học, triết học có giá trị rất lớn. Ông đã mang tinh thần và phương pháp toán học vào triết học, hệ thống hóa tư tưởng triết học Tây phương và đem truyền thống triết học phân tích tới gần với truyền thống triết học lục đia. Ông là một trong các triết gia có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. 

---o0o---


tải về 439.67 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương