BỘ TƯ pháp s dự thảO ố: /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 0.99 Mb.
trang6/8
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích0.99 Mb.
#37777
1   2   3   4   5   6   7   8

8.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Về công tác bổ trợ tư pháp: (1) trong hoạt động luật sư, một trong những khó khăn còn gặp phải trong quá trình triển khai thi hành các văn bản và chính sách trong lĩnh vực luật sư là ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, tinh thần tự giác tuân theo pháp luật của một bộ phận luật sư chưa cao đã ảnh hưởng đến chủ trương xã hội hóa hoạt động luật sư. (2) Về hoạt động giám định tư pháp, nhận thức của một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan tiến hành tố tụng về công tác xã hội hóa hoạt động này còn hạn chế, chưa đầy đủ; các tổ chức chuyên môn, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực giám định còn có tâm lý e ngại trong việc cung cấp dịch vụ chuyên môn cho hoạt động tố tụng. Chưa có cơ chế mạnh mẽ, rõ ràng nhằm bảo đảm lợi ích về vật chất cho các tổ chức và chuyên gia giỏi khi tham gia vào hoạt động giám định tư pháp. (3) Việc hướng dẫn thực hiện thẩm quyền công chứng, chứng thực còn lúng túng; việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng của một số địa phương chưa thực hiện đúng theo quy hoạch.



- Về trợ giúp pháp lý, (1) Hệ thống tổ chức TGPL nhà nước chưa phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu; công tác xã hội hoá hoạt động TGPL còn hạn chế; hoạt động TGPL đang dần chuyển hướng trọng tâm vào các vụ việc tố tụng, nhưng vẫn còn chậm. (2) Kinh phí bố trí cho công tác TGPL về giảm nghèo còn hạn hẹp, việc cấp phát chậm nên ngân sách nhà nước chưa đảm bảo được kinh phí để thực hiện trong các Chương trình đã đề ra78.

b) Nguyên nhân

- Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở một số nơi chưa được phát huy đầy đủ, năng lực tự quản còn hạn chế; công tác phối hợp giữa tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư và cơ quan quản lý nhà nước còn chưa nhịp nhàng.

- Việc bố trí nguồn nhân lực và cơ sở vật chất để triển khai có hiệu quả các văn bản, đề án về lĩnh vực luật sư, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản; hoạt động thanh tra, kiểm tra các cá nhân, tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.

- Công tác TGPL đang thực hiện chuyển hướng chiến lược nên nhận thức của một số cán bộ làm công tác quản lý và thực hiện TGPL ở Trung ương và địa phương về công tác TGPL trong giai đoạn mới còn chưa đầy đủ, thông suốt.

- Thể chế về TGPL còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.

- Công tác quản lý nhà nước về TGPL còn thiếu sự kết nối giữa Trung ương và địa phương; hệ thống tổ chức TGPL nhà nước chưa phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu thực tiễn do chưa tính đến đặc thù vùng miền.



9. Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật

9.1. Kết quả đạt được

a) Công tác pháp luật quốc tế

Công tác pháp luật quốc tế ngày càng được chú trọng và đạt nhiều kết quả tích cực. Bộ, ngành Tư pháp ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc bảo đảm về mặt pháp lý trong các lĩnh vực, hoạt động có liên quan đến pháp luật quốc tế, qua đó nâng cao vị thế của Bộ, Ngành.

- Thể chế cho công tác cấp ý kiến pháp lý đã có bước hoàn thiện quan trọng với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2015/NĐ-CP ngày 26/5/2015 về cấp ý kiến pháp lý. Trong năm, Bộ Tư pháp đã đàm phán và cấp 47 ý kiến pháp lý cho các hiệp định vay nước ngoài (giảm 23 ý kiến pháp lý so với năm 2014).

- Việc chủ trì và đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp quốc tế là nhiệm vụ mới được giao cho Bộ Tư pháp từ năm 2013 nhưng đã liên tục đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tiếp theo thắng lợi của 02 vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế (một vụ năm 2013 và một vụ năm 2014), năm 2015 Chính phủ Việt Nam tiếp tục giành thắng lợi thêm vụ thứ ba; hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong giải quyết 02 vụ việc nhà đầu tư nước ngoài kiện Chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng hỗ trợ một số địa phương giải quyết các tranh chấp do nhà đầu tư nước ngoài kiện Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

- Về lĩnh vực tương trợ tư pháp: Bộ Tư pháp đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành để chuẩn bị các điều kiện để bảo đảm thi hành Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp khi Việt Nam chính thức gia nhập Công ước này. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã thực hiện 800 hồ sơ uỷ thác tư pháp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (giảm 121 hồ sơ so với năm 2014); gửi 3.727 hồ sơ đến các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giải quyết (tăng 197 hồ sơ so với năm 2014); tiếp nhận và chuyển 15 yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, Trọng tài nước ngoài (tương đương với năm 2014). Bộ Tư pháp cũng đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả tổng kết 20 năm thực thi Công ước Niu - ước năm 1958 về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp được giao là cơ quan đầu mối quốc gia trong thực hiện Công ước này.

b) Công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật

Thể chế cho công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật tiếp tục được hoàn thiện với việc ban hành Thông tư 07/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP ngày 26/11/2014 về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và nghiên cứu, xây dựng các Đề án, văn bản để triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật 79.



Trong năm 2015 và cả nhiệm kỳ 2011-2015, công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật không ngừng được thúc đẩy trên cả ba bình diện toàn cầu, khu vực và song phương, qua đó phục vụ, hỗ trợ tích cực cho các hoạt động của Bộ, Ngành. Số lượng đàm phán, ký kết các Thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật tăng hàng năm (xem biểu đồ số 12).



Biểu đồ số 12: Tình hình ký kết, đàm phán Thỏa thuận quốc tế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2011-2015

- Hợp tác đa phương toàn cầu tiếp tục được đẩy mạnh thông qua việc hoàn thiện thủ tục trình Hồ sơ gia nhập/Đề án nghiên cứu khả năng gia nhập các tổ chức quốc tế đa phương về pháp luật (ALLCO, UNIDROIT, IDLO)80, tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức của Liên hợp quốc (UNDP, UNWOMEN, UNODC, UNICEF…), Ngân hàng thế giới, IFC...

- Hợp tác đa phương khu vực tiếp tục được chú trọng, đặc biệt đối với hợp tác ASEAN và Liên minh châu Âu với các hoạt động cụ thể như: xây dựng và thực hiện Kế hoạch tuyên truyền, quảng bá ASEAN của Bộ Tư pháp; tích cực tham gia các hoạt động tiến tới thành lập Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015; nghiên cứu xây dựng Sáng kiến mới của Việt Nam trong ASEAN về “Thiết lập và triển khai Nhóm quan hệ đối tác pháp luật ASEAN”, tham dự Hội nghị Bộ trưởng tư pháp các nước ASEAN (ALAWMM) lần thứ 9 và Hội nghị Quan chức pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM) lần thứ 16; xây dựng dự án mới với EU về Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam (Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thay mặt Chính phủ ký kết Hiệp định tài chính về Dự án vào ngày 28/11/2015 nhân chuyến thăm và làm việc của Thủ tướng Chính phủ tại Liên minh Châu Âu).

- Hợp tác song phương: Năm 2015 và nhiệm kỳ 2011-2015, đã thúc đẩy hiệu quả quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng có chung đường biên giới, làm sâu sắc quan hệ hợp tác với Lào - Campuchia. Quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã được nối lại và làm sâu sắc hơn (như Nga, Séc, Slovakia, Azerbaijan, Hungary, Armenia). Cùng với đó, Bộ, ngành Tư pháp cũng thúc đẩy các quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống, đối tác chiến lược, toàn diện như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Singapore; thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác mới như Luxambua, Xrilanca, U-dơ-be-ki-xtan, Cata, Nam Phi, Angieri...

Năm 2015, Bộ Tư pháp đã tổ chức 17 đoàn công tác nước ngoài của Lãnh đạo Bộ, trong đó có 04 Đoàn do Bộ trưởng và các Thứ trưởng tháp tùng Lãnh đạo Đảng, Quốc hội và Chính phủ; tổ chức tiếp đón 18 đoàn vào (trong đó có 10 đoàn cấp Bộ), cùng với hàng trăm buổi tiếp khách quốc tế (bao gồm cả các buổi làm việc với chuyên gia quốc tế vào tham dự hội thảo hay các đối tác, nhà tài trợ trong quá trình thực hiện Kế hoạch năm của các chương trình, dự án đã được phê duyệt), qua đó tăng cường việc học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phục vụ hiệu quả cho các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, nhất là đối với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật.



9.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân

9.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Việc cấp ý kiến pháp lý trong một số trường hợp còn bị động; tính chủ động của các địa phương trong giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế chưa cao. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực tương trợ tư pháp chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực. Nhiều yêu cầu uỷ thác tư pháp về dân sự không có kết quả, ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng, và việc giải quyết các vụ việc dân sự - thương mại; tỷ lệ không công nhận các quyết định của trọng tài nước ngoài còn cao, nhất là các quyết định của trọng tài liên quan đến các doanh nghiệp của Mỹ, Anh, Thụy Sỹ...

- Việc tổ chức triển khai thực hiện các văn kiện hợp tác quốc tế tuy đã được quan tâm nhưng chưa được rà soát, điều chỉnh, cụ thể hóa kịp thời thành các hoạt động hợp tác hàng năm để khai thác, tranh thủ tối đa kết quả hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Bộ, Ngành trong bối cảnh chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Một số hội nghị, hội thảo quốc tế được tổ chức chưa thực sự hiệu quả, thậm chí có trường hợp chưa tuân thủ các quy định về đối ngoại; việc chia sẻ thông tin, chế độ báo cáo về kết quả các chuyến công tác, kết quả hội nghị, toạ đàm chưa kịp thời.

b) Nguyên nhân

- Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức đề nghị cấp ý kiến pháp lý và Bộ Tư pháp trong một số trường hợp còn chưa đồng bộ; một số địa phương chưa nắm được quy định về cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Sự phối hợp trong uỷ thác tư pháp về dân sự giữa các cơ quan còn nhiều khó khăn; cơ quan tố tụng chưa cân nhắc đến các quy định của Công ước Niu – ước năm 1958 về Công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài khi ra các phán quyết không công nhận quyết định của trọng tài nước ngoài.

- Nhân lực thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật còn mỏng; một số cán bộ, công chức làm công tác hợp tác quốc tế tại các đơn vị chưa nắm bắt đầy đủ quy trình, nghiệp vụ trong triển khai các chương trình, dự án hợp tác.

10. Công tác xây dựng Ngành; quản lý nhà nước về pháp chế; đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học pháp lý

10.1. Kết quả đạt được

a) Công tác xây dựng Ngành

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, Ngành Tư pháp trong giai đoạn 2011-2015 không ngừng được tăng cường, mở rộng và làm sâu sắc thêm81. Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ đã hệ thống hóa, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn cho Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình củng cố82, kiện toàn và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ, ngành Tư pháp. Tính đến hết năm 2015, tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp có 37 đơn vị, tăng 09 đơn vị so năm 200983, trong đó một số đơn vị đã được chuyển đổi mô hình hoạt động từ Vụ thành Cục để đáp ứng yêu cầu gắn xây dựng thể chế với tổ chức thực thi pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong giai đoạn mới.

Đối với các cơ quan tư pháp địa phương, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã được kiện toàn theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV. Đến nay đã có 57/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, các địa phương còn lại cũng đã cơ bản hoàn thành dự thảo Quyết định để trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định84. Đồng thời, căn cứ hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, các địa phương cũng đã kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các Phòng Tư pháp cấp huyện và nhiệm vụ công tác tư pháp cấp xã. Trên cơ sở các quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được ban hành, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đang tiến hành sắp xếp, bố trí cán bộ, sửa đổi quy chế làm việc. Việc rà soát, thống kê về trình độ, tiêu chuẩn đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch, công chức thuộc Phòng Tư pháp theo yêu cầu triển khai Luật Hộ tịch được chú trọng.

b) Quản lý nhà nước về công tác pháp chế

Việc phối hợp, quản lý nhà nước trong công tác pháp chế được chú trọng tăng cường. Năm 2015, đã đẩy mạnh phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Uỷ ban Dân tộc; xây dựng Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2015-2020; phối hợp với các bộ, ngành, doanh nghiệp tổ chức các Hội nghị sinh hoạt pháp chế thường niên (Bảo hiểm XHVN, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam...).

Thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, ở Trung ương, tính đến năm 2015, tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ đều đã thành lập Cục, Vụ Pháp chế; tổ chức pháp chế của các cơ quan thuộc Chính phủ cũng đã được thành lập, củng cố, kiện toàn; ở nhiều Tổng cục và tương đương, Cục trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ cũng đã thành lập tổ chức pháp chế chuyên trách hoặc bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác pháp chế. Đến nay, có 2612 người làm công tác pháp chế (chuyên trách là 1340 người, kiêm nhiệm là 1272 người) được biên chế tại các tổ chức pháp chế thuộc Bộ, ngành, hầu hết đều có trình độ đại học luật trở lên. Ở cơ quan chuyên môn thuộc UBND các tỉnh, thành phố, đã thành lập được 286 Phòng Pháp chế (trước năm 2011 có 40 Phòng Pháp chế và có 70 Tổ công tác pháp chế), với số lượng là 2.059 người, trong đó có 1071 người có trình độ đại học luật trở lên đạt hơn 52% (chuyên trách là 1312 người, kiêm nhiệm là 747 người).

c) Công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng

Trong nhiệm kỳ 2011-2015, đội ngũ cán bộ, công chức của ngành Tư pháp ngày càng lớn mạnh bước đầu cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ85. Công tác quản lý cán bộ tiếp tục có sự đổi mới và chuyển biến tích cực, theo chủ trương của Đảng về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; triển khai và thực hiện đúng quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức86; chất lượng tuyển dụng công chức, viên chức được chú trọng nâng cao. Công tác bổ nhiệm cán bộ có sự đổi mới mang tính đột phá87, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, thu hút nhân tài vào các vị trí cán bộ lãnh đạo của Bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được nâng tầm chiến lược88;

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, Ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được nâng cao, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ quản lý, thực thi pháp luật và tư pháp của Bộ, Ngành89 (41,3% có trình độ trên đại học, 51% trình độ đại học); công tác đào tạo cán bộ pháp luật cho chính quyền cơ sở và đặc biệt là chuẩn hóa đội ngũ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã được quan tâm chỉ đạo90; đặc biệt, với việc về đích sớm 2 năm việc thực hiện Quy hoạch thành lập mạng lưới các trường Trung cấp Luật đã tạo điều kiện quan trọng tăng cường đào tạo nguồn cán bộ pháp luật cho các địa phương, nhất là cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã trong những năm qua91.

Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ được thực hiện nghiêm túc, chất lượng. Thực hiện Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước92, làm cơ sở quan trọng để Bộ Tư pháp làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sạch, vững mạnh, có trình độ và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Ngành trong thời gian tới. Một số cán bộ lãnh đạo Bộ, Vụ được đưa vào diện quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, thể hiện sự quan tâm, tín nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ, công chức của Bộ, ngành Tư pháp.

Công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo của Bộ ngày càng được đẩy mạnh. Riêng năm 2015, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức tốt nghiệp cho sinh viên chính quy khóa (2011 - 2015) với tổng số 1.509 sinh viên; Học viện Tư pháp đã tổ chức đào tạo 2.396 học viên93, bồi dưỡng các chức danh tư pháp, cán bộ pháp luật, bồi dưỡng ngạch và tiêu chuẩn quản lý lãnh đạo là 3.584 lượt học viên và công nhận tốt nghiệp cho 402 học viên về nghiệp vụ công chứng, đấu giá; các Trường Trung cấp luật đã tổ chức tuyển sinh 8.038 học viên94, cơ sở vật chất phục vụ dạy và học tại các Trường Trung cấp luật được quan tâm đầu tư. Đã tổ chức khánh thành giai đoạn 1 xây dựng Trường Trung cấp Luật Đồng Hới, góp phần to lớn, phục vụ cho việc nâng cao điều kiện dạy và học cho nhà trường.

d) Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý

Với vai trò đầu mối giúp Chính phủ tổ chức triển khai nhiệm vụ tổng kết giai đoạn 2011-2015 việc thi hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 22/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch, phân công, hướng dẫn các Bộ, ngành thực hiện, bảo đảm yêu cầu về chất lượng, tiến độ. Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã hoàn thành Báo cáo95 và giúp Chính phủ xây dựng Báo cáo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW.

Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển khai: 48 nhiệm vụ khoa học (25 nhiệm vụ chuyển tiếp; 23 nhiệm vụ giao mới triển khai trong năm 2015). Trong đó có: 03 đề tài cấp nhà nước; 28 nhiệm vụ cấp bộ (bao gồm: 01 đề tài và 01 đề án thuộc chương trình; 25 đề tài; 01 đề án khảo sát, đánh giá tác động kinh tế - xã hội của việc thí điểm thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố); 10 nhiệm vụ cấp cơ sở (08 đề tài; 01 đề án và 01 hội thảo); 05 nhiệm vụ điều tra cơ bản; 02 nhiệm vụ môi trường. Tại các cơ sở đào tạo của Bộ, công tác nghiên cứu khoa học pháp lý tiếp tục được đẩy mạnh, phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy96.

Nhiệm kỳ 2011-2015, công tác nghiên cứu khoa học đã góp phần tích cực vào việc xây dựng các luận cứ lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các dự án luật lớn do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (Bộ Luật dân sự (sửa đổi), Bộ Luật hình sự (sửa đổi), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (hợp nhất), Luật trợ giúp pháp lý, Luật chứng thực, Luật hộ tịch...); góp ý hoàn thiện những nội dung liên quan tới xây dựng Nhà nước pháp quyền, xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; giải đáp được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần quan trọng vào việc triển khai nhiều nhiệm vụ quản lý của ngành trên các lĩnh vực như thi hành án, hành chính tư pháp, trợ giúp pháp lý, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật...



10.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Việc triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV mới chỉ tập trung vào việc ban hành kế hoạch thực hiện và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp mà chưa quan tâm toàn diện đến các vấn đề kiện toàn về biên chế, cán bộ nên dẫn đến những khó khăn, lúng túng trong quá trình sắp xếp cán bộ theo mô hình tổ chức mới. Đến nay, vẫn còn 6/63 địa phương đang xây dựng dự thảo Quyết định97.

- Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức, người lao động trong Ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là sự gắn kết giữa chuyên môn luật với các lĩnh vực khác của kinh tế - xã hội.

- Việc kiện toàn tổ chức pháp chế ở địa phương còn chậm; chính sách thu hút đội ngũ người làm công tác pháp chế chậm được ban hành; tính chủ động trong việc triển khai các mặt công tác pháp chế ở một số tổ chức pháp chế từ Trung ương đến địa phương còn chưa cao; vẫn còn một số lãnh đạo Bộ, cơ quan, địa phương chưa coi trọng vị trí, vai trò công tác pháp chế trong chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội dẫn đến việc bố trí chưa đủ nguồn lực để triển khai thực hiện.

- Việc triển khai một số Đề án về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là việc triển khai Đề án tổng thể "Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật" và Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” còn chậm.

- Tuyển sinh đào tạo hệ trung cấp luật còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc xây dựng Pháp lệnh đào tạo một số chức danh tư pháp gặp nhiều vướng mắc.

- Chương trình và phương pháp đào tạo tuy có đổi mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Các chuyên ngành đào tạo ít mang tính hướng nghiệp, chưa bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Cơ cấu các chuyên ngành còn thiếu linh hoạt, thiếu các chuyên ngành mới mang tính đột phá, chưa phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học pháp lý hiện đại. Nội dung giảng dạy còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn; chưa cập nhật các kiến thức khoa học pháp lý mới.

- Chất lượng của một số công trình nghiên cứu khoa học chưa có các phát hiện có giá trị khoa học cao từ nghiên cứu hàn lâm còn ít; các giải pháp đưa ra trong nghiên cứu ứng dụng trong một số trường hợp còn chung chung, khó biến ý tưởng thành các giải pháp ứng dụng khả thi; chưa có giải pháp mang tính đột phá trong chuyển giao, quảng bá nghiên cứu đến địa chỉ ứng dụng để phục vụ kịp thời nhiệm vụ xây dựng pháp luật và quản lý ngành; việc thu hút các nhà khoa học trong và ngoài ngành, cũng như cán bộ tư pháp ở địa phương tham gia vào nghiên cứu còn hạn chế.



b) Nguyên nhân

- Khó khăn về biên chế, cán bộ của các cơ quan tư pháp nằm trong bối cảnh khó khăn chung của việc thực hiện quyết tâm tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; sự quan tâm của Lãnh đạo một số Bộ, ngành và địa phương trong việc kiện toàn cán bộ pháp chế, tư pháp chưa kịp thời; một số lãnh đạo địa phương chưa thực sự coi trọng vị trí, vai trò của công tác pháp chế; nhận thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan, cán bộ tư pháp còn hạn chế nên chưa có sự đổi mới, đề cao tính sáng tạo, tích cực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Nguồn đầu vào để tuyển sinh đào tạo hệ trung cấp luật ngày càng thu hẹp do sự cạnh tranh của các cơ sở đào tạo, các loại hình đào tạo khác; kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở, vật chất của các Trường Trung cấp luật còn chưa kịp thời, đầy đủ; đặc biệt, tư duy bao cấp, ỉ lại, thiếu tính cạnh tranh đã làm cho việc chậm đổi mới Chương trình và phương pháp đào tạo chậm được đổi mới, chất lượng đầu ra không đáp ứng yêu câu cuộc sống.

- Lực lượng nghiên cứu khoa học pháp lý nhìn chung còn mỏng. Kinh phí phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn hạn chế; chưa có cơ chế phù hợp để thu hút, giữ chân nhà khoa học đầu ngành và các nhà khoa học trẻ tài năng.



11. Công tác kế hoạch, thống kê, ngân sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản; thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

11.1. Kết quả đạt được

a) Công tác kế hoạch, thống kê, ngân sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản

- Năm 2015 và nhiệm kỳ 2011-2015, công tác xây dựng kế hoạch ngày càng đi vào nền nếp, được thực hiện đúng quy trình. Hàng năm, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đều ban hành Kế hoạch công tác năm, trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong năm. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tích cực nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 20/2013/TT-BTP ngày 03/12/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thống kê để nâng cao chất lượng thông tin thống kê, phục vụ có hiệu quả yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ, ngành.

- Việc xây dựng phương án phân bổ dự toán NSNN năm 2015, bao gồm kinh phí chi thường xuyên và vốn đầu tư phát triển, nhất là cho các dự án đầu tư được thực hiện đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng thời hạn theo quy định, điều hành ngân sách bám sát Nghị quyết số 01/NQ-CP và Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 21/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2015. Hoàn thành công tác chuẩn bị hồ sơ tài liệu, tổng hợp toàn bộ các hoạt động tài chính, tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản và làm việc với Đoàn Kiểm toán Nhà nước kiểm toán việc quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước năm 2014 của Bộ Tư pháp. Trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, năm 2015 đã cấp vốn để khởi công xây dựng giai đoạn 2 của trụ sở trường Trung cấp luật Buôn Ma Thuột, trường Trung cấp Luật Thái Nguyên, trường Trung cấp Luật Đồng Hới và Cơ sở của Học viện Tư pháp tại TP.Hồ Chí Minh và 26 dự án khối cơ quan THADS ở địa phương; phê duyệt 21 dự án quyết toán hoàn thành và 26 dự án khởi công mới năm 2016; xây dựng và bảo vệ Kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020.

b) Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

Tổ chức bộ máy thực hiện công tác thanh tra của Bộ Tư pháp tiếp tục được mở rộng với việc bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành cho Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và Cục Bổ trợ tư pháp; các hoạt động thanh tra, kiểm tra đã được thực hiện một cách thường xuyên theo kế hoạch hoặc đột xuất. Năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển khai 28 đoàn thanh tra, kiểm tra (17 đoàn thanh tra theo kế hoạch, 02 Tổ công tác thu thập thông tin liên quan để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; 05 đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và 04 đoàn thanh tra đột xuất do phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu quản lý nhà nước). Tính cả nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng số 134 cuộc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Kết quả, đã thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền là 1.423.985.256 đồng98, xử phạt vi phạm hành chính số tiền là: 383.750.000 đồng99.

Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được thực hiện thường xuyên, đúng quy định. Các đơn vị thuộc Bộ đã phân công cán bộ, công chức có năng lực, chuyên môn phù hợp để thực hiện việc tiếp công dân theo quy định của Luật tiếp công dân; hàng tháng, Lãnh đạo Bộ đều tổ chức tiếp công dân theo lịch tiếp công dân được đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Năm 2015, Bộ Tư pháp đã tiếp 467 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo (tăng 80 lượt - 21% so với năm 2014) và tiếp nhận 2.221 đơn thư khiếu nại, tố cáo, trong đó có 531 đơn thuộc thẩm quyền (tăng 137 đơn - 34% so với năm 2014), 1.690 đơn không thuộc thẩm quyền (tăng 51 đơn - 37,8% so với năm 2014). Bộ, ngành Tư pháp cũng đã thực hiện nghiêm túc việc tổng kết 10 năm thực hiện luật phòng, chống tham nhũng.

11.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Công tác phân bổ, thực hiện dự toán vẫn còn điều chỉnh, bổ sung nhiều lần trong năm; tình trạng chậm quyết toán một số dự án hoàn thành theo quy định; thời gian thực hiện chủ trương đầu tư các dự án trong kế hoạch đầu tư trung hạn (2017-2020) bị kéo dài.

- Việc gửi báo cáo thống kê của một số cơ quan, địa phương còn chậm so với quy định; chất lượng báo cáo thống kê vẫn chưa cao, tuy có cải thiện một bước nhưng nhìn chung nhiều báo cáo vẫn còn mắc các lỗi bất hợp lý về nội dung số liệu nên phải đính chính, điều chỉnh nhiều lần.

- Công tác thanh tra chậm được đổi mới về phương thức hoạt động, một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao; một số địa phương chưa thực hiện thường xuyên, chưa kịp thời trong bối cảnh xã hội hoá một số lĩnh vực công tác tư pháp đã và đang được đẩy mạnh. Tình trạng chậm giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành được giao tại Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp còn chậm.



b) Nguyên nhân

- Dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ của một số đơn vị được xây dựng chưa sát, chậm xây dựng; một số thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm về công tác thống kê; kỷ luật trong công tác thống kê chưa cao...; kỹ năng thống kê số liệu của một số cán bộ làm công tác tổng hợp số liệu của một số Sở Tư pháp địa phương, một số cơ quan, đơn vị, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế.

- Nhiều nhiệm vụ mới phát sinh, nhưng không được cấp bổ sung kinh phí, dẫn đến việc phải cân đối, điều chỉnh dự toán nhiều lần. Luật Đầu tư mới được ban hành, chưa có văn bản hướng dẫn; nhiều chủ đầu tư không có chuyên môn về xây dựng nên việc tổ chức triển khai thực hiện dự án còn lúng túng, chậm tiến độ.

- Nhiều vụ việc khiếu nại có tính chất phức tạp, cần có sự thống nhất của nhiều ngành, nhiều cấp nên chưa bảo đảm được yêu cầu về mặt thời gian. Đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra ở các Sở Tư pháp vẫn còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng.



12. Công tác chỉ đạo, điều hành; thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản; ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính; thi đua khen thưởng

a) Công tác chỉ đạo, điều hành

Năm 2015 và cả giai đoạn 2011 - 2015, công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, ngành Tư pháp đã bám sát với công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các nhiệm vụ công tác tư pháp đã được Chính phủ quan tâm chỉ đạo, quy định trong Nghị quyết số 01/NQ-CP hàng năm, tạo cơ sở quan trọng cho sự thống nhất chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp một cách toàn diện và tập trung vào các nhóm nhiệm vụ trọng tâm từng năm. Các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành, phê duyệt kế hoạch công tác tư pháp/pháp chế của cơ quan, địa phương; tiếp tục quan tâm kiện toàn tổ chức, bộ máy; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai công tác. Trong năm 2015, công tác chỉ đạo điều hành cũng tập trung vào các hoạt động thực hiện hướng tới những ngày lễ lớn của đất nước và đặc biệt là kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp.

Công tác chỉ đạo, điều hành của các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với công tác tư pháp được thực hiện quyết liệt hơn, khả năng phản ứng chính sách đã có nhiều chuyển biến, đặc biệt trong công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực liên quan đến người dân, doanh nghiệp.

Để tăng cường công tác phối hợp trong chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đoàn Đại biểu Quốc hội thông qua các buổi làm việc, các chuyến công tác, nhờ đó nhiều vướng mắc, khó khăn trong công tác tư pháp đã được giải quyết tốt hơn, đạt được sự đồng thuận cao hơn, đồng thời, đã thu hút nhiều hơn sự tham gia và giám sát của xã hội đối với quá trình xây dựng và thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, Ngành.

Tiếp tục thực hiện chủ trương “Hướng về cơ sở”, tập trung giải quyết các điểm nghẽn từ cơ sở, ngành Tư pháp đã tăng cường tổ chức các chuyến công tác tại địa phương để kịp thời nắm bắt những bất cập, vướng mắc chuyên môn ở cơ sở để chỉ đạo, hướng dẫn. Công tác hướng dẫn chuyên môn, trả lời kiến nghị địa phương, pháp chế Bộ, ngành được quan tâm đẩy mạnh. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận *** kiến nghị, nâng tổng số kiến nghị phải xem xét giải quyết lên *** kiến nghị; đã giải quyết *** kiến nghị; đang tiếp tục giải quyết *** kiến nghị.

Nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, toàn Ngành cũng đã tích cực triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ban hành và thực hiện Chuẩn mực đạo đức cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp. Toàn Ngành Tư pháp đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 25/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp không uống rượu, bia trong ngày làm việc, được dư luận xã hội đồng tình, đánh giá cao.



b) Công tác thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản

- Công tác báo chí, tạp chí, xuất bản đã bám sát nhiệm vụ công tác của Bộ, ngành, thường xuyên được đổi mới về nội dung, hình thức của các ấn phẩm để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, bảo đảm thông tin kịp thời, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, định hướng tốt hơn cho dư luận xã hội. Báo Pháp luật Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã chú trọng đẩy mạnh thông tin khoa học về sự kiện chính trị - pháp lý của Bộ, ngành, đặc biệt là các quan điểm khoa học - pháp lý về các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo trình Quốc hội; truyền thông về tổ chức thi hành các đạo luật và những vấn đề thực tiễn công tác tư pháp từ cơ sở; hoàn thành sách về Ngành Tư pháp - 70 năm xây dựng và phát triển, góp phần thông tin sâu rộng về vị thế, vai trò công tác tư pháp trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, năm 2015, Báo Pháp luật Việt Nam đã tổ chức thành công “Chương trình Vinh danh Gương sáng Tư pháp” - ghi nhận, biểu dương những cán bộ tư pháp nỗ lực vượt khó, phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp Tư pháp, góp phần đổi mới, phát huy sáng tạo, thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao, nhân kỷ niệm 30 năm Ngày ra số báo đầu tiên. Nhà xuất bản Tư pháp thực hiện tốt công tác biên tập (không để xảy ra sai sót về nội dung đối với các xuất bản phẩm), xuất bản, phát hành các loại sách, biểu mẫu, sổ hộ tịch, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và các cơ quan nhà nước.

- Chương trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Tư pháp quan tâm, tham gia, góp phần minh bạch, định hướng chính sách, tuyên truyền sâu rộng hơn về các quy định pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ chính trị được giao của Bộ, ngành Tư pháp.

- Công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí tiếp tục được Bộ, các cơ quan, đơn vị trong Ngành thực hiện tốt. Tại Bộ Tư pháp, việc ban hành thông cáo báo chí các VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành được duy trì hàng tháng; việc tổ chức họp báo định kỳ và đột xuất được thực hiện đúng quy định, kịp thời cung cấp thông tin, mang lại hiệu quả thiết thực, trong đó hướng trọng tâm, trọng điểm vào những vấn đề thiết thực được báo chí, nhân dân, dư luận xã hội quan tâm, tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện để thăm dò dư luận; điểm tin báo chí hàng ngày, nắm bắt phản hồi của các cơ quan thông tấn, báo chí, giúp Lãnh đạo Bộ điều phối, chỉ đạo sâu sát, kịp thời các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, Ngành.



c) Công tác ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính

Công tác ứng dụng công nghệ thông tin luôn được Bộ, ngành Tư pháp xác định là giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ. Năm 2015, Bộ Tư pháp tiếp tục duy trì, đảm bảo vận hành an toàn, thông suốt Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ; đáp ứng hơn 100.000 lượt truy cập Cổng thông tin điện tử hàng ngày và hàng nghìn lượt truy cập của cán bộ, công chức trên các phần mềm nghiệp vụ. Bộ, Ngành tiếp tục triển khai các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ người dân và doanh nghiệp, cụ thể như: Phần mềm Quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ; Hệ thống phần mềm Quản lý Lý lịch tư pháp; Hệ thống phần mềm quản lý quốc tịch; Phần mềm Quản lý cán bộ và các chức danh tư pháp; Phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật; Phần mềm Quản lý hồ sơ Ủy thác tư pháp...

Ngày 28/5/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2015/NĐ-CP về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo. Theo đó, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được xây dựng thống nhất, dùng chung trên toàn quốc nhằm cung cấp chính xác, kịp thời văn bản phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, phổ biến pháp luật, nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng và thi hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tính đến tháng 10/2015, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đã cập nhật được 75.000 văn bản do cơ quan Trung ương và địa phương ban hành, đáp ứng nhu cầu tra cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật của người dân, doanh nghiệp; phục vụ đắc lực cho các cơ quan nhà nước trong công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất, pháp điển văn bản quy phạm pháp luật, thi hành và bảo vệ pháp luật, hình thành môi trường nhập dữ liệu và khai thác dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật thống nhất từ trung ương tới địa phương trên môi trường mạng.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính đã hỗ trợ quản lý, công bố, công khai các thủ tục hành chính, cũng như trình tự giải quyết thủ tục hành chính của tất cả các Bộ, ngành, địa phương trên cả nước. Đến nay, các Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện cập nhật và công bố, công khai gần 170.000 thủ tục hành chính trên hệ thống góp phần quảng bá thông tin về thủ tục hành chính tới các tổ chức, người dân, doanh nghiệp một cách nhanh chóng, kịp thời. Bộ Tư pháp cũng đã thực hiện việc kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính với Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật để tận dụng dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính đã có.

- Thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/6/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP, giai đoạn 2011- 2015, Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục quán triệt việc xác định cải cách hành chính là một khâu đột phá, trong đó đã xác định CCHC là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, công chức trước Đảng, trước nhân dân. Với vai trò là thành viên Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã tích cực tham gia, đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp có hiệu quả để đẩy mạnh các hoạt động cải cách hành chính nói chung và cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính nói riêng. Quy trình giải quyết công việc của Ngành Tư pháp từng bước phát huy hiệu quả nhờ sự cải tiến, đổi mới phương pháp xây dựng quy trình theo Hệ thống tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008.

Với những kết quả đạt được, trong giai đoạn 2011 - 2015, Bộ Tư pháp luôn thuộc nhóm dẫn đầu trong Bảng xếp hạng mức độ Ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Hạ tầng kỹ thuật thông tin trong toàn Ngành được phát triển; các phần mềm ứng dụng chuyên ngành được đẩy mạnh xây dựng và triển khai, bước đầu đã đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hành chính của ngành và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. 100% cán bộ, công chức, viên chức, các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Sở Tư pháp (đơn vị, Giám đốc, Phó Giám đốc, Chánh Văn phòng) đều được cấp hộp thư điện tử phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 12.000 tài khoản). Các cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử để trao đổi công việc. Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp trong những năm gần đây liên tiếp đứng đầu trong danh sách các Bộ, ngành của nước ta về lượng truy cập trên toàn thế giới (theo xếp hạng của Alexa). Hệ thống Hội nghị truyền hình tiếp tục được duy trì, hỗ trợ đắc lực và đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai, sơ kết, tổng kết, tập huấn các lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành, đặc biệt là phục vụ các Hội nghị lớn của ngành.



Каталог: cacchuyenmuc -> ttdh -> Lists -> TaiLieuPhucVuHop -> Attachments
Attachments -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> BỘ TƯ pháp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Lists -> BỘ TƯ pháp số: /QĐ-btp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Lists -> VĂn phòng số: 235/vp-th v/v quán triệt nội dung Nghị quyết Đại hội XII, đề xuất Danh mục các đề án, văn bản trình cấp trên và các nội dung đề xuất đưa vào Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt
Attachments -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> Độc lập Tự do Hạnh phúc Phụ lục IV: TÌnh hình xây dựng đỀ ÁN, VĂn bản thuộc thẩm quyền ban hành của bộ TƯ pháp hoặc liên tịch ban hành trong năM 2014
Attachments -> 1. Tình hình kinh tế xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2015 tiếp tục chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực. Tăng trưởng gdp quý sau cao hơn quý trước, quý III đạt 6,81%, 9 tháng đạt 6,5%
Attachments -> CHƯƠng trình hội nghị TƯ pháp các tỉnh có chung đƯỜng biên giới việt nam – campuchia lần thứ nhấT

tải về 0.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương