Bộ môn Lý luận Chính trị chưƠng trình giảng dạy học phần thông tin về học phần và lớp học


Chủ đề 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc



tải về 0.71 Mb.
trang3/12
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.71 Mb.
#13201
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Chủ đề 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Nội dung (kiến thức)

Mục tiêu dạy - học

Phương pháp dạy - học

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

a. Vấn đề dân tộc thuộc địa.

  • Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa

- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.

Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa chứ không phải là vấn đề dân tộc nói chung. Thực chất là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm địa ngục, Công cuộc khai hóa giết người… tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên mọi lĩnh vực. Người chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu ở các nước thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, thực dân.

- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.

Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha ta và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản”. Con đường đó xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở các nước thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.


  • Độc lập dân tộc, nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc

thuộc địa

- Cách tiếp cận từ quyền con người

Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối cải được”.

Từ quyền con người, Hồ chí Minh đã khái quát và nâng lên thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

- Nội dung của độc lập dân tộc:

Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đối với người dân mất nước, bị thực dân đế quốc đè đầu cưỡi cổ, tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống dân tộc Việt Nam, thì độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”(2). Đầu 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, tư tưởng cốt lõi vẫn là độc lập, tự do cho dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.

Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và chính phủ các nước sau cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.

Độc lập tự do là mục tiêu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc. :Không có gì quý hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.

b. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.


  • Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để giải quyết vấn đề dân tộc, bởi lẽ ở thời đại nào cũng vậy, vấn đề dân tộc luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường quan điểm của một giai cấp nhất định. sự kết hợp đó thể hiện : Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng chống lại bạo lực phản cách mạng; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội…

  • Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để giải quyết vấn đề dân tộc, bởi lẽ ở thời đại nào cũng vậy, vấn đề dân tộc luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường quan điểm của một giai cấp nhất định. sự kết hợp đó thể hiện: Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng chống lại bạo lực phản cách mạng; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội…

  • Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.

Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng do điều kiện lịch sử của một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cũng đặt vấn đề giai cấp trong sự vận động của dân tộc. Trước hết phải giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện tiên quyết để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.

Tháng 5-1941, Người khẳng định:“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.



  • Đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác

Theo Hồ Chí Minh, quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của mọi dân tộc trên thế giới. “Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Người không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, Người đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”. Người chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.



2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

a. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.

- Sự phân hóa của xã hội thuộc địa

Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở các nước thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều có chung số phận mất nước, giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn: Dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước.

- Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa

Dưới tác động của chính sách bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất, cùng với chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp xã hội thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có lợi ích ngược chiều nhau, nhưng nổi lên mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược và tay sai của chúng. Nếu như ở các nước tư bản phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

- Đối tượng của cách mạng ở các nước thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, cũng không phải giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Do đó cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu và áp bức bóc lột nói chung.

Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm lược thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.



- Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc. Trong phong trào cộng sản quốc tế, có quan điểm cho rằng “vấn đề cơ bản của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân”, và chủ trương nhấn mạng vấn đề ruộng đất, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.

Ở các nước thuộc địa, nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm hơn 90% trong lực lượng toàn dân tộc. Thực dân Pháp thống trị và bóc lột nhân dân Việt Nam, chủ yếu là thống trị, bóc lột nông dân. Họ là nạn nhân chính của chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất. Vì thế, kẻ thù số một của nông dân là bọn đế quốc thực dân. Họ có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng họ luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất.

Cùng với nông dân, tất cả các giai cấp và tầng lớp khác nhau đều có nguyện vọng chung là “cứu giống nòi” ra khỏi cảnh “nước sôi lửa bỏng”. Việc cứu nước là việc chung của cả dân tộc bị áp bức.

- Tính chất, nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa.

Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng tư sản, cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc; Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Người giải thích: nông dân là bộ phận có số lượng lớn nhất trong dân tộc, nên giải phóng dân tộc chủ yếu là giải phóng nông dân. Họ có yêu cầu về ruộng đất, nhưng nhiệm vụ ruộng đất cần tiến hành từng bước thích hợp. Khi đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó sẽ được đáp ứng một phần, vì ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân.

b. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi đi theo con đường cách mạng vô sản.



  • Bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó: Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với khuynh hướng chính trị khác nhau, với những hệ tư tưởng khác nhau.

Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha ta, dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm ra một con đường cứu nước mới.

Lớn lên trong một đất nước bị biến thành thuộc địa, được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha ta, Hồ Chí Minh nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của Phan Chu Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Con đường Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Chính từ thực tế, dù khâm phục tinh thần cứu nước đó nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ, mà quyết tâm đi tìm một con đường mới.



  • Cách mạng tư sản là không triệt để

Trong khoảng 10 năm (1911-1920) Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục để khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở nhiều nước thuộc địa cũng như tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới.

Bằng một sự nhạy cảm và từ thực tiễn mách bảo, Nguyễn Ái Quốc đã sớm hoài nghi những khẩu hiệu “tự do- bình đẳng- bác ái”, về cái gọi là “văn minh khai sáng” của chủ nghĩa tư sản. Khi trực tiếp chứng kiến cuộc sống bần cùng, lam lũ của nhân dân lao động ở thuộc địa cũng như chính quốc, nó đối lập với một cuộc sống khác xa hoa, phù phiếm của bọn chủ tư bản, Người nhận ra sự thật đó từ bản chất.

1912, Nguyễn Ái Quốc có nhận xét về cách mạng tư sản Mĩ:“…tuy cách mệnh thành công hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính toán cách mệnh lần hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”.

Cuối 1917, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp, Người có nhận xét về cách mạng tư sản Pháp như sau: “cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh chưa đến nơi. Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” cũng chính từ những lí do đó, trong sự lựa chọn con đường cứu nước cho dân tộc. Người đã không lựa chọn con đường cách mạng tư sản.



  • Con đường giải phóng dân tộc

Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng tháng Mười không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.

Người “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế ba chính vì Lênin và Quốc tế ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lí luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc, Người khẳng định, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.



  1. Cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng Cộng sản

lãnh đạo

  • Cách mạng trước hết phải có Đảng

Nguyễn Ái Quốc xác định: “Việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại” là “việc to tát”, bởi lẽ phải “sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh 1927 Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có đảng cách mệnh”. Người chỉ rõ “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ…Cách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu…Cách mạng phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân…Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”.

Tuy nhiên đảng cách mạng phải được tổ chức theo nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng lý luận Mác-Lênin, Người khẳng định: “phải có đảng cách mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt…Đảng mà không có chủ nghĩa thì cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.



  • Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất

Đầu 1930, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỹ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân đồng thời cũng là đảng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm quan trọng bổ sung cho lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản. Đồng thời nó định hướng cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng.

Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam, đảng đã là ngọn cờ đầu lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố đảm bảo cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.



  1. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc.

  • Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức

Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “để có cơ thắng lợi, một cuộc vũ trang ở Đông Dương … phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng”. Người nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động, “ hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức”. Người khẳng định “cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một hai người”.

Trong Cách mạng tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi còn hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh nói: “đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập.



  • Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc

Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, dù là tư sản dân tộc, hay một bộ phân địa chủ vừa và nhỏ, trong quan hệ với thực dân Pháp, họ cũng chỉ là người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước, nên họ có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc, trong đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân. Người khẳng định: công nông “là gốc cách mệnh”, bởi lẽ họ có số lương đông nhất, lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.

Mặt khác, Hồ Chí Minh không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng.

đ. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo.



  • Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo

Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, nền kinh tế hàng hóa phát triển đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, một trong những nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc.Nguyễn Ái Quốc khẳng định “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa đế quốc lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”.

Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đế quốc, cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Do bị áp bức bóc lột nặng nề nên nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.

Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản khác quan tâm đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Tháng 8-1945, khi thời cơ đến, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà giải phóng cho ta”.


  • Quan hệ của cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc

Trong phong trào công sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Quan điểm này đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của phong trào cách mạng thuộc địa.

Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc, có mối quan hệ mật thiết nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là mối quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính-phụ.

Nhận thức đúng vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, ngay từ 1924, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có thể bằng chủ động nỗ lực vượt bực của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc mà nó có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc. Mặt khác cách mạng thuộc địa còn có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.

Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin.



g. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.

  • Tính tất yếu bạo lực cách mạng

Việc sử dụng bạo lực cách mạng hay không, điều đó tùy thuộc vào thái độ, đối sách của kẻ thù.Ngay từ đầu, các thế lực đế quốc luôn sử dụng bạo lực để xâm lược, đàn áp các nước thuộc địa.Vì vậy, con đường để giành độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.

Đánh giá đúng bản chất phải động của bọn đế quốc tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng : “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lự phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.

Hồ Chí Minh coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nên bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Hình thức bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp.

Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.



  • Tư tưởng bao lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo hòa bình

Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược, xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn chủ trương tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu nhất. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng mọi biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là biện pháp bắt buộc cuối cùng khi không còn khả năng hòa hoãn.

Đánh thắng giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.



  • Hình thái bạo lực cách mạng

Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.

Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, Hồ Chí Minh không tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào lực lượng quân đội sống mái với kẻ thù, mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đấu tranh toàn diện với kẻ thù. Hồ Chí Minh nói: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể nào thắng lợi được”. Đấu tranh toàn diện thể hiện cụ thể:

- Đấu tranh “quân sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn”.

- Đấu tranh ngoại giao có ý nghĩa chiến lược, thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, tranh thủ đồng tình ủng hộ của quốc tế.

- Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người coi “ ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”.

- Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.

Tự lực cánh sinh cũng là phương châm chiến lược rất quan trọng. Mặt dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế, nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nổ lực của dân tộc, đề cao tinh thần tự chủ, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài


Nhận thức được sự sáng tạo của HCM trong tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó có những đóng góp thiết thực, hiệu quả vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay.

Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề và vấn đáp (1)

Thảo luận nhóm (2)



Каталог: Portals
Portals -> Phan Chau Trinh High School one period test no 2 Name: English : 11- time : 45 minutes Class: 11/ Code: 211 Chọn từ hoặc cụm từ thích hợp A, B, C, d để điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau
Portals -> PHẦn I: thông tin cơ BẢn về ĐẠi hàn dân quốc và quan hệ việt nam-hàn quốc I- các vấN ĐỀ chung
Portals -> Năng suất lao động trong nông nghiệp: Vấn đề và giải pháp Giới thiệu
Portals -> LẤy ngưỜi học làm trung tâM
Portals -> BÀi tậP Ôn lưu huỳnh hợp chất lưu huỳnh khí sunfurơ so
Portals -> TỜ trình về việc ban hành mức thu phí tham gia đấu giá quyền sử dụng đất
Portals -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Portals -> GIẤY Ủy quyền tham dự Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2016

tải về 0.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương