BỘ TƯ pháp s dự thảO ố: /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam


b) Công tác thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (QPPL)



tải về 0.99 Mb.
trang3/8
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích0.99 Mb.
#37777
1   2   3   4   5   6   7   8

b) Công tác thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (QPPL)


- Công tác thẩm định VBQPPL tiếp tục được chú trọng nâng cao chất lượng và gắn kết chặt chẽ hơn với công tác kiểm tra VBQPPL, kiểm soát thủ tục hành chính, góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Năm 2015, ước tính toàn ngành đã thẩm định 9.552 văn bản (tăng 253 văn bản so với năm 2014; giảm 632 văn bản so với năm 201222); trong đó, các Bộ, ngành đã thẩm định 1.358 văn bản, tăng 206 văn bản so với năm 2014 (Bộ Tư pháp thẩm định 339 văn bản, Tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ thẩm định 1.019 văn bản); các địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện) đã thẩm định 8.194 văn bản (tăng 47 văn bản so với năm 2014). Nhìn chung, các ý kiến thẩm định dự thảo VBQPPL đã được các cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu, giải trình trước khi hoàn chỉnh và là cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, ban hành. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, toàn ngành Tư pháp đã tổ chức thẩm định 45.096 dự thảo VBQPPL. Nội dung thẩm định đã được các Bộ, ngành, địa phương chú trọng tới tính dự báo của các chính sách, đảm bảo tính khả thi trong việc ban hành văn bản, để các quy định của pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, thiết lập được môi trường pháp lý bình đẳng, trong sạch tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp.

- Được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong cả nhiệm kỳ, công tác kiểm tra VBQPPL, xử lý những văn bản qua kiểm tra phát hiện có dấu hiện vi phạm thời gian qua tiếp tục được tăng cường, đôn đốc. Năm 2015, ước tính các Bộ, cơ quan, địa phương đã tiếp nhận kiểm tra theo thẩm quyền 42.074 VBQPPL (giảm 7.058 văn bản so với năm 2014 và 4.295 văn bản so với năm 201123); qua kết quả kiểm tra 10 tháng đầu năm, phát hiện 1.013 văn bản có dấu hiệu trái nội dung, thẩm quyền (giảm 541 văn bản so với 10 tháng đầu năm 2014)24, đã xử lý xong 487 văn bản.

Tại Bộ Tư pháp, năm 2015 đã kiểm tra 2.248 văn bản25, tăng 474 văn bản so với năm 2011 (1774 văn bản), nhưng giảm 1.639 văn bản so với năm 2014 (3887 văn bản); qua kiểm tra, bước đầu phát hiện 5126 văn bản sai về nội dung, thẩm quyền (chiếm 2,3% tổng số văn bản được kiểm tra). Qua đó, Bộ đã chỉ đạo tiến hành xem xét, xử lý và đến nay đã có 14 văn bản đã được xử lý, các văn bản khác đang trong thời gian xử lý. Công tác tự kiểm tra, kiểm tra theo thẩm quyền tại một số Bộ, ngành (như Bộ Công thương, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...) ngày càng được triển khai bài bản; chú trọng đến việc kiểm tra văn bản do Bộ, ngành khác ban hành có liên quan lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành mình (Bộ Tài chính).

Trong năm 2015 cũng như cả nhiệm kỳ 2011-2015, công tác kiểm tra theo chuyên đề (nhất là trong các lĩnh vực được xã hội quan tâm như đất đai, đầu tư, xây dựng, xử lý vi phạm hành chính...), kiểm tra VBQPPL qua các nguồn thông tin liên tục được tăng cường, qua đó phát hiện nội dung trái pháp luật của một số văn bản và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tự kiểm tra, xử lý kịp thời, được dư luận, báo chí đồng tình ủng hộ27.

- Nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý triển khai nhiệm vụ rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, Chính phủ đã ban hành Nghị định, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư quy định về rà soát, hệ thống hóa VBQPPL28. Thực hiện các văn bản trên, công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL đã được các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quan tâm triển khai; công tác rà soát VBQPPL đã được tiến hành thường xuyên, và dần đi vào nề nếp; đã phát hiện và kịp thời xử lý nhiều văn bản, quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không còn phù hợp. Việc rà soát, hệ thống hóa VBQPPL kỳ đầu thống nhất trên cả nước đã được các Bộ, cơ quan, địa phương quan tâm triển khai thực hiện29. Năm 2015, ước tính toàn Ngành rà soát được 76.587 VBQPPL. Công tác xử lý các văn bản đã hết hiệu lực, trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội được phát hiện thông qua rà soát cũng đã được chú trọng thực hiện, với 12.270 văn bản trong năm 2015.

Việc công bố Danh mục VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ, cơ quan được thực hiện đúng quy định, góp phần giúp cho hệ thống pháp luật được minh bạch, dễ tiếp cận, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước trong áp dụng.

- Bắt đầu được triển khai thực hiện từ năm 2012, đến nay, công tác hợp nhất VBQPPL, pháp điển hệ thống QPPL đang dần thể hiện được vai trò quan trọng trong việc giúp cho hệ thống pháp luật dễ tiếp cận, thuận lợi trong áp dụng. Đặc biệt, việc hợp nhất VBQPPL được ban hành sau ngày Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL năm 2012 có hiệu lực được các cơ quan nghiêm túc triển khai theo quy định. Đối với công tác pháp điển, về cơ bản các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã đầy đủ; các Bộ, cơ quan đã quan tâm bố trí nhân sự kiêm nhiệm để triển khai công tác này, nhờ đó việc tổ chức triển khai công tác này cơ bản thuận lợi. Tính đến 31/12/2015, Bộ Tư pháp đã tiến hành thẩm định đối với 14 đề mục của Bộ Pháp điển30. Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các cuộc sinh hoạt chuyên môn và hướng dẫn các Bộ, ngành triển khai pháp điển, hợp nhất văn bản QPPL, giúp cho các Bộ, ngành thực hiện thống nhất, đồng bộ các công tác này.

2.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Năm 2015, cũng như nhiệm kỳ 2011-2015, chưa khắc phục hiệu quả tình trạng xin lùi, xin rút các dự án luật khỏi Chương trình của Quốc hội. Một số dự án phải xin rút khỏi Chương trình, xin lùi thời hạn trình như Luật biểu tình, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chuyển giao công nghệ, Luật dân số.

- Trong nhiệm kỳ 2011-2015, mặc dù có thời điểm tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết được khắc phục khá tốt, nhưng nhìn chung, tình trạng nợ đọng còn phổ biến. Đến cuối năm 2015 còn nợ 33 văn bản, tăng 15 văn bản so với năm 2014. Trong số văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh, rất ít văn bản bảo đảm có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của luật, pháp lệnh. Tình trạng này đã có tác động không nhỏ, gây ảnh hưởng đến công tác tổ chức triển khai thi hành luật, pháp lệnh, đến quyền, lợi ích của các cơ quan, tổ chức cá nhân, nhất là tình trạng nợ đọng các văn bản quy định chi tiết Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp. Việc ban hành các thông tư, thông tư liên tịch còn chậm tiến độ, ít có chuyển biến trong cả nhiệm kỳ.

- Chất lượng thẩm định VBQPPL tuy đã được cải thiện một bước, nhưng vẫn còn để lọt nội dung thiếu tính khả thi, chưa hợp lý.

- Việc kiểm tra VBQPPL ở một số Bộ, cơ quan, địa phương vẫn còn chậm và chưa thường xuyên, nhiều văn bản đã ban hành nhưng chưa được kiểm tra, phát hiện kịp thời sai sót. Việc xử lý các VBQPPL có dấu hiệu trái pháp luật còn chậm hoặc chưa đạt yêu cầu, có trường hợp gây bức xúc trong dư luận xã hội.

b) Nguyên nhân

- Trong nhiệm kỳ 2011-2015, nhất là từ khi triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, số lượng các luật, pháp lệnh do các Bộ, cơ quan phải chủ trì xây dựng là rất lớn, song song với đó, số lượng văn bản quy định chi tiết phải xây dựng, ban hành nhiều. Chẳng hạn, riêng năm 2015, cần ban hành tới 178 văn bản (tăng 93 văn bản so với cùng kỳ năm 2014). Nội dung của nhiều dự án, dự thảo văn bản quy định những vấn đề mới, phức tạp(31), trong khi đó thời gian để xây dựng, ban hành văn bản là tương đối ngắn và việc tuân thủ quy trình xây dựng, thẩm định VBQPPL còn chưa nghiêm, nhất là ở các địa phương.

- Lãnh đạo một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo sát sao công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, xử lý VBQPPL. Công tác phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình xây dựng, thẩm định, kiểm tra, xử lý VBQPPL chưa thực sự chặt chẽ, kịp thời.

- Đội ngũ công chức làm công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát VBQPPL vẫn còn ít, tính chuyên nghiệp còn chưa cao. Việc thành lập, củng cố và kiện toàn các tổ chức pháp chế ở một số Bộ, cơ quan nhất là tại các địa phương còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.



3. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC)

3.1. Kết quả đạt được

Được chuyển giao toàn bộ chức năng, nhiệm vụ và nhân lực cho ngành Tư pháp từ cuối năm 2012, công tác kiểm soát TTHC ngày càng có sự gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản và theo dõi thi hành pháp luật và nhận được sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội. Đầu năm 2015, Thủ tướng Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 08/QĐ-TTg về Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015, tiếp đó ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg về tăng cường trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong thực hiện công tác cải cách TTHC.

Năm 2015, các Bộ, cơ quan đã hoàn thành việc đơn giản hóa thêm 98 TTHC, nâng tổng số TTHC đã hoàn thành thực thi trong nhiệm kỳ 2011-2015 lên 4.481 (tăng 702 TTHC so với năm 2012)/4.723 TTHC đã được Chính phủ phê duyệt tại 25 Nghị quyết chuyên đề (đạt tỷ lệ 94,9%, tăng 14,7% so với năm 2012); ước tính đã đánh giá tác động đối với 2.087 TTHC, (tăng 655 TTHC so với năm 2012 và tăng 61 TTHC so với năm 2014); thẩm định 1.616 TTHC (giảm 1.032 TTHC so với năm 2014); tham gia ý kiến đối với 1.850 TTHC; ban hành 2.139 quyết định công bố TTHC để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC (tăng gấp đôi so với năm 2014), qua đó cho thấy việc công khai, minh bạch TTHC ngày càng được các Bộ, ngành, địa phương quan tâm và thực hiện tốt hơn. Toàn Ngành cũng đã tiếp nhận và xử lý 2.098/2.436 phản ánh kiến nghị về hành vi hành chính, quy định hành chính (đạt 86%). Một số Bộ, ngành, địa phương đã triển khai nghiêm túc, hiệu quả công tác kiểm soát TTHC32.

Riêng Bộ Tư pháp, đã tham gia ý kiến đối với 796 thủ tục hành chính tại 125 dự thảo văn bản QPPL, trong đó, đề nghị không quy định 121 thủ tục, sửa đổi, bổ sung 464 thủ tục (chiếm 73,5% số TTHC quy định trong dự thảo); tiến hành thẩm định 528 thủ tục hành chính tại 72 dự thảo văn bản QPPL, trong đó, kiến nghị không quy định 114 thủ tục, sửa đổi 392 thủ tục hành chính không cần thiết, không hợp lý (chiếm 95,8% số TTHC quy định tại văn bản). Bộ đã tổ chức 03 Hội nghị giao ban, tập huấn nghiệp vụ kiểm soát TTHC cho 24 Bộ, ngành, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thực hiện kiểm tra tại 03 Bộ, cơ quan và 13 tỉnh để nắm bắt những khó khăn, kịp thời hướng dẫn, đề xuất giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm soát TTHC33.

Triển khai Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 08/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhiều Bộ, cơ quan, địa phương đã tích cực chỉ đạo đơn vị chức năng tổ chức thực hiện nhiệm vụ liên quan. Theo đó, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành Kế hoạch và các văn bản chỉ đạo tổ chức rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm theo chỉ đạo của Thủ tướng; Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 4079/QĐ-BTP để triển khai các nhiệm vụ chuẩn hóa danh mục thủ tục hành chính và rà soát thủ tục hành chính34. Có 7/9 Bộ được giao rà soát, đơn giản hóa 13 nhóm thủ tục hành chính trọng tâm đã hoàn thành hệ thống hóa thủ tục hành chính, quy định liên quan; 2/9 Bộ đã hoàn thành nghiên cứu, đề xuất phương án đơn giản hóa trình Thủ tướng Chính phủ35; 19/24 Bộ, cơ quan đã ban hành quyết định công bố bộ thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý36; 13 địa phương xác định không có thủ tục hành chính đặc thù37; 33/63 địa phương đã hoàn thành công bố bộ thủ tục hành chính đặc thù; còn 17 địa phương đang thực hiện công bố38.

Việc liên thông các TTHC được chú trọng nghiên cứu, triển khai. Bộ Tư pháp đã cùng với Bộ Công an, Bộ Y tế ban hành Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT ngày 15/5/2015 hướng dẫn liên thông thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Bộ cũng đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án liên thông thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế”; đã xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch, gửi xin ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, hiện đang tổng hợp ý kiến góp ý, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo. Thực hiện chủ trương đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp đã phê duyệt theo thẩm quyền Đề án Thiết lập hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC tại các cấp chính quyền; hoàn thiện Hệ thống quản lý, đánh giá công tác kiểm soát TTHC và Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC nhằm phục vụ tốt hơn công tác kiểm soát TTHC, đồng thời sẵn sàng mở rộng kết nối với các hệ thống chính phủ điện tử trong thời gian tới.



3.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Việc đánh giá tác động cũng như tuân thủ quy định về việc gửi báo cáo đánh giá tác động trong hồ sơ đề nghị thẩm định của một số cơ quan chủ trì soạn thảo chưa thực sự nghiêm túc, chưa đúng quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP, Nghị định số 48/013/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 07/2014/TT-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; vẫn tồn tại các thủ tục hành chính không cần thiết, không hợp lý, không hợp pháp gây cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh và quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.

- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa bám sát với chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, dẫn đến nhiều nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch đơn giản hóa TTHC trọng tâm năm 2015 chậm tiến độ, chưa bảo đảm chất lượng.

- Việc công bố, công khai TTHC chưa được một số Bộ, ngành, địa phương thực hiện kịp thời, đầy đủ gây khó khăn, vướng mắc cho không chỉ cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện TTHC mà còn “làm khó” cho chính các cơ quan hành chính cấp cơ sở (nhất là các đơn vị cấp huyện, xã) trong việc giải quyết và niêm yết TTHC.



b) Nguyên nhân

- Nhận thức của Lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị về công tác cải cách TTHC, kiểm soát TTHC còn hạn chế, chưa quan tâm, chỉ đạo sâu sát các nhiệm vụ có liên quan. Trách nhiệm phối hợp của một số cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ cải cách TTHC chưa chặt chẽ.

- Trong quá trình triển khai thực hiện, một số tổ chức Pháp chế, Sở Tư pháp còn chưa chủ động trong tham mưu triển khai và tổ chức thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính.

- Đội ngũ những người làm công tác kiểm soát TTHC còn mỏng, chưa được kiện toàn đầy đủ. Một số cán bộ công chức còn có biểu hiện nhũng nhiễu; hiện tượng yêu cầu thêm các giấy tờ ngoài thành phần hồ sơ theo quy định còn tồn tại trong quá trình giải quyết TTHC.

- Một số Bộ, ngành chưa quyết liệt, mạnh dạn trong việc tổ chức triển khai, ứng dụng các sáng kiến cải cách TTHC trong thực tiễn.

4. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật

4.1. Kết quả đạt được

a) Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC)

Là nhiệm vụ mới được giao từ năm 2013, Bộ, ngành Tư pháp đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý XLVPHC. Trong năm 2015, việc tiếp tục triển khai thi hành Luật XLVPHC, Nghị quyết số 24/2012/QH13 về việc thi hành Luật và các nội dung liên quan đến công tác này được xác định trong Nghị quyết số 77/2014/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 của Quốc hội đạt được một số kết quả tích cực:

- Thực hiện Nghị quyết số 77/2014/QH13, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương, nhất là tại thành phố Hồ Chí Minh, đã tiến hành tạm thời giao trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội để quản lý, cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý cho người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, qua đó khắc phục, tháo gỡ một phần vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bên cạnh đó, để thống nhất giải quyết triệt để hơn vướng mắc về vấn đề này, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy, góp phần tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc lớn nhất trong quá trình triển khai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (vấn đề xác định tình trạng nghiện). Bộ Tư pháp cũng đã và đang phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính; tập trung theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện thống nhất các quy định của pháp luật liên quan đến các biện pháp xử lý hành chính.

- Việc kiện toàn tổ chức, biên chế làm công tác XLVPHC bước đầu được các Bộ, cơ quan, địa phương quan tâm thực hiện. Đa số các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã giao cho Vụ Pháp chế là đơn vị đầu mối triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác THPL về XLVPHC, bố trí từ 01 đến 03 cán bộ thực hiện công tác này, một số Bộ ngành: Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai tốt việc tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về XLVPHC. Tại địa phương, tính đến nay đã có có 44/63 tỉnh, thành phố thành lập được Phòng chuyên môn trực thuộc Sở Tư pháp (Phòng QLXLVPHC&TDTHPL) để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định, theo quy định tại Thông tư số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/201439 (tăng thêm 41 địa phương so với cùng kỳ năm 2014).

- Trong năm 2015, công tác tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra về XLVPHC tiếp tục được chú trọng thực hiện. Bộ Tư pháp đã tổ chức 14 hội nghị tập huấn, 03 hội thảo về công tác thi hành pháp luật về XLVPHC; ban hành Kế hoạch và tổ chức triển khai kiểm tra công tác THPL về XLVPHC tại 04 Bộ, và 3 địa phương40. Một số Bộ, ngành: Bộ Y tế, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải đã chủ động tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ áp dụng pháp luật về XLVPHC cho các cán bộ quản lý và cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ XLVPHC; đặc biệt, Bộ Y tế là đơn vị tiên phong khi xây dựng được 03 quy trình thao tác chuẩn (quy trình SOP) về XLVPHC trong lĩnh vực dược, mỹ phẩm để góp phần nâng cao chất lượng công tác XLVPHC của các lực lượng chức năng; công tác kiểm tra thi hành pháp luật về XLVPHC cũng đã được các Bộ, ngành quan tâm, chỉ đạo thực hiện41. Ở địa phương cũng đã chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức các hội nghị triển khai, các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về XLVPHC trên địa bàn các tỉnh, thành phố với sự tham gia của các Báo cáo viên của Bộ Tư pháp; một số địa phương đã ban hành kế hoạch42 hoặc thành lập các Đoàn kiểm tra đột xuất để kiểm tra tình hình THPL về XLVPHC trong các lĩnh vực “nóng” như: đất đai, môi trường, xây dựng, giao thông đường bộ43. Qua công tác kiểm tra, kiểm tra liên ngành việc THPL về XLVPHC, các đoàn kiểm tra đã kiến nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương phương khắc phục những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế trong công tác XLVPHC, qua đó, giúp cho công tác XLVPHC tại cơ quan, đơn vị hoặc trên địa bàn được thực hiện nghiêm minh, chặt chẽ, kịp thời và triệt để hơn.

- Công tác theo dõi, thống kê về XLVPHC từng bước đi vào nề nếp. Theo báo cáo của 15/21 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 62/63 tỉnh, thành phố, trong năm 2015 có 9.445.474 vụ vi phạm hành chính bị phát hiện, đã ra 4.142.875 quyết định xử phạt với với tổng số tiền hơn 7.338 tỷ đồng. Về việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, năm 2015 có 27.465 đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; trong đó có 14.428 đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 13.036 đối tượng đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do TAND quyết định. Qua kiểm tra, theo dõi cho thấy việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cơ bản được thực hiện theo quy định của pháp luật, chưa để xảy ra sai sót, bức xúc lớn.



b) Công tác theo dõi thi hành pháp luật (TDTHPL)

Công tác TDTHPL ngày càng được các Bộ, ngành, địa phương chú trọng, góp phần nâng cao hiệu quả trong tổ chức thi hành pháp luật, cũng như thúc đẩy việc chuyển hướng trọng tâm chiến lược từ xây dựng pháp luật sang tổ chức thi hành pháp luật trong thời gian tới.

Năm 2015, Bộ Tư pháp đã cũng với các Bộ, ngành, địa phương tích cực sơ kết 03 năm thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2015; tổ chức 04 Đoàn Kiểm tra liên ngành, tiến hành kiểm tra về tình hình thi hành pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả tại địa phương44 và một số Đoàn Kiểm tra công tác TDTHPL tại Bộ, ngành, địa phương45. Qua theo dõi cho thấy, hầu hết các Bộ, cơ quan, địa phương đều ban hành Kế hoạch và tổ chức các hoạt động TDTHPL trong phạm vi quản lý nhà nước được giao, trong đó có các lĩnh vực trọng tâm đã được xác định theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Ngoài ra, một số địa phương đã tổ chức TDTHPL trong những lĩnh vực nóng, có nhiều bức xúc ở địa phương như đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng46 qua đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ được tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương; công tác củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy làm công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật được quan tâm chỉ đạo47, góp phần đưa công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật dần đi vào nề nếp và có hiệu quả. Hoạt động quản lý nhà nước về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật được quan tâm và đẩy mạnh đã có tác động tích cực; công tác chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan đơn vị thực hiện việc theo dõi tình hình thi hành pháp luật ở các ngành, các cấp đã bước đầu được triển khai thực hiện và đạt hiệu quả; hoạt động tổ chức bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật được Bộ Tư pháp chú trọng thông qua các Hội nghị tập huấn chuyên sâu về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng hoạt động theo dõi thi hành pháp luật.



4.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung một số VBQPPL phục vụ cho việc triển khai Luật XLVPHC, nhất là các văn bản liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, trong đó có quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn chậm; tình trạng chồng chéo, chưa phù hợp trong một số nghị định về xử phạt vi phạm hành chính chưa được giải quyết kịp thời.

- Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế, triển khai công tác quản lý về XLVPHC ở địa phương còn chậm, lúng túng. Công tác thống kê, theo dõi tình hình XLVPHC chủ yếu thực hiện theo phương thức thủ công.

- Hiệu quả triển khai công tác TDTHPL ở một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa cao, kết quả công tác theo dõi thi hành pháp luật trong thời gian qua chưa thực sự nổi bật, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật tại địa phương; chưa có nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật.



b) Nguyên nhân

- Quản lý nhà nước về XLVPHC là nhiệm vụ mới, phức tạp, phạm vi rộng trong khi cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm cho việc triển khai công tác này còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về biên chế.

- Công tác phối hợp giữa các Bộ, cơ quan và địa phương trong công tác quản lý nhà nước về XLVPHC, nhất là trong xử lý những vướng mắc phát sinh còn chưa thực sự nhịp nhàng, còn nhiều bất cập.

- Thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật chậm được hoàn thiện; phối hợp trong TDTHPL chưa chặt chẽ. Số lượng, khối lượng nhiệm vụ trên các mặt công tác theo dõi thi hành pháp luật lớn, rộng trên nhiều lĩnh vực, trong khi đó nguồn lực về bộ máy, cán bộ, kinh phí để triển khai còn hạn chế. Tính chủ động trong việc triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật của nhiều Bộ, ngành, địa phương còn chưa cao; vẫn còn một số lãnh đạo Bộ, cơ quan, địa phương chưa coi trọng vai trò công tác theo dõi thi hành pháp luật trong chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội dẫn đến việc bố trí chưa đủ nguồn lực để triển khai thực hiện.



5. Công tác thi hành án dân sự (THADS)

5.1. Kết quả đạt được

Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Quyết định số 55/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật, công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt những quy định mới của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được đẩy mạnh thực hiện thông qua nhiều hình thức, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và Nhân dân, sự ủng hộ của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với hoạt động thi hành án dân sự48. Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật được chú trọng, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, ban hành Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu, nộp ngân sách nhà nước; ban hành Kế hoạch49 triển khai thi hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ; công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác thi hành án dân sự đã được khẩn trương thực hiện50, tạo cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Cùng với đó, Bộ Tư pháp đã kịp thời hướng dẫn các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện thống nhất việc chuyển tiếp Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; Rà soát, công bố thủ tục hành chính theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự51. Kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2015 tiếp tục đạt tỷ lệ cao và bền vững:



+ Về việc, tổng số thụ lý là 791.412 việc, tăng 12.114 việc (1,55%) so với năm 2014 và tăng... việc so với năm 2011. Kết quả xác minh, phân loại có: 599.436 việc có điều kiện giải quyết, chiếm tỷ lệ 75,74% (giảm 861 việc và giảm 1,29% về tỷ lệ so với năm 2014). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 533.985 việc, đạt tỷ lệ 89,08%, vượt 1,08% so với chỉ tiêu được Quốc hội giao (tăng 2.890 việc và tăng 0,61% về tỷ lệ so với năm 2014). Số việc chuyển kỳ sau là... việc, tăng/giảm ... việc so với giai đoạn 2007-2010.

+ Về tiền, tổng số tiền thụ lý là 125.956 tỷ 77 triệu 210 nghìn đồng, tăng cao so với năm 2014 (tăng 30.847 tỷ 421 triệu 820 nghìn đồng, tương đương tăng 32,43%) và tăng ... so với năm 2011. Kết quả xác minh, phân loại có: 56.342 tỷ 815 triệu 341 nghìn đồng có điều kiện giải quyết, chiếm tỷ lệ 44,73% (tăng 5.534 tỷ 836 triệu 938 nghìn đồng nhưng giảm 8,69% về tỷ lệ so với năm 2014). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 42.819 tỷ 191 triệu 766 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 76%, còn thiếu 1% so với chỉ tiêu được Quốc hội giao (tăng 3.837 tỷ 686 triệu 324 nghìn đồng nhưng giảm 0,72% về tỷ lệ so với năm 2014). Số tiền chuyển kỳ sau là... nghìn đồng, tăng/giảm ... nghìn đồng so với giai đoạn 2007-2010. Một số địa phương có kết quả quả thi hành án đạt tỷ lệ khá cao, góp phần quan trọng vào kết quả chung của toàn quốc52; có 21 địa phương53 hoàn thành cả 03 chỉ tiêu của Bộ Tư pháp giao (chỉ tiêu thi hành án xong về việc, chỉ tiêu thi hành án xong về tiền và chỉ tiêu giảm án chuyển kỳ sau).



Có thể khẳng định, giai đoạn 2011 - 2015 là giai đoạn đi vào ổn định và phát triển nhanh, bền vững của công tác THADS. Công tác xây dựng thể chế pháp luật về THADS ngày càng được quan tâm thực hiện và đến nay đã cơ bản được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ hơn cho công tác này. Được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cấp ủy, chính quyền các địa phương; sự quan tâm, giám sát chặt chẽ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đặc biệt là tinh thần nỗ lực, phấn đấu vươn lên, khắc phục mọi khó khăn của toàn thể đội ngũ công chức, viên chức, người lao động, các cơ quan cơ quan THADS, công tác THADS đang tiếp tục có những chuyển biến tích cực: Nhìn vào Biểu đồ số 4 cho thấy, kết quả THADS về cơ bản đã bền vững, năm sau luôn đạt cao hơn năm trước; việc giải quyết các vụ án lớn, phức tạp, các vụ án liên quan đến tín dụng, ngân hàng được chú trọng; tổ chức bộ máy toàn hệ thống được củng cố, kiện toàn...



Biểu đồ số 4: Kết quả thi hành án dân sự giai đoạn 2011 - 2015

- Công tác đôn đốc thi hành án hành chính đã có nhiều chuyển biến trong nhiệm kỳ 2011-2015, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 25/5/2012, hầu hết các vụ việc thi hành án hành chính đều được các cơ quan THADS kịp thời có văn bản đôn đốc (năm 2013 đạt tỷ lệ 99,43%, năm 2014: 99,33%, năm 2015: 100%). Triển khai Luật tố tụng hành chính, Nghị quyết số 56/2010/QH12 của Quốc hội và Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ bổ sung nguồn nhân lực cho các cơ quan THADS địa phương (bổ sung 01 biên chế chuyên trách công tác này).



- Các cơ quan tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan THADS được quan tâm củng cố, kiện toàn và ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; kỷ cương, kỷ luật hành chính được siết chặt và ngày càng đi vào nề nếp

Tính đến ngày 30/9/2015, toàn Hệ thống Thi hành án dân sự được giao 9.957, tăng ... biến chế so với giai đoạn 2007-2010 hoặc so với năm 2011; đã thực hiện được 9.681 biên chế, so với năm đầu nhiệm kỳ 2011, số biên chế đã thực hiện được của các cơ quan THADS tăng 834 biên chế; số lượng Chấp hành viên, Thẩm tra viên đều tăng (tăng 1.106 Chấp hành viên, 131 Thẩm tra viên); tổ chức bộ máy, cán bộ tiếp tục được củng cố, kiện toàn (về tổ chức bộ máy, tăng thêm 15 Chi cục THADS); công tác biệt phái, điều động, luân chuyển công chức được quan tâm thực hiện nghiêm túc, đúng quy định.



- Công tác phối hợp liên ngành được đặc biệt quan tâm trong giai đoạn 2011- 2015. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành các Quy chế phối hợp trong công tác thi hành án dân sự với Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao...; trên cơ sở đó, nhiều địa phương đã ban hành Quy chế phối hợp liên ngành để triển khai thực hiện tại địa phương.

- Sau thời gian năm thí điểm, chế định Thừa phát lại đã chứng tỏ được tính đúng đắn và được xã hội đón nhận, tạo cơ sở vững chắc cho việc thực hiện chính thức chế định này theo Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội

Trong công tác THADS, đây là lĩnh vực thực hiện thành công tất cả các nhiệm vụ đã đặt ra từ giai đoạn 2007-2010. Thực hiện Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp một số bộ, ngành liên quan, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước hiện có 53 Văn phòng Thừa phát lại với 134 Thừa phát lại, tổng doanh thu là gần 136 tỷ đồng.

Sau quá trình tiếp tục thực hiện thí điểm, ngày 25/8/2015, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Ban Chỉ đạo thực hiện thí điểm Thừa phát lại Trung ương tổ chức tổng kết công tác thí điểm, báo cáo Chính phủ, báo cáo Quốc hội và đã được Quốc hội thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định thừa phát lại, trong đó Quốc hội đã ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội; chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước từ ngày 01/01/2016.

5.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Về kết quả thi hành án, mặc dù kết quả THADS năm 2015 vượt chỉ tiêu Quốc hội giao về việc (vượt 1,08%) nhưng vẫn chưa hoàn thành chỉ tiêu Quốc hội giao về tiền (còn thiếu 1%); số việc, tiền phải thi hành chuyển kỳ sau còn nhiều, nhất là về tiền (chiếm 32,53% về việc và 66 % về tiền so với tổng số thụ lý); một số đơn vị có biểu hiện chạy theo thành tích trong thời điểm cuối năm, số việc hoãn, trả đơn, ủy thác thi hành án chiếm số lượng lớn với gần 51.000 việc và trên 20.751 tỷ đồng (chiếm 6,4% về việc và 16,5% về tiền so với tổng số thụ lý).

- Công tác tổ chức cán bộ chưa thực sự “đi trước một bước”, chất lượng tham mưu ở cả cấp Tổng cục và cấp Cục còn hạn chế; kỷ cương, kỷ luật tại một số đơn vị còn chưa nghiêm; số lượng công chức vi phạm bị xử lý kỷ luật còn nhiều như Gia Lai, An Giang...; vẫn còn có nơi để xảy ra việc nhũng nhiễu, gây phiền hà cho các bên đương sự, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh cán bộ, công chức cũng như hình ảnh của các cơ quan THADS54.

- Công tác tuyên truyền về Thừa phát lại ở cả Trung ương và địa phương còn chưa sâu rộng nên hiểu biết của người dân và xã hội về Thừa phát lại còn hạn chế; sự phối hợp của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, ngay cả của các cơ quan THADS đối với Văn phòng Thừa phát lại còn chưa chặt chẽ, có lúc có việc chưa hiệu quả.

- Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, hiện vẫn còn 534 đơn vị chưa có Kho vật chứng; có nơi vẫn còn phải đi thuê hoặc chưa có trụ sở, nhất là những Chi cục ở vùng sâu, vùng xa, Chi cục mới được thành lập; công tác quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản; thực hiện chế độ kế toán nghiệp vụ tại một số nơi còn nhiều tồn tại, hạn chế, thực hiện chưa nghiêm.

b) Nguyên nhân

- Đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; còn một bộ phận công chức chưa thật sự chủ động, tích cực trong công việc, cá biệt có trường hợp còn có hành vi tiêu cực, tham nhũng, gây phiền hà cho các bên đương sự, thậm chí là vi phạm pháp luật.

- Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra chưa thực sự đạt hiệu quả như mong muốn, vẫn còn có những cuộc kiểm tra kết luận mang tính chung chung, không chỉ rõ trách nhiệm phải xử lý kỷ luật đối với sai phạm; cơ chế hậu kiểm, phúc tra việc thực hiện Kết luận kiểm tra của các đơn vị được kiểm tra vẫn còn là một khâu yếu, chưa được quan tâm thực hiện.

- Công tác phối hợp với các đơn vị có liên quan (Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an...), phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác THADS có lúc có nơi còn thiếu chủ động, hiệu quả chưa cao mặc dù đã có đầy đủ các văn bản hướng dẫn, quy chế phối hợp liên ngành.

- Số việc và tiền thụ lý ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước (năm 2015 tăng 1,55% về việc và 32,43% về tiền so với năm 2014 và cao nhất từ trước đến nay với gần 800.000 việc, số tiền xấp xỉ 126.000 tỷ đồng).

- Nền kinh tế còn khó khăn, thị trường bất động sản chưa thực sự khởi sắc trở lại nên nhiều tài sản, nhất là bất động sản đã kê biên, thẩm định giá nhưng rất khó bán, nhiều vụ việc phải định giá lại nhiều lần vẫn không có người mua. Tính đến hết ngày 30/9/2015 cả nước có tổng số 14.611 việc đã kê biên, thẩm định giá nhưng bán đấu giá không thành, tương ứng với số tiền là 17.558 tỷ 587 triệu 376 nghìn đồng (chiếm 2,44% về việc và 31,16% về tiền trong tổng số việc và tiền có điều kiện giải quyết), trong đó số việc bán đấu giá từ 03 lần trở lên vẫn không có người mua là 10.128 việc.

- Vẫn còn lượng án tương đối lớn về giá trị thuộc diện chưa có điều kiện thi hành, tồn đọng trong nhiều năm không thi hành được, phải tiến hành đôn đốc, xác minh theo định kỳ, mất nhiều thời gian, công sức. Đặc biệt, những năm gần đây có nhiều vụ án hình sự liên quan đến tham nhũng, thu hồi tài sản cho Nhà nước, giá trị phải thi hành lớn nhưng khả năng thi hành thấp do tài sản của đương sự có giá trị rất nhỏ, không đủ bảo đảm thi hành án như vụ Vinashin, vụ Vinalines, vụ Huỳnh Thị Huyền Như.

6. Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải ở cơ sở

6.1. Kết quả đạt được

- Năm 2015, việc triển khai Luật PBGDPL, các Chương trình, Đề án về PBGDPL và các văn bản hướng dẫn thi hành tiếp tục được quan tâm, chú trọng, bám sát nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của đất nước và từng địa phương; từng bước gắn kết chặt chẽ hơn với công tác xây dựng, thực thi pháp luật, trong đó đã chú trọng phổ biến mục tiêu, quan điểm, chính sách mới trong quá trình xây dựng luật gắn với những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận để tạo đồng thuận trong xã hội. Ngày Pháp luật năm 2015 được các Bộ, ngành, địa phương tổ chức đồng bộ, rộng khắp. Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã phối hợp với UBND thành phố Hà Nội tổ chức thành công Lễ hưởng ứng Ngày Pháp luật năm 2015 gắn với tổng kết, trao gải cuộc thi “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” với sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ.



Biểu đồ số 5 cho thấy, số cuộc tuyên truyền pháp luật trên cả nước tăng mạnh những năm gần đây. Theo ước tính, năm 2015 các Bộ, ngành, địa phương tổ chức 1.560.096 cuộc tuyên truyền pháp luật, tăng 50,28% so với năm 2014) cho 78.302.058 lượt người (giảm 1.295.155 lượt so với năm 2014); phát hành miễn phí 40.918.307 tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật, qua đó góp phần tác động tích cực đến ý thức pháp luật của người dân.



Biểu đồ số 5: Số cuộc truyền pháp luật

và số lượt người được tuyên truyền pháp luật từ năm 2012-2015

- Tiếp tục triển khai Luật hòa giải ở cơ sở, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các địa phương tổ chức các lớp tập huấn kiến thức pháp luật và nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên. Theo thống kê, hiện cả nước có 117.225 Tổ Hòa giải (tăng 5.710 Tổ so với đầu nhiệm kỳ - năm 2011); 706.064 Hòa giải viên (tăng 146.632 so với đầu nhiệm kỳ); trong năm 2015 cả nước tiếp nhận 179.776 vụ việc hòa giải, số vụ việc hoà giải thành ước đạt 140.903 vụ việc - đạt tỷ lệ hòa giải thành 78,37% (tăng 1,37% so với năm 2014 và năm 2011) - Xem Biểu đồ số 6. Một số địa phương có tỷ lệ hoà giải thành cao (như Hà Nam - 96%, Hoà Bình - 93%, Bình Định - 91,8%, Đắk Nông - 89%, Quảng Trị - 88,35%, Vĩnh Long - 87,68%, Sơn La - 87%, Quảng Bình - 87%, Bến Tre - 87%). Với những kết quả đạt được, nhất là từ khi có Luật hoà giải ở cơ sở, có thể nói, trong năm 2015 và nhiệm kỳ 2011-2015, công tác hoà giải ở cơ sở đã góp phần quan trọng trong gắn kết cộng đồng dân cư.





Biểu đồ số 6: Số vụ việc tiếp nhận hoà giải và

Số vụ việc hoà giải thành giai đoạn 2011-2015

- Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã cùng với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Kế hoạch liên tịch số 856/KH-BTP-BVHTTDL-BTTUBTWMTTQVN ngày 23/3/2015 về việc phối hợp khảo sát, đánh giá tình hình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước; đồng thời hướng dẫn Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, đánh giá tình hình xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước. Qua đó, làm rõ hơn vị trí, vai trò của hương ước, quy ước trong quản lý xã hội và sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về hương ước, quy ước. Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với các địa phương (thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau, Quảng Bình, Thái Bình và Điện Biên) tiếp tục triển khai làm thử việc đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, từ đó đề xuất các giải pháp lồng ghép tiêu chí tiếp cận pháp luật vào Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, gắn kết các chủ trương, chính sách pháp luật về xây dựng nông thôn mới, xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong thời gian tới.

- Nhiệm kỳ 2011-2015, công tác quản lý nhà nước về PBGDPL và hòa giải ở cơ sở ngày càng được chú trọng và tăng cường hơn. Thể chế, chính sách về PBGDPL, Hòa giải ở cơ sở được hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua 02 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Luật Hòa giải ở cơ sở và gần 10 văn bản khác hướng dẫn thi hành55. Các văn bản đó cùng với các văn bản của Đảng đã tạo lập khuôn khổ chính trị - pháp lý điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực PBGDPL, Hòa giải cơ sở, tạo bước chuyển biến mới, từ tư duy triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án sang tư duy chính trị - pháp lý, gắn với trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ pháp lý theo luật định. Đặc biệt, kể từ năm 2013, Ngày Pháp luật Việt Nam đã được triển khai đồng bộ trên cả nước; thực sự trở thành sự kiện chính trị, pháp lý, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của người dân. Điều kiện bảo đảm thực hiện công tác PBGDPL và Hòa giải ở cơ sở ngày càng được quan tâm hơn. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động PBGDPL và hòa giải ở cơ sở được triển khai thực hiện, mang lại hiệu quả bước đầu.


Каталог: cacchuyenmuc -> ttdh -> Lists -> TaiLieuPhucVuHop -> Attachments
Attachments -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> BỘ TƯ pháp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Lists -> BỘ TƯ pháp số: /QĐ-btp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Lists -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Lists -> VĂn phòng số: 235/vp-th v/v quán triệt nội dung Nghị quyết Đại hội XII, đề xuất Danh mục các đề án, văn bản trình cấp trên và các nội dung đề xuất đưa vào Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt
Attachments -> VĂn phòng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> Độc lập Tự do Hạnh phúc Phụ lục IV: TÌnh hình xây dựng đỀ ÁN, VĂn bản thuộc thẩm quyền ban hành của bộ TƯ pháp hoặc liên tịch ban hành trong năM 2014
Attachments -> 1. Tình hình kinh tế xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2015 tiếp tục chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực. Tăng trưởng gdp quý sau cao hơn quý trước, quý III đạt 6,81%, 9 tháng đạt 6,5%
Attachments -> CHƯƠng trình hội nghị TƯ pháp các tỉnh có chung đƯỜng biên giới việt nam – campuchia lần thứ nhấT

tải về 0.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương