Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ



tải về 1.5 Mb.
trang6/28
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích1.5 Mb.
#37804
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28

ĐIỀU THỨ BẢY


Làm thế nào chư vị thiên thần, chính họ bị giam hảm trong lao tù của luân hồi,

Có thể bảo vệ cho bất cứ ai? Nhưng đấy là sự thực hành của

Những vị Bồ tát nương tựa Ba Ngôi Tôn Quý, là điều

Sẽ chẳng bao giờ lừa dối người quy y Tam bảo.

Dịch kệ:


7. Quy y

      Chư thiên cõi này chưa hết lo,

      Vẫn phải luân hồi, một ngày kia.

      Vướng bận như ta, sao che chở?

      Trong tù còn giải thoát ai khỏi?

      Nhưng Phật, Pháp, và bậc sống nương,

      Tự tại cứu độ - chẳng phụ lòng.

      Hãy đến quy y cùng Tam bảo -

      Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Câu hỏi được đưa ra là, chủ đề quy y nào là cần thiết?  Chúng ta bị giam hãm trong lao tù của sinh tử luân hồi và bị sự chế ngự của vọng tưởng nghiệp báo. Nếu chúng ta nhìn vào những vị vua chúa trần gian, a tu la, thổ địa, hay những thần linh, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều câu chuyện về những khổ đau mà họ đã giáng xuống cho con người. Nếu họ hành động một cách tích cực họ có thể làm lợi lạc cho chúng ta một ít, nhưng không đáng chú ý. Nếu họ là những loại chúng sinh mà con người cảm thấy cần phải tế lễ bằng sự giết súc vật nhầm để tránh gánh chịu sự phẫn nộ của vị ấy, thế thì họ không phải là đối tượng xứng đáng để nương tựa.

Thiên thần và ma quỷ tương tự như chúng ta trong điều là họ cũng bị khống chế bởi nghiệp báo và những sự nhiễm ô khác. Họ thiếu thô tướng của một thân thể nhưng giống với chúng ta trong sự quan tâm của người khác. Họ là những kẻ tôi tớ của phiền não giống như chúng ta, được gọi là vướng mắc, thù hận, và vô minh si ám. Do thế, thật vô nghĩa nếu chúng ta nương tựa vào thiên thần, a tu la và những chúng sinh khác, những kẻ phải chịu những phiền não giống như chúng ta.

Chúng ta quy y tìm kiếm cho một sự đầy đủ những điều mong đợi của chúng ta. Những đối tượng nào của quy y sẽ không bao giờ làm chúng ta thất vọng? Có ba điều: Tôn quý và tối thượng Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo. Để quy y từ chiều sâu của trái tim chúng ta đến Tam bảo, hiểu rõ giá trị  Tam bảo như cội nguồn của quy y qua lý trí, được biết như là sự thực hành của những vị Bồ tát.

Điều được gọi là quy y là điều làm sự phân biệt giữa những người Phật tử và không Phật tử. Chúng ta trở thành Phật tử khi chúng ta tin tưởng từ trong chiều sâu của tâm hồn rằng Tam bảo là nguồn gốc chân thật để nương tựa; trái lại những người thiếu một sự tin tưởng trong Tam bảo và không chấp nhận Tam bảo là cội nguồn thật sự của quy y thì không thật sự là những Phật tử, ngay cả nếu họ biết nhiều điều về Phật pháp.

Tính tự nhiên của Tam bảo - Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo - là gì? Phật là những ai hoàn toàn tự do với tất cả những sai lầm, đã diệt trừ chúng. Những sai lầm bị trừ khử không phải bên ngoài nhưng là bên trong, và nói một cách rộng rãi, chúng ta có thể nói rằng chứa đựng trong môi trường và chúng sinh khởi lên từ năng lực của nghiệp báo. Nghiệp báo này đến từ tâm thức không thuần hóa và phiền não. Những phiền não này cấu thành bất cứ loại tư tưởng nào, mà khi nó khởi lên quấy động tâm thức chúng ta và quấy rầy sự an bình nội tại. Do thế, sở hữu phiền não là khổ đau. Những phiền não mang lấy tên gọi như kết quả của những kiểu thức hành động của chúng.

Phiền não cấu thành cả vướng mắc (ái luyến) và ác cảm (ghét bỏ), và cội rễ của tất cả chúng là vô minh si ám đồng mình với tâm thức đóng kín. Qua năng lực của những nghiệp báo phiền não tích tập, và qua năng lực của nghiệp quả chín muồi, khổ đau hiện hữu. Những phiền não chính cần được phá hủy là vướng mắc, thù hận, và vô minh, cũng như những tư tưởng tiêu cực bất thiện, kể cả những chướng ngại ngăn trở chúng ta nhận diện những hiện tượng vi tế của tự nhiên. Tâm thức chúng ta trở nên toàn thiện toàn giác toàn trí do vượt thắng tất cả những trở lực này. Một con người được phú bẩm những phẩm chất như thế của tâm thức được biết như một đức Phật Thế Tôn.

Ngay cả đức Phật cũng không thường còn, và cũng không tồn tại một cách cố hữu. Phật tử cũng không tin rằng đức Phật giác ngộ từ ban sơ, và rằng chúng ta, những chúng sinh phải duy trì mãi mãi trong tình trạng hiện tại. Đức Phật người đã biểu hiện những hành vi giác ngộ tại Đạo Tràng mang tên Giác Ngộ này là một người bình thường như chúng ta lúc ban đầu. Ngài trở thành Phật do từ bỏ những sai lầm và phát sinh những phẩm chất thánh thiện, từng bước một. Do thế, chúng ta cũng không phải ở mãi trong thân phận chúng sinh mang kiếp luân hồi nếu chúng ta noi theo gương của Ngài.

Có một sự tin tưởng thông thường trong thế gian và trong quan niệm Tiểu thừa rằng đức Phật là một vị Bồ tát trong buổi ban đầu của cuộc đời Ngài và đạt đến giác ngộ trong khi thiền tọa dưới gốc cây Tất Bát La ở Đạo Tràng Giác Ngộ. Quan điểm của Đại thừa là tất cả những đức Phật không bao giờ lay động từ Pháp thân và những sự thị hiện khác nhau của hóa thân là xuất hiện một cách liên tục, một cách dần dần hay đột nhiên, trong các cõi tịnh độ và uế độ. Trong những hóa thân này đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni là thứ tư, đã thị hiện trong thế giới chúng ta.

Ngài đã sinh ra như một vị hoàng tử trong một hoàng gia, đã được chuẩn bị để cai trị vương quốc nhưng rồi thì đã quấn y và trở thành một sa môn. Trong sáu năm ngài đã thực hành khổ hạnh. Sau đấy ngài vượt thắng Ma vương và đạt đến giác ngộ. Đấy là ngài đã giác ngộ lần đầu tiên và đã tiêu trừ một cách hoàn toàn tất cả những nhiễm ô của vọng tưởng nhị nguyên, đơn thuần là một sự thị hiện.

Đức Phật có ba thân tự nhiên: Pháp thân là tâm quan sát hai chân lý đông thời và cũng phú cho với hai sự thanh tịnh4. Thân thể được phú cho với Pháp thân là thân vi tế và chỉ xuất hiện với những thành viên là thánh giả (Arya). Báo thân, được phú cho năm sự vững vàng5, duy trì cho đến khi vòng sinh tử luân hồi trống rỗng. Những hóa thân như  Phật Thích Ca và Phật Ca Diếp thị hiện từ báo thân.

Giáo pháp thật sự có hai khía cạnh: Phẩm chất viễn ly, điều siêu việt và tôn quý trong giáo pháp bao gồm mọi thứ từ sự nhổ gốc bất cứ khía cạnh sai lầm nào của tâm thức đến chân lý của sự chấm dứt (diệt đế) là điều trừ tiệt hoàn toàn tất cả hai chướng6 trong tâm một vị Phật. Rồi thì có phẩm chất của sự thực chứng, có nghĩa là sự thông hiểu tính không một cách trực tiếp, sự thật của con đường (giác ngộ). Những ai có thể phát sinh những phầm chất thực chứng và viễn ly trở nên tự tại với mỗi nguồn gốc đơn lẻ của sợ hãi, và vì thế giáo pháp có thể được xem như một đấng hộ vệ chân thật.

Tăng bảo bao gồm những người được phú cho kiến thức về viễn ly và thực chứng. Do thế, Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo tối tôn là chủ đề cho sự nương tựa quy y của Phật tử. Như minh chứng là những bậc hộ vệ, Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo hiện tại là riêng biệt với chúng ta và là những đối tượng cho lòng tín cẩn của chúng ta. Giống như một tội phạm tin tưởng vào luật sư của mình, tâm tư chúng ta nên tìm cầu sự bảo vệ nơi ba ngôi tôn quý này bằng việc tiếp nhận sự quy y.

Điều gì được liên hệ đến trong tiến trình tìm cầu sự bảo vệ từ Tam bảo? Đấy là việc xua tan những sai lầm và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta làm cho chúng ta có thể tự do với những khổ đau và được phú cho an lạc hạnh phúc. Để đạt đến điều này, chúng ta phải chấm dứt việc tích tập bất thiện nghiệp và chỉ tạo tác những thiện nghiệp mà thôi. Nhầm mục tiêu cho việc này, chúng ta phải tiêu diệt tâm thức vọng tưởng không thuần hóa là điều làm cản trở chúng ta với sự tích tập thiện nghiệp và việc chấm dứt sự phát triển bất thiện nghiệp.

Căn bản cho việc xua tan tất cả những lỗi lầm và phát sinh những phẩm chất tốt đẹp là tâm thức. Tâm thức có nhiều khía cạnh bao gồm năm thức của mắt, tai, mũi, lưỡi,và thân để nắm bắt những đối tượng của chính chúng là sắc, thinh, hương, vị và xúc. Trọng điểm mà sự nắm bắt những đối tượng gặp nhau là tâm thức chính, được biết như là ý thức hay giác quan tinh thần. Giác quan tinh thần ấy có những khía cạnh khác nhau, một trong những khía cạnh ấy là chức năng trong khi chúng ta thức. Có một loại vi tế hơn đây là chức năng trải qua khi ngủ và khi chúng ta uể oải.

Tại thời điểm lâm chung, giác quan tinh thần hay ý thức thô dần dần tan biến và chúng ta trải qua một tâm thức vi tế hơn, điều ấy do chính tính tự nhiên của nó chẳng bao giờ tiếp xúc với bất cứ phiền não nào. Những phiền não chỉ tồn tại trong ý thức thô mà thôi, và không hiện hữu trong tâm thức thật vi tế này. Do vậy, tính bản nhiên của tâm là tự do với những phiền não. Đấy là khi tâm thức thô hay ý thức thô sinh khởi thì vướng mắc, thù hận, và v.v… hiển hiện từ lúc này qua lúc khác. Nhưng những điều này không ảnh hưởng đến tính bản nhiên của tâm.

Thí dụ, ngay cả một người rất ít giận hờn thì tâm thức của người ấy sẽ không luôn luôn đầy ấp bởi giận dữ. Nếu tính bản nhiên của tâm không tự do với giận dữ, người ấy sẽ trải qua sự giận dữ một cách liên tục cho đến khi nào mà tâm thức người ấy vẫn hiện hữu. Cũng thế, nếu phiền não không thể tách rời tâm thức, thế thì tâm thức không thể uốn nắn hay rèn luyện được. Chúng ta tìm cầu từ bỏ hay ngưng dứt phiền não của tâm thức chứ không phải từ bỏ chính tâm thức.

Bản chất vướng mắc với một đối tượng và hiện trạng đẩy lùi một đối tượng khác là hai trạng thái khác nhau hoàn toàn của tâm thức và không thể tồn tại cùng một lúc. Những phiền não chẳng hạn như vướng mắc và ác cảm sinh khởi qua vô minh si ám là điều thấy những hiện tượng như tồn tại một cách thật sự. Cũng có những khía cạnh tích cực của tâm thức, mà chúng vận hành như sự đối trị đến những biểu hiện này của vô minh trong tâm thức.

Chẳng kể tâm thức phiền não mạnh mẽ hay kiên cố như thế nào, nếu chúng ta truy tìm nó và phân tích nó một cách thiện nghệ chúng ta thấy rằng bất cứ nó biểu hiện cho chúng ta được thấy trên một sự giả dối và giống như bong bóng nước chợt bùng lên. Chúng ta tin rằng những hiện tượng hiện hữu một cách chân thật, nhưng nếu chúng thật sự như thế, chúng ta có thể minh chứng sự hiện hữu đúng đắn của chúng khi chúng ta khảo sát chúng. Thay vì thế, sự khảo sát của chúng ta phơi bày rằng chúng không hiện hữu một cách thật sự trong thực trạng của chính chúng. Một khi chúng ta khám phá ra điều này, thì không thể tin tưởng những hiện tượng hiện hữu chân thật sinh khởi.

Theo lý do này, những tâm thức sai lầm tạm thời không có cơ sở vững vàng bởi vì nó được tìm thấy trong vô minh si ám, trái lại những phương diện tốt đẹp của tâm thức có một sự hỗ trợ trân trọng. Tâm thức sai lầm vọng tưởng tồn tại trong một trạng thái suy thoái và nếu chúng ta làm chính chúng ta thân quen với những phương diện tích cực của tâm thức là những điều có sự hỗ trợ đáng giá, chắc chắn tâm thức vọng tưởng đó sẽ trở nên càng ngày càng yếu kém hơn. Giống như nóng tăng thì lạnh giảm, ngược lại lạnh tăng thì nóng giảm; hay tựa như ánh sáng xua tan bóng tối ngày càng lan rộng cùng khắp khi năng lực của nó ngày càng được tăng trưởng.

Do thế, khi những phẩm chất tích cực của tâm thức được phát triển, những khía cạnh sai lầm sẽ mất đi năng lực và cuối cùng biến mất. Nhưng nếu trong thời gian thực tập những khả năng của tâm thức tích cực bị suy giảm những khía cạnh tiêu cực sẽ gia tăng một lần nữa, một số người rèn luyện trong tâm giác ngộ (bodhicitta) liên tục vài tháng và thấy một số điều cải thiện nhưng khi hờ hững sự tư duy trên tâm giác ngộ (bodhicitta) một lúc, người ấy sẽ ngừng thấy bất cứ sự cải thiện nào. Điều này là bởi vì người ấy không có sự hỗ trợ vững vàng và trân trọng của tuệ trí là điều thực chứng tính không.

Sự hỗ trợ càng trở nên vững vàng hơn nếu chúng ta thực hành trong sự phối hợp với phương pháp và tuệ trí. Do bởi những phẩm chất này tùy thuộc trên tâm thức, chúng tăng trưởng một cách vô hạn khi chúng ta thực hành và rèn luyện trong chủ đề này một cách liên tục; trong cách này chúng ta chắc chắn tăng trưởng những phẩm chất tốt đẹp và giảm thiểu những sai lầm của chúng ta. Sự thành tựu này về những phẩm chất tốt đẹp và giảm thiểu trong những phẩm chất hư vọng của tâm thức được biết như là Phật quả. Cuối cùng chúng ta phải phát sinh sự chân thật của con đường (giác ngộ) trong sự tiệm tiến liên tục tinh thần của chúng ta. Đây là giáo pháp siêu việt. Như một kết quả, chúng ta đạt đến những phẩm chất ngừng dứt từng phiền não riêng lẻ của tâm thức. Rồi thì chúng ta sẽ được tự do với khổ đau và sẽ thụ hưởng niềm hoan hỷ không thể phá hủy được.

Chúng ta nên thực tập dần dần trong cách này. Nếu không, đơn giản nhận thức rằng như hiện tại chúng ta là thực thể tách biệt với Tam bảo không thể làm nguôi những khổ đau của chúng ta. Trong thực trạng hiện tại thật khó khăn đạt đến phẩm chất của giáo pháp tối thượng7.  Tuy nhiên, chúng ta nên cố gắng đạt đến trạng thái này của phẩm chất giáo pháp siêu việt bằng việc quyết làm dần dần những sự thực hành chuẩn bị mở đầu trước khi tiến vào con đường (tu tập).

Cánh cửa chính trên con đường loại bỏ những lỗi lầm và thu thập những phẩm chất tốt đẹp là sự thực tập từ bỏ mười bất thiện nghiệp. Trong những điều này, ba hành vi bất thiện nghiệp hay ba việc không lành mạnh của thân thể là giết hại, trộm cắp, và hành dâm bất chính.

• Không giết hại

Sự giết hại bất cứ sinh vật nào từ loài người đến những côn trùng, nên được tránh. Nếu chúng ta giết hại, hành động này tổn hại đến thân thể và đời sống của kẻ khác và vì thế là nguyên nhân để phải trải qua sự hành hạ của khổ đau. Đấy là tại sao nói rằng giết hại liên hệ chúng ta trong hành vi bất thiện cực kỳ dữ dội. Một hành động như vậy hoặc là do động cơ giận dữ, như trong việc giết hại kẻ thù, hay bởi sự vướng mắc trong việc giết hại thú vật để ăn thịt của chúng.

Một số luận điển Đại thừa Phật giáo nói rằng ăn thịt tốt thôi, trong khi một số khác thì cho rằng hoàn toàn không đúng. Trong Luật tạng, hay những tài liệu về nguyên tắc, nói rằng những loại thịt nào đó thì bị cấm đoán, nhưng tự chính việc ăn thịt thì không hoàn toàn không được phép. Trong sự thực hành thông thường, điều xem như ổn thôi để ăn thịt mua từ chợ và nó được xem như là thanh tịnh trong ba khía cạnh, hơn là ăn thịt mà chúng ta đặt hàng một cách đặc biệt để con vật bị giết cho mục đích ăn thịt này. Chủ đề này được được bao hàm trong “Bản Chất Trung Đạo”, cùng những luận bản khác.

Thực tế rằng một số người thề chừa ăn thịt là tuyệt diệu. Tuy thế, nếu chúng ta bỏ việc ăn thịt lại ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe và đe dọa cho chính sự tồn tại của chúng ta trong khi thực hành giáo pháp, thế thì chúng ta phải cân nhắc điều nào quan trọng hơn và phán đoán trong mỗi trường hợp riêng lẻ. Sự giết hại thú vật đặc biệt vì thịt của chúng là một hành động bất thiện và điều ấy làm chúng ta đau buồn. Điều gì nữa, có một tập tục kinh khủng về việc sát sinh để cúng tế, mà động cơ từ sự vô minh si ám. Thật là kỳ diệu nếu không có ai trong hội chúng ở đây thi hành việc sát sinh  để cúng tế trong truyền thống văn hóa của mình. Nhưng nếu có một số ở đây theo truyền thống này, thế thì khi quý vị trở về nhà nên nói với những người của quý vị rằng đức Đạt Lai Lạt Ma cấm việc sát sinh cúng tế. Nếu bằng việc nói lên điều này quý vị có thể kêu gọi việc dừng lại những thực hành như thế trong cộng đồng quý vị, thì điều ấy rất tốt.

Nếu quý vị có một số vị thần linh cần thịt thú vật khi cúng tế, hãy nói với họ rằng mặc dù quý vị có ý định thể hiện việc cúng tế này đến họ, nhưng quý vị đã được đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu đừng làm thế và vì vậy quý vị không tự lo liệu được. Trong cách này, quý vị có thể đổ trách nhiệm lên chúng tôi. Mặc dù chúng tôi không có bất cứ năng lực nào của thực chứng, nhưng chúng tôi đang nói điều này trong khi tìm cầu sự nương tựa quy y trong luận điển của đức Phật Thế Tôn, và vì thế đấy là điều hợp lý để tuyên bố như thế. Nếu một số trong quý vị ở đây có tập tục sát sinh cúng tế như vậy, bây giờ quý vị đã tiếp nhận lễ quán đảnh Thời luân (Kalacakra) quý vị phải chấm dứt việc thực hành đó ngay lập tức. Điều này giống như một sự liên kết thiêng liêng hay chí nguyện, căn cứ trên những thuyết giảng tâm linh này.

Những kẻ mà con người cúng tế thịt thú vật giống như ma quỷ, là những kẻ có một lòng tham muốn máu và thịt. Những kẻ ấy không xứng đáng để cúng tế bởi vì họ không có năng lực để lấy mạng sống những chúng sinh khác, do thế, họ đã tìm cơ hội để ăn những thực phẩm như thế dựa trên con người.

• Không trộm cắp

Hành động bất thiện tiếp theo phải từ bỏ là trộm cắp, hay lấy những thứ mà không được cho phép, và điều này bao gồm bất cứ điều gì từ những đồ trang súc quý giá cho đến những thứ linh tinh nhỏ nhất. Trộm cắp xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Mặc dù nó không bị trừng phạt giống như sự tổn hại đến sinh mạng kẻ khác, tuy thế, nhưng người tước đoạt sở hữu của người khác phải kinh nghiệm khổ đau.

Trộm cắp có nhiều khía cạnh: Thí dụ, chúng ta có thể thấy và rồi giữ một sở hữu mà người náo đấy bị mất. Mặc dù chúng ta không trực tiếp đánh cắp, tuy vậy, người chủ của nó đã không cho đi hay bỏ đi vật ấy trong tâm niệm. Do thế, có một sự khả dĩ hay một cơ may rằng chúng ta sẽ tích lũy những việc tiêu cực giống như những người đã mang lấy nghiệp quả do việc thực sự lấy cắp đồ vật như vậy. Theo quan điểm của giáo pháp, nếu chúng ta thấy một đồ vật của người nào đấy chúng ta nên tìm và đưa lại cho người chủ thực sự của nó.

• Không tà dâm

Có nhiều loại tà dâm. Trong hình thức những người cư sĩ hành dâm bất chính thông thường liên hệ đến sự ăn nằm với những người khác không phải là người hôn phối của nhau. Đây là nguồn gốc chính của những mối tranh cãi và xung đột trong những con người từ những bậc trí thức ở những xứ phát triển cho đến những người bán khai ở những vùng đất chưa mở mang. Do thế, những sự xung đột như vậy sẽ không xảy ra nếu con người từ bỏ loại tà dâm này.

• Không nói những ngôn ngữ không lành mạnh

Tiếp theo chúng ta đi đến những ngôn ngữ không lành mạnh là điều liên hệ đến nói dối, nói lời hiểm độc, nói lời thô tục, và nói lời vô ích.

- Nói dối có nghĩa là nói rằng chúng ta đã từng thấy việc gì đấy mà chúng ta không thấy hay, ngược lại nói rằng chúng đã không thấy điêu gì đấy mà thực tế chúng ta đã thấy. Điều này bị thúc đẩy do bởi mong muốn thay đổi quan điểm của người khác và đấy là thái độ cực kỳ bất thiện, bởi vì nó lừa đảo và gian dối người khác. Điều quan trọng là luôn luôn nói sự thật.

- Nói lời hiểm độc nghĩa là nói những điều làm tan vỡ mối quan hệ hòa hiệp giữa những con người với nhau. Điều đó làm tổn hại đến toàn bộ xã hội và đánh cắp niềm hạnh phúc cùng tâm hồn thoải mái của cá nhân, do thế nó rất là tệ hại. Những bậc đạo sư lớn của dòng Kadampa đã từng nói:  “Hãy lưu tâm đến lời của bạn nói, khi bạn ở trong đám đông và hãy chú ý đến tâm tư của bạn khi bạn chỉ có một mình. Chỉ bằng việc mở miệng của bạn, bạn có thể bị vướng vào những thế giới thấp hơn”. Đây là một sự thật. Bằng sự nói năng trong một cung cách nào đấy, chúng ta có thể làm cho những người khác bị phê bình khiển trách hay lãnh lấy trách nhiệm và vì thế có một hiểm họa tích tập những bất thiện nghiệp trong cách đó, do vậy chúng ta luôn luôn chú tâm đến lời nói của chúng ta.

- Nói lời thô tục liên hệ đến những ngôn ngữ lỗ mãn hay gay gắt. Khi chúng tôi nói chuyện với người khác thỉnh thoảng dường như những ngôn ngữ sắp vụt ra khỏi miệng chúng tôi, thế nên chúng tôi cũng cần cẩn thận với ngôn ngữ của chúng tôi. Khi cơn giận nổi lên, chúng ta không nên dùng những ngôn ngữ thô tục với người khác, bằng việc nói những lời như, “Ngươi chẳng làm nên trò trống gì!” (You good-for-nothing) hay “Ngươi thật là ngốc” (You idiot!). Lời nói thô tục làm ưu phiền tâm tư người khác và nên từ bỏ, như những tiếng lóng hay tùy tiện, như, “Ê, tên kia!” (Hey, you!) và “Ê, ông kia!” (Hey, man!) khi dùng để làm giảm giá trị của người khác. Thí dụ, đức Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm luôn luôn gợi sự chú ý của người khác bằng cách kêu tên của họ lên.

- Nói lời vô ích liên hệ đến sự nói năng không có bất cứ mục đích gì và sinh khởi từ vọng tưởng. Những thí dụ bao gồm nói chuyện về những thứ nhơ bẩn vì những lợi lạc ấy, hay thảo luận về chiến tranh và xung đột. Tóm lại, chúng ta nên chấm dứt sự say sưa trong tán gẫu hay nói năng bắt nguồn từ vọng tưởng những thứ như dính mắc và giận hờn đối với chính chúng ta và người khác. Hãy nói bất cứ điều gì cấn thiết để nói và những lúc khác thì nên giữ im lặng. Điều này thật là tuyệt hảo.

Bây giờ chúng ta có thể thảo luận về hoạt động không lành mạnh của tâm thức, những điều ấy gồm ba loại, mang tên là sự tham lam, ý chí bệnh hoạn và quan niệm sai lầm.

• Sự tham lam (tham) liên hệ đến việc tập trung trên những sở hữu vật chất của những người khác và hy vọng  cùng cầu nguyện chúng ta có thể thu được những thứ ấy.

• Ý chí bệnh hoạn (sân) nghĩa là tập trung vào những người khác với tâm tư tương phản và một xu hướng làm tổn hại.

• Quan niệm sai lầm (si) bao gồm tư tưởng không có đời sống sau khi chết, không có nhân quả cũng không có Tam bảo, và được xem như đeo mang một điều trọng yếu tiêu cực rất nặng nề.

Nhận thức mười điều không lành mạnh này và từ bỏ chúng được gọi là sự thực hành của mười điều thiện (thập thiện nghiệp).

Lối vào sự thực hành giáo pháp bắt đầu từ nơi này. Dần dần, có tâm thức phát triển, chúng ta phát sinh nguyện ước giải thoát chúng ta khỏi vòng sinh tử luân hồi cũng như phát khởi xu hướng vị tha để giúp đỡ những người khác. Tương tự như thế, từng bước từng bước một chúng ta có thể đạt đến con đường của chân lý trong chính chúng ta với tất cả những đặc trưng của chúng – thấy tính tự nhiên của vô thường trong những đối tượng, tính tự nhiên của vô ngã trong những hiện tượng và tính tự nhiên của khổ đau trong phiền não của chúng sinh. Chúng ta tạo dựng an lạc hạnh phúc và giải thoát khỏi khổ đau bằng việc nương trên con đường ngừng dứt (diệt đế) và của chân lý. Do thế, giáo pháp được những người Phật tử biết như sự nương tựa quy y chân thật.

Tăng bảo cũng rất quan trọng như một gương mẫu để noi theo, và chúng tôi thấy điều này rất hữu ích. Không kể những người hiện hữu trong ‘Kỷ nguyên Hoàn thành8, chúng ta cũng bắt gặp trong thời đại ngày nay những người ít quan tâm đến những vấn đề thế tục và được chuẩn bị để hy hiến trong những công tác xã hội nhầm để thực hành yêu thương, từ bi, tâm giác ngộ một cách chân thật, và những tầng bậc vững vàng bao quát thẳng đến chính cốt tủy của con đường (giác ngộ). Khi chúng tôi gặp gỡ những người như thế, chúng tôi tự nghĩ, “Tại sao chúng tôi đã không hoàn tất điều họ đã làm? Điều gì đang ngăn cản chúng tôi để hoàn thành điều ấy?  Chúng tôi khẳng định sẽ hoàn tất điều ấy”. Những tư tưởng thế ấy phát khởi trong tâm tư chúng tôi tùy thuộc lợi ích và sự ân cần của những người bạn tâm linh, Tăng già. Do thế, những người như thế nên được xem như là những đối tượng gương mẫu và những thiện hữu tri thức tâm linh, cho dù họ có là một thành phần thật sự của Tăng bảo hay không. Và chúng ta nên thực hành giáo pháp noi theo những mẫu mực ấy.

Theo giáo huấn Đại thừa, những thành viên nào thật sự của Tăng già tôn quý đã trau dồi tâm giác ngộ (bodhicitta) trong sự tiệm tiến liên tục của họ và được hỗ trợ bởi tâm giác ngộ (bodhicitta) đã đạt đến sự hiệp nhất của tịch tĩnh bất động và tuệ giác nội quán tam muội bằng sự thực chứng tính không một cách trực tiếp. Đã đạt đến phầm chất của lĩnh vực thứ nhất (sơ thiền) và trên nữa, họ can trường và có thể hoạt động vì những lợi ích của những người khác một cách thành công. Họ có nội lực phi thường, được phú cho một kiến thức tinh khiết và không thể đánh bại. Do vậy chúng ta có thể thấy rằng Phật bảo là Đấng thủ hộ và giống như là một vị y sư, Pháp bảo là sự chân thật và giống như là y dược, và Tăng bảo tâm linh giống như là y tá, chăm sóc chúng ta như những người bạn tốt.

Những vị Bồ tát nào đang tìm cầu vị trí cao nhất của giác ngộ nhầm để làm lợi ích cho những người khác dang thực hành để tìm cầu sự quy y trong Tam bảo. Tiếp nhận sự quy y là sự thực hành của những vị Bồ tát, và đoạn kệ thứ bảy được kết luận với lời tuyên bố này.


---o0o---


tải về 1.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương