Bồ Đào Nha và công trình sáng chế chữ quốc ngữ Phải chăng cần viết lại lịch sử ? Roland Jacques



tải về 481.69 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu22.04.2018
Kích481.69 Kb.
#37005
1   2   3   4

61. Trong tác phẩm của ông Divers voyages et missions (xem chú thích 9), Rhodes cho ta khá nhiều yếu tố về cuộc đời ông. Để nói rõ về nỗ lực riêng của ông trong công trình ngữ học, chúng tôi sẽ xuất bản một bản viết tay của ông, viết vào năm 1632 và chưa từng được phổ biến; trong tài liệu nầy, vào thời gian ấy ta sẽ thấy rõ thực trạng và những thiếu sót của ông về các kiến thức liên quan đến cách phát âm tiếng Việt.

62. Alexandre de Rhodes, Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum, “Ad Lectorem”, bản văn ở đầu sách, không đề trang.

63. Gaspar do Amaral (hoặc de Amaral), sinh năm 1594 tại Curvaceira (nay là freguesia de Chão de Tavares gần Mangualde, huyện lỵ của Viseu), nhập hội dòng Tên năm 1607. Trước hết làm giáo sư ở Braga, Coimbra và É vora, rồi đi Phương Đông năm 1623. Ông được gửi đến truyền giáo ở Đàng Ngoài năm 1629 và 1638, và cư ngụ tất cả là bảy năm trong hai kỳ khác nhau. Sau đó, tại Macao, ông giữ chức vụ viện trưởng, phó tỉnh dòng, rồi làm kinh lược các vùng truyền giáo. Ông chết vào tháng 2 năm 1646, trên các bờ biển đảo Hải Nam trong một tai nạn đắm tàu chở ngài đến Đàng Ngoài. Vào thời ngài mất, ngài xem là người có khả năng nhất trong Hội dòng Tên về tiếng Việt.

64. António Barbosa, sinh năm 1594 ở Arrifana do Sousa (nay là Penafiel phía đông của Porto), nhập hội dòng Tên tại Lisbonne năm 1624 và sau đó không lâu đi Phương đông. Năm 1629, ông được gửi đến truyền giáo tại Đàng Trong, và vào năm 1636 thì đến Đàng Ngoài. Năm 1642, vì bịnh, ông bắt buộc phải trở về lại Macao, rồi Goa và chết tại đấy năm 1647.

65. Xem J. F. SCHÜTTE, Textus Catalogorum (xem chú thích 41), tr. 1034-1050. Xem các tài liệu: ARSI, JAP.-SIN. 80, trang 35-38v và 73-81; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, 49/V/13, trang 351- 373 và 661-663; 49/ V/32, tr. 308-327v.

66. Baltazar Caldeira, sinh ở Macao năm 1608, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1639; năm 1646 được gửi vào Đàng Trong, nhưng cùng năm đó bị trục xuất; ngài chết ở Goa năm 1674. Manuel Pacheco, sinh ở Cantanhede Bồ đào nha, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1641 đến 1642; phần chính của sự nghiệp ngài là làm giáo sư tại phân khoa nghệ thuật ở học viện Macao (Faculté des Arts du Collège de Macao), trong đó có dạy các ngôn ngữ; ngài chết tại đây năm 1647. Pêro Alberto, sinh ở Bragance (?) truyền giáo ở Đàng Trong vào 1640-1641, và sau đó từ 1641 ở Đàng Ngoài; ngài chết trên chuyến tàu về Macao, tàu bị chìm năm 1646, cùng với Gaspar do Amaral. Metello Saccano, sinh ở Messine, đã từng rời Lisbonne để đi Phương đông năm 1643, truyền giáo ở Đàng Trong giữa các năm 1646 và 1655, và sau đó còn trở lại vào năm 1662; một vài tháng sau ngài chết ở đây.

67. Xem các tài liệu: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, 49/V/32, tr. 521-522v và 681-681v; 49/V/61, tr. 231v-252v và 362v-377.

68. ARSI. JAP.-SIN, 80, tr. 88-89v và 96-96v.

69. Daniello BARTOLI, Dell’ Historia della Compagnia di Giesu. La Cina. Terza parte dell’ Asia, Roma, Stamperia del Varese,1663; xem bản viết tay (365 trang), còn lưu giữ tại Roma, trong văn khố của dòng Tên; nhiều lần được tái bản, trong đó: La Cina: Storia della Compagnia di Gesù, Milan, Bompiani, 1975.

70. ARSI, Fondo Gesuitico 688, tr.153 (kiểm định ký tên Antonio Casilio) và 158 (kiểm định ký tên V.M.= Vasco Martin?).

71. ARSI. Lus. 37-II, tr. 379-385. So sánh một trong những thư của Joseph Tissanier đề ngày 15.11.1658, 29.10.1659, 12.11.1659: ARSI, JAP.-SIN. 80, tr. 120-121 và 149-152.

72. Xem chiếu dụ của Giáo hoàng Alexandro VII "Super Cathedram Pricipis Apostolorum” ngày 9.9.1659, trong Bullarium Patronatus Portugalliặ Regum, tập II (Visconde DE PAIVA MANSO ed., Lisbonne, 1870), tr. 95. Những phái viên đầu tiên của các Đại diện tông tòa đến Việt Nam và các năm 1664 và 1666.

73. Một trong các tài liệu có nhan đề: Breve ragguaglio di ció, che é accaduto nelle Indie Orientali fra i Vicari Apostolici, ed i missionari della Compagnia di Giesù dall’ anno 1662 fino al 1694. Các bản chép tay ở Roma, văn khố Propaganda Fide, kho Informazioni; quyển 135, trang 223-233; Roma, thư viện Trung ương Quốc gia, Fondo Gesuitico, quyển 1255, số 49; bản ngắn hơn ở Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuítas na Ásia, tập 49/ V/ 32, tr. 789 791. Trong chú thích đã dẫn, chúng tôi đã nêu hai tác phẩm nói đến cuộc tranh chấp nầy: Henri CHAPPOULIE, Roma et les Missions d’ Indochine, và António DA SILVA REGO, Lições de Missionologia.

74. Chẳng hạn xem A. THOMASI, La conquête de l’ Indochine, Paris, Payot, 1934, tr. 13: “Ở Annam cũng như ở Xiêm, những người Pháp đầu tiên thấy được là những nhà truyền giáo. Cha Alexandre de Rhodes cập bến Đàng Trong vào năm 1624, sống 25 năm ở xứ nầy và ở Đàng Ngoài; ngài đưa về được tấm bản đồ đầu tiên của xứ ấy, một cuốn từ điển Annam-Latinh-Bồ đào nha, một bộ sử Đàng Ngoài và nêu lên những khả năng về thương mại. Ngài viết: “Đấy là một chỗ nên chiếm lấy và, khi định cư được, thì thương nhân Âu châu có thể tìm thấy một nguồn lợi phong phú và giàu có” - Thomazi ghi chú với chỉ dẫn trang sách, nơi tác phẩm của Alexandre de Rhodes về Divers voyages (đã nói đến trong chú thích 9 ở trên); nhưng lối trích dẫn hàm hồ nầy thường được lấy lại và bình luận (với ý xấu) trong các sách được xuất bản của Việt Nam sau nầy, dường như là một sự bịa đặt của Thomazi. Về việc này xem VƯƠNG Đình Chữ “Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes”, Công giáo và Dân tộc, TP HCM, số 901,4.4.1993, tr. 18-19.

75. Tác phẩm chính của Pierre HUARD và Maurice DURAND, Connaissance du Viêt-nam (Paris, Imprimerie Nationale và Hà nội, EFEO, 1954), trong chương có tựa đề “Việt Nam và người Âu châu” chỉ nêu lên hai gợi ý bên lề liên hệ đến người Bồ đào nha, mà không có liên quan gì đến việc chuyển vần latinh chữ viết (trang 51-52). Trong các sử gia về các cuộc truyền giáo, có thể nêu Alphons MULDERS: Khi nói đến công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, tác giả không hề nhắc đến nước Bồ đào nha hoặc người Bồ đào nha, dường như Alexandre de Rhodes đã một mình làm hết mọi chuyện (Missiegeschiedenis, Bussum [NL], Paul Brand, 1957, tr. 337).

76. Người ta có thể có lý chứng về việc nầy khi lược qua các thư mục dành cho vùng nầy và vào thời nầy. Trong các tác phẩm gần đây, có thể nêu: NGUYỄN Thế Anh, Bibliographie critique sur les relations entre Viêt-Nam et Occident (ouvrages et articles en langues occidentales), Paris, Maisonneuve et Larose, 1967; Kenndy G. TREGONNING, Southeast Asia: A critical bibliography, Tucson, University of Arizona Press, [1969]; Chantal DESCOURS-GATIN, et Hugues VILLIERS, Guide de recherches sur le Viêt Nam: bibliographies, archives et bibliothèques de France, Paris, L’ Harmattan, 1983. Còn về thời xa xưa hơn, xem tác phẩm cổ điển chính của Henri CORDIER, Bibliotheca Indosinica: Dictionnaire bibliographique des ouvrages relatifs à la péninsule indochinoise, 4 tập, Paris, Ernest Leroux, 1912-1915, và Bản Tra của nó, do M.-A. ROLAND-CABATON, Paris, Van Oest-Leroux, 1932 (tái bản năm tập: New York 1967 và Đài loan 1969). Còn thư mục về các công cuộc tr liệu và nghiên cứu), tác phẩm qui chiếu không thể thiếu là : Robert STREIT và tiếp theo. (ed.). Bibliotheca Missionum, 30 cuốn, Münster, rồi Aix-la-Chapelle, rồi Roma/Fribourg-en-Brisgau / Wienne, Herder, 1916-1975 (về Đông dương, đặc biệt xem các cuốn 4 [1245-1599], 5 [1600-1699], 6 [1700-1799], 11 [1800-1909], và 29 [1910- 1970]); tác phẩm nầy được nối tiếp bởi Bibliografia Missionaria (Johannes ROMMERSKIRCHEN và tiếp theo, ed.) xuất bản hàng năm ở Roma kể từ 1935. Còn về lịch sử hội dòng Tên, có thể có những thư mục riêng, trong đó có László POLGAR, Bibliographie sur l’ histoire de la Campagnie de Jésus 1901-1980: tập II/2. Các xứ: Mỹ châu, Á châu, Phi châu, Đại dương châu, Roma, 1986.

77. Ta có thể trích dẫn một trường hợp gần đây, nhằm lợi ích tổng quát hơn là khoa học. Ngày 18.1.1996, nhân dịp thăm viếng chính thức của Hội đồng các giám mục Pháp, tờ nhật báo La Croix (Paris) đã đăng tải một bài báo do Frédéric Mounier ” Giáo hội Pháp quay về Giáo hội Việt Nam”; nhà báo đóng ngoặc trích lại bài lời của chủ tịch Hội đồng giám mục: ” Giáo hội nầy có gốc Pháp. Nó thành lập nhờ nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Xem bài viết đặt lại vấn đề chúng tôi, đăng trể trên chính tờ báo nầy ngày 12.6.1997 dưới tựa đề "Giáo hội Công giáo Việt Nam có phải là Pháp không?" Và Roland JACQUES, “Ai đã thành lập Giáo hội Việt Nam" trong Định Hướng, số 14, mùa đông 1997, tr. 120-124.

78. Trong các sử gia Việt Nam, thí dụ nên xem LÊ Thành Khôi, Histoire du Viêt-nam des origines à 1858, Paris, Sudestasie, 1982. Trong các sử gia về các cuộc truyền giáo của Công giáo ở Việt Nam, chẳng hạn xem luận văn của Nguyễn Hữu Trọng, Le clergé national dans la fondation de l’ église au Viêt Nam. Les origines du clergé Vietnamien (Paris, Institut Catholique, 1955), xb. tại Saigon, Tinh Việt, 1959, với những luận cứ trái ngược lại do Eusebio ARNAIZ, “En torno al patronato portugués”, trong Boletim Eclesiástico da Diocese de Macau 57, 1959 và 58, 1960, và do Manuel TEIXEIRA, As Missões Portuguesas no Vietnam (đã trích dẫn trong chú thích 41), passim.

79. Xem các bản văn hội nghị: Nguyễn Đức Diệu, ed., Đô Thị Cổ Hội An. Hội thảo quốc tế tổ chức tại Đà Nẳng ngày 22, 23-3-1990, Hà nội, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991.

80. Xem Hồng Nhuệ [bút hiệu của Nguyễn Khắc Xuyên], Công trình nghiên cứu tiếng Việt của một người Thụy sĩ ở Kẻ Chợ Đàng Ngoài Onufre Borgès 1614-1664: góp í với Roland Jacques về Công trình nghiên cưú tiếng Việt của mấy người Bồ tiên phong cho tới 1650, Paris, do tác giả xb., [/Fountain Valley, Ca.(Hoa kỳ), Thánh Linh], 1996. Sách dày 221 trang dịch ra việt ngữ những bản viết tay mà chúng tôi đã xb., và lấy lại phần chính các chú thích của chúng tôi (xem Roland JACQUES, L’¿uvre de quelques pionniers portugais, đã nhắc ở chú thích 53 trên đây); tác giả đã dùng giọng văn tranh biện gay gắt để bênh vực luận cứ truyền thống chủ trương cho rằng chỉ có Rhodes là người khai sáng chính yếu về chữ quốc ngữ.

81. Nhiều khía cạnh của chuyến đi nầy chỉ được biết qua bản tường thuật của Rhodes. Manuel de Azevedo, sinh ở Viseu (Bồ đào nha) năm 1581, chết tại Macao năm 1650. Với tư cách là “kinh lược các vùng truyền giáo của Nhật bản và Trung hoa” (1644-1650), ngài là thẩm quyền cao nhất của hội dòng Tên ở Viễn đông. Ngài được một vị khác người Bồ đào nha phụ tá, João Cabral, bấy giờ là viện trưởng học viện và làm phó-giám tỉnh (1645-1646). Sinh ở Celorico da Beira (Bồ đào nha) năm 1598, Cabral làm kinh lược ở Đàng Ngoài trong các năm 1647-1648. Chính ngài chủ trì cuộc họp ở Macao (1645) của chúng ta đã nói đến. Ngài chết tại Goa năm 1669.

82. Ngoài các tác phẩm của Henri Chappoulie và António da Silva Rego trích dẫn ở trên (chú thích 40), về vấn đề nầy có thể nhắc đến Ignatio TING Pong Lee, "La actitud de la sagrada congregación frente al Regio Patronato”, trong Joseph METZLER, (ed.), Sacr¿ Congregationis de Propaganda Fide memoria rerum. 350 ans au service des missions 1622-1972, tập I/1, Roma/ Fribourg-en-Brisgau /Vienne, Herder,[1971], tr. 353-438.

83. Kể từ năm 1654, nghĩa là 5 năm trước khi chấm dứt các cuộc thảo luận ấy, liên quan đến tương lai công cuộc truyền giáo tại Việt Nam vuợt ra khỏi khả năng của Rhodes: việc bổ nhiệm các giám mục cho Việt Nam, “công việc” được ủy thác cho ngài lúc đầu khi rời khỏi Macao, từ nay do các cơ quan thẩm quyền tại Roma xử lý. Chính ngài lại được gửi đi Ba tư. Xem Lucien CAMPEAU, “Le voyage du Père Alexandre de Rhodes en France 1653-1654”, trong Archivum Historicum Societatis Iesu 48, 1979, tr. 65-85, với những tài liệu các văn khố đã trích dẫn.

84. Chẳng hạn Stephen NEILL, A history of Christian missions (Harmondsworth Middlesex [GB], Penguin, 1979). Tác giả quả quyết: "The hero of this epic of conversion was Alexandre de Rhodes” (tr. 195). Nghĩ rằng Rhodes là người duy nhất thực hiện lối viết quốc ngữ, Neill viết tiếp: “The second gift of Rhodes to the Church was the reduction of the Vietnamese language to writing in the Latin alphabet. He must have had, in addition to great gifts for languages, a remarkably accurate ear; for Vietnamese is a tonal language, and the accurate representation of these tones is extraordinarily difficult...” (tr. 196). Hẳn là phải đặt lại vấn đề; ngoài ra ở đây, tác giả diễn tả như một lối giả thiết, khi không trích dẫn được tài liệu nào chứng minh cho xác quyết của mình.

Tiểu sử của Rhodes được viết ra gần đây hơn cả là do Jean LACOUTURE (“Un Avignonnais dans la rizière”, trong Jésuites. Une multibiographie, tập I, Les conquérants, Paris, Seuil, 1991, tr. 297-324), lối viết khá “khéo léo” vừa nêu lên nhân vật nầy cũng như công việc truyền giáo của con người gốc Avignon ấy trong khung cảnh như “huyền thoại”, vừa cố đáp ứng những yêu sách của lối phê bình “lịch sử” của các tác giả tân kỳ. Đáng tiếc là có quá nhiều chi tiết sai lầm làm cho bản văn mất đi giá trị lịch sử chính yếu của nó. Một công trình gần đây nhất khai triển lịch sử công cuộc truyền bá kitô giáo tại Việt Nam trong tiền bán thế kỷ 17 do tu sĩ dòng Tên Philippe LéCRIVAIN: “La fascination de l’ Extrême-Orient, ou le rêve interrompu” (L’ âge de raison. 1620/30-1750, tập 9 trong bộ l’ Histoire du christianisme des origines à nos jours dir. do Jean-Marie Mayeur, Charles Pietri, André Vauchez và Marc Venard, [Paris,] Desclée, [1997], tr. 755. Rhodes là chính tác giả sáng chế về ngữ học, thì vẫn tiếp tục trình bày ngài như vị tiên phong, người chủ động chính đáng được nêu lên trong trang sử nầy.

85. Chẳng hạn xem Nicole Dominique Lê, Les Missions étrangères et la pénétration française au Viêt-Nam, Paris / La Haye, Mouton, 1975; THẾÁ Hưng, "L’ Église catholique et la colonisation française”, trong Les Catholiques et le mouvement national, études Vietnamiennes (Hà nội) số 53, 1978, tr. 9-81; TRẦN Tam Tỉnh, Dieu et César: les catholiques dans l’histoire du Viêt Nam, Paris, Sudestasie, 1978; [collectif] Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Kỷ yếu hội nghị khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 11 và 12-3-1988 [TPHCM], Viện khoa học xã hội và Ủy ban tôn giáo nhà nước, 1988.

86. Về vấn đề phục hồi danh dự, xem chú thích 12.

Cộng đồng Việt Nam hải ngoại có hai khuynh hướng cực đoan về vấn đề nầy. Có nhiều người công giáo ca tụng Alexandre de Rhodes quá mức. Nhiều giới khác, nhân danh tinh thần quốc gia, lại phản ứng ngược lại với suy nghĩ rằng ca tụng người Pháp nầy như một ân nhân của Việt Nam dường như là cố biện minh cho chế độ thực dân và vì thế người ta phải tố giác.

87. Xem nghiên cứu của Pierre-Yves MANGUIN về “Hiệp ước Bangkok ngày 5-12-1786”, trong Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802), Paris, EFEO, 1984, tr. 55-73; cũng như trong bản văn trang 62-67.

88. Đây cũng là trường hợp của hai tác phẩm lớn của Alexandre de Rhodes “Tvnquinensis historiae libri dvo [...], Lyon, J.-B. Devenet, 1652 [bản dịch pháp ngữ cũng do nhà xb. nầy từ 1651]; và Divers voyages et missions (nêu lên ở trên, trong chú thích 9). Chẳng hạn xem ý kiến của ủy ban giám định của hội dòng Tên tại Roma về cuốn sách sau nầy: “Các cha duyệt sách xét rằng hai cuốn sách về chuyến đi của cha Alexandre de Rhodes có thể được in, để khích lệ nhiều người về mặt thiêng liêng”, Roma,ARSI, Fondo Gesuitico 668, tr. 196. Liên quan đến cuốn sách của Rhodes viết về thầy giảng Anrê, một trong các giám định viên minh nhiên mong rằng Rhodes cần lưu ý nhiều hơn về các qui luật chép tiểu sử (tlđd. tr.186). Chúng tôi thấy dường như một số nhà chép sử hiện đại dựa vào các sách nầy nhưng không lưu ý đủ tinh thần kiểm thảo.

89. Về các kho văn khố Bồ đào nha và Tây ban nha liên hệ, chẳng hạn nên xem Josef Franz SCHÜTTE, El ‘Archivo de Japón’, Vicisitudes del Archivo jesuítico del Extremo Oriente y descripción del fondo existente en la Real Academía de la Historia de Madrid, Madrid, Real Academía de la Historia, 1964; và António DA SILVA REGO, “Jesuítas na Ásia”, trong Biblioteca da Ajuda. Revista deDivulgação, I/1, 5.1980, tr. 95-112; Maria Augusta DA VEIGA E. SOUSA, Roteiro e descrição sumária dos documentos que existem, em microfilmoteca do Centro de Estudos de História e Cartografia antiga [= BFUP số 47], Lisbonne, 1986. Còn các kho Roma, phần chính văn khố của hội dòng Tên (ARSI), đặc biệt là kho JAP.-SIN và Fondo Gesuitico; cũng có thể xem thư viện trung ương quốc gia, Fondo Gesuitico và văn khố Propaganda Fide. Tất cả các cơ sở nầy mở cửa cho các nhà nghiên cứu và giúp họ dễ dàng có những dụng cụ truy cứu.

90. Một số các nhà nghiên cứu Việt Nam đã trình những luận án sử học hoặc có liên quan đến lịch sử, nói đến thời liên hệ, tại các đại học ở Paris và Roma. Rất ít luận văn được xb., và gặp phải những thiếu sót như đã nêu lên, đặc biệt vì không đọc hiểu các nguyên bản viết bằng tiếng Bồ đào nha. Chúng tôi xin nêu ra đây: Nguyễn Hữu Trọng, Le Clergé national dans la fondation de l’ église au Viêt-nam. Les origines du clergé Vietnamien (Paris, Institut Catholique, 1955); Vũ Khánh Tường, Les missions jésuites avant les Missions étrangères au Viêt Nam, 1615-1665 (Paris, Institut Catholique, 1956); Phạm Văn Hội, La fondation de l’ église au Viêt Nam, 1615-1715 (Roma, Université Grégorienne, 1960); Đỗ Quang Chính, La mission au Viêt-nam, 1624-1630 et 1640-1645, d’ Alexandre de Rhodes, sj, avignonnais (Paris, école Pratique des Hautes études, 1969). Luận án thần học: Nguyễn Khắc Xuyên, Le catéchisme en langue vietnamienne romanisée du P. Al Grégorienne, 1956-1957); Placide Tân Phát, Méthodes de catéchèse et de conversion du P. Alexandre de Rhodes, 1593-1660, (Paris, Institut Catholique, 1963); MAI Đức Vinh, La participation des notables de chrétientés vietnamiennes aux ministères des prêtres. Recherche historico-pastorale, 1533-1953 (Roma, Université St.-Thomas, 1977); Nguyễn Chí Thiết, Le Catéchisme du Père Alexandre de Rhodes et l’ âme vietnamienne (Roma, Université Grégorienne, 1980). Các luận văn về giáo luật: Nguyễn Việt Cử, De institutione Domus Dei in missionibus Tonkini: Studium Juridicum (Roma, Université Grégorienne, 1954); Nguyễn Trọng Hồng, L’ Institut des catéchistes et les missions d’ Indochine au XVIIe siècle (Roma, Université Urbanienne, 1959); Phạm Quốc Sử, La Maison de Dieu, une organisation des catéchistes au Viêt-Nam (Roma, Université Urbanienne,1975). Như chúng ta đã từng nêu lên, luận văn của Nguyễn Hữu Trọng đã từng được phát hành, và gặp đào nha: xem lại chú thích 78.

Ngoài ra, nhiều giáo sư đại học Việt Nam đã viết về con người và sự nghiệp của Alexandrede Rhodes, đặc biệt vào dịp kỷ niệm 300 năm ngày chết của ngài. Xem các bài báo trong tập san Tạp chí Đại học, 1960 và 1961 - Huế; số đặc biệt của Việt Nam khảo-cổ tập san Sài gòn. 300 năm sau ngày cha Đắc Lộ qua đời 1593-1660 số 2/1961, 258 trang.

91. VƯƠNG Lộc (éd.), Annam dịch ngữ, Hà nội, Trung tâm từ điển học, 1995. Đây là bảng từ vựng dùng cho cơ quan hành chính (nhà Minh) đặc trách giao dịch với các nước nhỏ phải triều cống.

92. “Relaçã da gloriosa morte que padeçerã pella confissã da feê de Xpõ nosso Senhor tres cathechistas dos Padres da companhia de JESVS em o Reino de Cochinchina, nos annos de 1644., e 1645”, bản chép tay chưa xuất bản đề năm 1649 tại Goa, ký tên Mathias DA MAYA: ARSI, JAP./SIN. 70a, tập rời.

93. Batalhas da Companhia de Jesus na sua gloriosa provincia do Japão, bản chép tay năm 1650, xb. Luciano CORDEIRO, Lisbonne, Sociedade de Geografia/Imprensa nacional, 1894: tr. 185-198.

94. Noticias summarias das perseguições da missam de Cochinchina [...], Lisbonne, Miguel Manescal, 1700, tr. 50-76. Tuy nhiên, bản văn nầy có nét đặc sắc riêng so với bản chính.

95. Alexandres de RHODES, Lịch sử về đời sống và cái chết vinh quang của năm cha dòng Tên, đã chịu khổ ở Nhật bản. Với ba linh mục triều, năm 1643, Paris, 1653.

96. Xem Alexandre DE RHODES, Divers voyages et missions (đã dẫn ở chú thích 9),tr. 74.

97. Metello SACCANO, Relation des progrèz de la Foy au royaume de la Cochinchine ès années 1646, et 1647, Paris, Sébastien et Gabriel Cramoisy, 1653, tr. 129.

98. Xem phúc trình hàng năm của Gaspar do Amaral ngày 31.12.1632: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, collection Jesuitas na Ásia, cuốn 49/V/31, tr. 219v.

99. Xem nghiên cứu về đề tài nầy của Manuel CADAFAZ DE MATOS, trong phần dẫn nhập của tái bản cuốn đầu in năm 1588 tại Macao: Christiani pueri institutio, adolescentiaeque perfugium của Ioannes BONIFACIO (Macao, Instituto Cultural de Macau, 1988).

100. Francisco de Santo Agostinho MACEDO, Filippica Portuguesa contra la invectiva castellana [1645], trích dẫn bởi Charles Ralph BOXER, The Church Militant and Iberian Expansion 1440-1770, Baltimore /Londres, Johns Hopkins University Press, [1978], tr. 91.

101. Về vấn đề nầy, xin xem nghiên cứu của chúng tôi. L’¿uvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’ en 1650 (xem chú thích 53).

102. André Georges HAUDRICOURT, “Origine des particularités de l’ alphabet vietnamien”, trong Bulletin “Dân Việt Nam”, đã nói ở chú thích 8.

103. Kenneth J. GREGERSON, “A Study of Middle Vietnamese Phonology”, trong Bulletin de la Société des études Indochinoises, đợt mới 44/2, 1969, tr. 131-193.

104. HOÀNG Thị Châu, Tiếng Việt trên các miền Đất nước (Phương ngữ học), Hà nội, xb. Khoa học Xã hội, 1989.

105. Một bằng chứng cho thấy qua PHAïM Xuân Hy, “Ba bản ‘Kinh Tin Kính’ bằng chữ Nôm”, trong Trần Anh Dũng (dir.). Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam 1960-1995, Paris, tự xb., 1996, tr. 487-503. Ngoài ra, xem bài dẫn nhập trong tác phẩm của Vũ Văn Kính, Đất nước 4000 năm: Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII (Qua tác phẩm của Maiorica), Nhà xb. TPHCM, 1992.

Về chữ nôm, có nhiều thư mục bằng tiếng Việt, chúng ta chỉ nêu lên đây, chẳng hạn Trần Nghĩa, “Dẫn nhập tổng quát”, trong Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, do Trần Nghĩa và François GROS, Hà nội, Ed. Sciences Sociales, 1993, tập I, tr.15-47; Nguyễn Đình Hòa, “Chữ Nôm, The demotic system of writing in Vietnam”, trong Journal of the American Oriental Society, 1959; Bửu Cầm, “Nguồn gốc Chữ-nôm”, trong Văn hóa Nguyệt san 50, 1960, 347-355; Bửu Cầm, Dẫn-nhập nghiên-cứu Chữ-nôm, Sài gòn [1962].

106. Chẳng hạn xem Stephen NEIL , A history of Christian missions (chú thích 84):“Furthermore, he [Rhodes] rejected the tendency of the scholars to a high style of writing, with many words and phrases borrowed from Chinese and written in Chinese characters; he set himself to develop the quoc-ngu, the ordinary language of the people, and to make it a fit instrument for the expression of Christiantruth” (tr. 196-197).

107. Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam des origines à 1858, Paris, Sudestasie, 1982, tr. 290.

108. “Uma copiosa liuraria de 48 volumes, que compos, ou uerteo nesta lingoa, e letra natiua”: Francisco RANGEL, Annua du Tonkin 1659, ARSI, JAP.-SIN. 64, tr. 366v. Giorolamo Maiorica là một tu sĩ dòng Tên người Ý truyền giáo tại Đàng Ngoài. Xem Hoàng Xuân Hãn, “Girolamo Majorica. Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque Nationale de Paris”, trong Archivum Historicum Societatis Iesu, 22, 1953, tr. 203-214.

109. Chẳng hạn xem các danh mục của các nhà in truyền giáo ở Qui nhơn 1920, Kẻ sở 1920 và 1925, Tân định 1922, Hà nội 1926, Phú nhai 1927... Chúng ta cũng có thể ghi nhận việc tái bản một truyện thánh rất xưa bằng chữ nôm về thánh Antôn de Padoua (hoặc đúng hơn và Antôn Lisbonne), một vị thánh Bồ đào nha rất được dân chúng mến mộ: Chuyện ông thánh Antôn hay làm phép lạ, chuyển ngữ do Nguyễn Hưng [xb.tpHCM do tác giả], 1995. Việc phổ biến tập sách nhỏ nầy, dấu tích của một thời đã qua. Vì từ nay phải chuyển ngữ từ chữ nôm qua quốc ngữ, biểu hiện một nỗ lực đối thoại văn hóa mà những nhà truyền giáo đầu tiên và các tín hữu đầu tiên thực hiện trong cộng đồng công giáo Việt Nam, xuyên qua các thế kỷ.

110. Xem những suy nghĩ của Francisco de Pina về vấn đề nầy trong bức thư đã dẫn (Biblioteca da Ajuda, cuốn 49/V/7, tr. 413-416). Những thủ bút đầu tiên do người Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ có từ 1659: đó là những bức thư gửi cho tu sĩ dòng Tên Giovanni Filippo Marini: ARSI, JAP.-SIN, 81, tr. 246-259v.

111. Xem André MARILLIER, Nos pères dans la foi. Notes sur le clergé catholique du Tonkin de 1666 à 1765, tập 3, [Paris], église d’ Asie, [1995], tr. 170-172. Trong văn khố của Hội truyền giáo Paris, tác giả đã nêu lên một cách có hệ thống các ám chỉ nói đến việc sử dụng tiếng nói và hai cách viết tiếng nói nầy; những kết luận rút ra hoàn toàn trùng hợp với những gì nêu lên ở đây. Sự kiện đó đòi hỏi phải xét lại những khẳng quyết vội vàng; chúng tôi nêu lên ví dụ qua một quan điểm rất ôn hòa, đó là quan điểm của Jean COMBY: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế chữ quốc ngữ, nhưng ngài đã “cống hiến việc phổ cập hóa chữ viết đó” (Deux mille ans d’ évangélisation, Tournai, Desclée, 1992, tr. 165-166). Nói đến việc phổ cập hóa vào thế kỷ 17 là hoàn toàn phản niên kỷ. Cũng như xác quyết sau đây của Henri BERNARD- MAỴTRE : “Alexandre de Rhodes phải được xem như nhà truyền bá chính về sáng chế phi thường nầy” ( Le P. de Rhodes et les Missions trong Simon DELACROIX (dir.), Histoire universelle des Missions catholiques, tập II, Paris, Grund, [1957], tr. 53-69: tr. 57). Kỳ thực, các tác phẩm của Rhodes được in ra rất ít được “phổ biến”.

112. Ở đây chúng tôi không dùng các ý niệm “ngữ âm” và “âm vị” một cách chính xác như các nhà ngữ học thường sử dụng. Ngoài ra, trong trường hợp chữ quốc ngữ, các khuynh hướng đề cập vấn đề không có gì tuyệt đối. Việc ghi chép theo ngữ âm muốn mô tả hết sức trung thực các hiện tượng cấu âm và âm học, nghĩa là cái gì thực sự được đọc lên và được nghe. Còn âm vị học là một khoa học mới có đây, nhằm nghiên cứu các cách phát âm dưới góc độ của vai trò mà các cách phát âm đã thực hiện (các đối vị..., ) dựa vào những ý niệm về hệ thống và sự thích đáng trên bình diện truyền thông.

113. Thật vậy, các nhà ngữ học hiện nay cho rằng ba phụ âm mũi-cuối ở phần sau hết của một chữ nêu lên trên đây không chống kháng nhau, nhưng chỉ là một siêu-âm-vị ( ÷ ), mà lối phát âm thay đổi tùy thuộc vào nguyên đi trước. Vì thế:

- biến thể mặt lưởi - vòm mềm [ ÷ ] xuất hiện:

. sau những nguyên âm có độ mở tối đa /a/ (lang); và /a/ (lăng)

. sau những nguyên âm ngậm: / Ã / (vâng); /Q/ (lương); và / i / (lưng);

. (hiếm khi ở) sau nguyên âm mở phía trước / ε / (leng);

. một cách ngoại lệ khi ở sau một nguyên âm hơi mở tròn phía sau / 7 / (boóng);

- biến thể mặt lưởi - vòm trước [ø] xuất hiện sau các nguyên âm mặt trước /¿/ (lanh); / e / (lênh); và / i / (linh);

- biến thể môi - vòm mềm [ NW ] (vào thế kỷ 17 và 18 được ghi chú bằng dấu <~> xuất hiện sau các nguyên âm tròn phía sau /  / (long), /o/ (lông); và sau / u / (lung).

Cách nói của âm vị học diễn tả như sau: khi các nguyên âm đều đã được ghi bằng những ký hiệu khác nhau, thì ba lối viết cuối có thể ghi bằng cùng một ký hiệu theo mẫu tự, chẳng hạn . Trở ngại ở đây là các nguyên âm Việt Nam / a / và / ỉ / đều được ghi bằng một ký hiệu duy nhất là .

Nếu vấn đề giải quyết, thì chỉ có sự khác biệt sau nguyên âm /  / cho những chữ như , , đối chống với , . Nhưng đó là những trường hợp hết sức đặc biệt nên hẳn đây là một sự đối kháng về phát âm “không mấy quan hệ” trong âm vị học. Chính tả mới ngày nay đã tìm được giải pháp cho vấn đề bằng cách sáng chế ký hiệu mẫu tự . Những nhà sáng chế người Bồ đào nha đã từng mượn dấu phụ <~> (đặt trên chữ vàø phần cuối) nơi chữ viết Bồ đào nha của họ.

114. Đáng lưu ý khi nhận ra được rõ ràng một sự tiến hóa ngay nơi một người sử dụng lối chữ nầy. Ta thấy cũng một người ký tên Việt Giacôbê Nguyễn ghi lại những lời khai của các nhân chứng trong vụ án phong thánh cho những người Tây ban nha tử đạo đầu tiên tại Việt Nam trong năm 1746 và trong năm 1768. Giữa hai năm nầy có những qui ước chính tả đổi mới (Archivio Segreto Vaticano, kho Riti số 3014 và 3013). Nhưng nhân chứng rõ rệt nhất về những đổi thay nầy là cuốn Dictionarium Annamiticum Latinum de Pierre PIGNEAU DE BéHAINE, bản viết tay hoàn thành năm 1772, xb. sau đó bởi Jean-Louis TABERD: Dictionnarium Annamitico-Latinum, Serampore [Inde], 1838. Trái lại các bản văn của Philiphê do Rosário BỉNH vẫn giữ lại những qui ước cũ; vị tu sĩ dòng Tên người Việt nầy, sống ở Lisbone từ 1796 cho đến khi chết vào năm 1832, là người chủ trương bênh vực quyền bảo trợ (padroado) của Bồ đào nha trong các công tác truyền giáo tại Việt Nam, và không muốn ảnh người Pháp (xem Biblioteca Apostolica Vaticana, kho Codici Borgiani Tonchinesi, số 1 đến 23).

115. Xem các minh xác trên đây ở chú thích 3.

116. Lợi ích của chữ quốc ngữ ngay từ 1907-1908 đã được phong trào văn chương ái quốc “Đông kinh Nghĩa thục” đề xướng. Tuyên ngôn của phong trào nầy, tức khắc bị chính quyền thực dân đàn áp; tuyên ngôn đó cũng nói đến việc sáng chế chữ quốc ngữ là do “các linh mục Bồ đào nha”, nhưng không đưa ra lý chứng rõ rệt. Chúng tôi trích dẫn theo Văn tuyển Văn học Việt Nam 1858-1930, Hà nội, xb. Giáo dục 1981, tr. 195. Cũng xem thêm Nguyễn Khắc Viện (dir.), Anthologie de la littérature vietnamienne, tập III, Hà nội, éd. en Langues étrangères, 1975, tr. 25-30 và 248.

117. Chẳng hạn xem LÊ Thành Khôi “Introduction à l’ histoire et à la culture du Viêt-nam”, trong La jeune et la rouge [Paris], école Polytechnique], số 525, 5.1997 (tr. 5-13): trang 13. Trong bài báo nầy, nhà sử học dường như đã gia giảm lối phê phán của mình (xem lại chú thích 107).

118. Đây là điển hình về việc phục hồi danh dự cho Rhodes, qua một bản văn có tính cách quyết định, mà chúng ta có lần nói đến: "Together with European missionaries he set to romanize the script of Vietnam, using the Roman alphabet to record the Vietnamese language. It took the group nearly half a century to complete this collective work in which Alexandre der Rhodes played the main role. Not until two centuries latter did quốc ngữ (national script) become the popular written language of Vietnam and efficient vehicle in the modernization of the Vietnamese society... Alexandre de Rhodes’s services to Vietnam are immeasurable... It is time to correct the erromeous appraisal... and to do him justice in the light of truth and fairness...” ("'Let’s do Justice do Alexandre de Rhodes": Vietnam Social Sciences [Hà nội] 40, 2/1994, tr. 88-89). Theo quan điểm của chúng tôi, những gì nêu lên ở đây để tôn vinh Alexandre de Rhodes, thì hẳn nhiên cũng áp Bồ đào nha.



119. Về vấn đề nầy, xem các suy nghĩ của Nguyễn Phú Phong “Le Vietnamien: un cas de romanisation inachevée”, trong Cahiers d’ Etudes Vietnamiennes [Université Paris VII], 10, 1989-1990, tr. 25-32.




Roland JACQUES sinh năm 1943 tại miền Lorraine Pháp.

Tiến sĩ luật học tại Phân Khoa Luật Jean-Monnet de Sceaux, Đại Học Paris –Nam,

Tiến sĩ Giáo Luật Công Giáo tại Đại Học Paris và Học Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương Paris ( Faculté de Droit canonique de Paris et de l’Institut National des Langues et Civilisations Orientales de Paris) .

Cữ nhân và phó tiến sĩ về ngôn ngữ, văn chương và văn minh Việt Nam tại Học Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương Paris. Ông cũng đã thực tập hai năm tại Việt Nam và nghiên cứu tại Trung tâm Khoa học Xã hội Quốc gia (1994-1996).



Giáo sư khoa trưởng Phân Khoa Giáo luật, Đại Học St Paul, Ottawa, Canada

Các tác phẩm đã xuất bản :

  • De Castro Marim à Fạfo : Naissance et développement du padroado portugais d’Orient, des origines à 1659 (Lisbonne, Fondation Calouste Gulbenkian, 1999) 

  • "Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to 1650 / L'oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu'en 1650 (Bangkok, Orchid Press, 2002, 408 p.).

  • "Des nations à évangéliser, Genèse de la mission catholique pour l'Extrême-Orient"
     (
    EÉditions du Cerf, Paris 2004)

  • « Les missionnaires portugais et les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam » (Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam), (Đinh Hướng, Reichstett 2004)


tải về 481.69 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương