BỘ giáo dục và ĐÀo tạo trưỜng đẠi học ngoại thưƠng


CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ



tải về 0.82 Mb.
trang6/10
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.82 Mb.
#29956
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

CHƯƠNG III

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

HẢI QUAN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần XI là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là một chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa cho phát triển kinh tế đất nước. Mục tiêu và định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới được xác định như sau

- Nâng cao nhận thức đối với chủ trương tăng cường thu hút và quản lý vốn ĐTNN đã được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút ĐTNN, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

- Thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan trọng: công nghệ cao; công nghiệp phụ trợ; phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực; chế biến nông sản, phát triển các vùng khó khăn, nông nghiệp và nông thôn; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng; các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn; các ngành có ý nghĩa về an sinh xã hội (khám chữa bệnh, công nghiệp dược và vac-xin, sinh phẩm), bảo đảm môi trường và an ninh quốc gia,...

- Các quy định pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, đất đai, xây dựng, kinh doanh và các văn bản pháp luật chuyên ngành phải được rà soát, thống nhất đồng bộ; hệ thống các quy định về điều kiện đầu tư và kinh doanh chuyên ngành phải được xây dựng đầy đủ và công bố công khai nhằm minh bạch hóa các tiêu chuẩn, điều kiện tiếp cận thị trường, điều kiện tiến hành sản xuất, kinh doanh; cơ chế hậu kiểm, giám sát, quản lý đối với dự án ĐTNN theo Luật Đầu tư 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP phải được xây dựng và ban hành để tạo cơ sở cho các cơ quan quản lý nhà nước thực thi chức năng quản lý, kiểm tra, giám sát.

- Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phải được quy định và điều chỉnh trong một văn bản quy phạm pháp luật cấp đạo luật, nhằm tránh tình trạng mất cân đối, cấp phép tràn lan, gây dư thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp trong bối cảnh việc cấp phép và quản lý đầu tư đã được phân cấp về các địa phương.

- Các yếu tố về điều kiện cơ sở hạ tầng gây cản trở tới hoạt động ĐTNN cần được tập trung giải quyết như: hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển; sự ổn định về cung cấp năng lượng, công tác giải phóng mặt bằng,...

- Tập trung giải quyết các khó khăn về nguồn nhân lực phục vụ cho các dự án ĐTNN có quy mô lớn, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo; sự lạc hậu trong chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo, trường nghề; phòng ngừa và giải quyết các tranh chấp lao động nhằm hạn chế các cuộc đình công có thể xảy ra.

- Công tác xúc tiến đầu tư cần được đổi mới, nâng cao chất lượng và cần được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện hoạt động này.

- Công tác quản lý nhà nước, phối hợp giữa các cơ quan trung ương, giữa trung ương và địa phương cần được tăng cường, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng cơ quan. Xây dựng cơ chế báo cáo để tổng hợp thông tin kịp thời, đánh giá tình hình nhằm đề xuất các giải pháp điều hành của Chính phủ có hiệu quả.



3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

3.2.1. Về phía cơ quan hải quan

3.2.1.1.Từng bước góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan và quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài

Từ những tồn tại cần khắc phục trong công tác quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, các nội dung cơ bản về góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan và quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau :



- Thường xuyên cập nhật, rà soát các chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư nhằm phát hiện những bất cấp, thiếu sót để kịp thời chỉnh sửa, bổ sung góp phần hoàn thiện các pháp luật đó theo hướng đồng bộ, ổn định về chính sách, qui phạm giữa pháp luật về đầu tư với pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các luật liên quan khác. Trong việc góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoàn thiện chính sách thuế là một trong những vấn đề trọng tâm và quan trọng góp phần quản lý hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi chính sách thuế của Nhà nước là một trong những công cụ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Trong thời gian qua Nhà nước đã không ngừng cải cách, sửa đổi, bổ sung đảm bảo hợp lý, công khai, minh bạch và bình đẳng hơn. Việc đánh thuế ở nước ta đối với hàng hoá xuất nhâp khẩu thực hiện theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, có một số loại hàng hoá nhập đầu tư phải chịu các sắc thuế rất cao, phát sinh một vấn đề là nếu trốn được thuế thì sẽ thu được một khoản lợi nhuận rất lớn, vì vậy nhiều gian lận thương mại chấp nhận mạo hiểm tính toán tìm cách trốn thuế bằng cách khai báo không trung thực với cơ quan Hải quan, thậm chí thông đồng, móc ngoặc với cán bộ công chức Hải quan. Nói cách khác, thuế suất cao chính là một trong những nguyên nhân hấp dẫn thương nhân gian lận thuế. Do vậy, cần nghiên cứu một cách khoa học để định ra mức thuế suất hợp lý vừa đảm bảo mức thu hợp lý cho ngân sách Nhà nước nhưng đồng thời ngăn chặn gian lận trốn thuế. Việc đánh thuế vừa theo tính chất mặt hàng vừa theo mục đích sử dụng dẫn đến chênh lệch giữa đánh thuế theo tính chất mặt hàng với việc đánh thuế theo mục đích sử dụng rất cao. Một số mặt hàng có thuế suất cao được kinh doanh tại Việt Nam nhưng lại được phân biệt đối xử giữa các loại thương nhân với nhau cũng là một kẽ hở để lợi dụng. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật về thuế là: cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật về thuế (Thuế xuất khẩu, nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế giá trị gia tăng…) đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đảm bảo rõ ràng, minh bạch nhằm quản lý được nguồn thu của ngân sách Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong việc kê khai, tính thuế, nộp thuế thuận lợi, chính xác. Các nội dung quy định trong từng Luật thuế phải rõ ràng, minh bạch đảm bảo sự thống nhất, quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm của người nộp thuế, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan kiểm tra về thuế. Giảm thiểu những sơ hở trong việc xây dựng chính sách thuế gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó phải xây dựng được các chế tài nhằm phòng chống, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đồng thời hoàn thiện cơ chế nộp thuế, tạo điều kiện cho người khai hải quan nộp thuế nhanh nhất, thuận lợi nhất, bằng việc kết nối thông tin, hình thành hệ thống thanh toán qua mạng giữa các cơ quan Hải quan, Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước và người khai hải quan.

- Nghiên cứu các quy định về công tác hải quan có các nội dung liên quan đến hoạt động quản lý hàng hoá của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại các điều ­ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập (trong khuôn khổ WTO, WCO, ASEAN, APEC...); rà soát, đối chiếu nội dung của các điều ­ước quốc tế nêu trên với các quy định hiện hành của pháp luật hải quan; từng bước áp dụng các chuẩn mực và điều ước quốc tế trong quản lý đầu tư và chính sách thuế đối với hàng hoá đầu tư.

- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về hải quan và kết quả rà soát, dự kiến những nội dung cần sửa, lập ch­ương trình kế hoạch xây dựng pháp luật liên quan nhằm nội luật hóa các cam kết quốc tế vào các văn bản pháp luật về hải quan, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và lộ trình gia nhập WTO cụ thể từng bước khắc phục những bất cập, thiếu sót trong các căn bản pháp luật liên quan đến chính sách quản lý đầu tư nhất là chính sách ưu đãi miễn thuế đối với hàng hoá nhập khẩu của dự án đầu tư để đảm bảo bình đẳng, thuận lợi cho nhà đầu tư, thu hút mạnh đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, kích thích các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh toán, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và hạn chế đến mức thấp nhất thất thu cho ngân sách nhà nước đồng thời hoàn thiện qui trình đăng ký danh mục, qui trình miễn thuế đảm bảo thống nhất, thuận tiện, đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn hoạt động đầu tư trong nước và phù hợp với quốc tế.

- Xây dựng cơ chế hữu hiệu kiểm soát, bảo đảm việc thực thi nghiêm minh, đầy đủ, thống nhất các quy định pháp luật hải quan của cán bộ công chức trong toàn Ngành và các đối t­ượng chấp hành pháp luật hải quan;

- Kiện toàn việc thông tin rộng rãi pháp luật về hải quan nói chung và pháp luật về hải quan đối với hoạt động đầu tư nói riêng theo h­ướng toàn diện, rõ ràng, không chỉ là các văn bản quy phạm pháp luật về hải quan và điều ước quốc tế mà bao gồm cả các quy trình, thủ tục hải quan và các văn bản hư­ớng dẫn nghiệp vụ hải quan tới cán bộ công chức ngành hải quan và cộng đồng doanh nghiệp.

- Tăng c­ường hoạt động kiểm tra việc thực thi pháp luật đầu tư thường xuyên, định kỳ, đột xuất trong ngành nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật hải quan.

- Cơ chế thực thi pháp luật hải quan và pháp luật khác có liên quan: Công tác kiểm tra, giám sát, quản lý của ngành Hải quan có liên quan đến rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Ngành Hải quan bên cạnh việc chỉ đạo thực thi pháp luật hải quan còn phải chỉ đạo thực thi một khối lượng lớn văn bản pháp luật của các ngành khác. Đây là một trong những đặc thù so với các ngành khác. Vì vậy, cần phải có cơ chế thích hợp và hữu hiệu để thực thi công tác này. Điều này cũng chỉ ra rằng, Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước phải phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với cơ quan Hải quan để đảm bảo mục tiêu chung của quốc gia.

3.2.1.2. Tích cực cải cách hành chính đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác hải quan

- Tích cực cải cách các thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, tổ chức tư vấn, hướng dẫn doanh nghiệp tận tình, chu đáo. Trước mắt cần tổng hợp “bộ mẫu” cho các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như “bộ hồ sơ mẫu” đăng ký danh mục miễn thuế,... để doanh nghiệp dễ thực hiện, giảm việc đi lại nhiều làm làm tăng chi phí hành chính cho nhà đầu tư.

- Tiến hành thực hiện khai báo từ xa, khai báo điện tử đối với việc đăng ký danh mục hàng hoá miễn thuế của dự án đầu tư, theo dõi, trừ lùi tự động (như cấp giấy phép nhập khẩu tự động, cấp C/O tự động, ,...) nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính, giảm việc đi lại nhiều lần,... cho nhà đầu tư.

- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nhà đầu tư trong địa bàn quản lý, áp dụng Quản lý rủi ro đối với hàng hoá nhập khẩu của dự án đầu tư. Triển khai tốt mạng thông tin diện rộng (WAN) trong toàn ngành nhằm khai thác nhanh các thông tin giữa cơ quan Tổng cục Hải quan với Cục Hải quan địa phương và với các Chi cục; Kết nối mạng giữa cơ quan Thuế - Hải quan- Kho bạc và doanh nghiệp phục vụ việc cập nhật, khai thác thông tin liên quan đến tình hình chấp hành pháp luật của nhà đầu tư.

- Tăng cường công tác tổ chức thu thập thông tin, đặc biệt thông tin để xây dựng hồ sơ doanh nghiệp thông qua việc ký kết các hiệp định hay thỏa thuận với Hải quan các nước và với các Hiệp hội ngành hàng để phục vụ cho việc phân loại doanh nghiệp tuân thủ và doanh nghiệp chưa tuân thủ, khuyến khích doanh nghiệp tự tuân thủ và đánh giá, đồng thời nâng cao hiệu quả của việc phân tích, xử lý thông tin nhằm lựa chọn phân luồng tờ khai tại khâu thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu chính xác.. Các thông tin này phải được cập nhật thường xuyên và có hệ thống từ các đơn vị trong ngành Hải quan, trong ngành Tài chính, từ các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong nước và thông tin từ nước ngoài. Trước mắt, cần triển khai có hiệu quả một số công việc chủ yếu sau: Kết hợp, khai thác toàn bộ các chương trình, dữ liệu hiện có của Ngành bao gồm các chương trình: Quản lý tờ khai xuất nhập khẩu, theo dõi vi phạm, kế toán thuế, cơ sở dữ liệu trị giá hải quan - GTT22 và các chương trình khác. Tiếp tục hoàn thiện các chương trình và bổ sung các chức năng để tích hợp các chương trình này ; tập trung nguồn lực và thông tin để hoàn thiện danh bạ doanh nghiệp với đầy đủ tiêu chí phục vụ quản lý rủi ro, cập nhật thường xuyên, liên tục và kịp thời; tiếp tục xây dựng những phần mềm quản lý chuyên sâu: Phần mềm quản lý định mức phục vụ kiểm tra đối với loại hình gia công, sản xuất hàng xuất khẩu, phần mềm quản lý chuyên ngành; tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (mạng, đường truyền,…) cung cấp đầy đủ và kịp thời máy móc, trang thiết bị cho các đơn vị được kết nối thống nhất từ Tổng cục xuống các Hải quan địa phương ; xây dựng và hoàn thiện các website tại các Cục Hải quan địa phương bởi đây là diễn đàn thông tin không chỉ phục vụ cho nội bộ ngành Hải quan trong việc cung cấp thông tin thường xuyên cho các cấp Hải quan, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo trực tuyến.

3.2.1.3. Tăng cường hiệu lực và hiệu quả của các công cụ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật, chính sách của nhà đầu tư.

- Có biện pháp hữu hiệu yêu cầu nhà đầu tư thực hiện tốt chế độ báo cáo, quyết toán định kỳ theo qui định.

- Có chế tài xử lý nghiêm túc các hành vi vi phạm pháp luật đầu tư và các pháp luật liên quan khác đối với các nhà đầu tư lợi dụng chính sách ưu đãi miễn thuế để trốn thuế, mưu lợi bất chính.

- Thường xuyên tổ chức các hoạt động kiểm soát, kiểm tra, thanh tra nhằm sớm phát hiện những dấu hiệu vi phạm để ngăn chăn kịp thời những hành vi trái pháp luật trong hoạt động đầu tư góp phần làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư, tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường.



3.2.1.4. Từng bước nâng cao năng lực cán bộ, xây dựng ý thức và thái độ ứng xử lịch sự thể hiện “văn hoá’ của công chức hải quan các cấp.

Để công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hiệu quả cao, đòi hỏi cán bộ, công chức ngành Hải quan cần được đào tạo đầy đủ, đồng thời phải tự mình nâng cao năng lực, kiến thức và kỹ năng cơ bản sau:

- Nắm vững và thực hiện đúng pháp luật hải quan, các quy định và quy trình thủ tục hải quan. Cán bộ, công chức phải nắm chắc Luật Hải quan, các Luật thuế và các văn bản hướng dẫn, đặc biệt phải nắm chắc các quy định cụ thể về: nguyên tắc xác định trị giá, quy tắc xuất xứ, phân loại và mã hoá hàng hoá, v.v… nhằm phát hiện những gian lận và sai sót trong việc khai báo khi làm thủ tục hải quan.

- Áp dụng các kỹ năng công nghệ thông tin: Hiện nay, tất cả các hoạt động trong giao dịch quốc tế như hạch toán kế toán, kiểm kê, bán hàng, định giá, thư điện tử, v.v… đều được thực hiện thông qua hệ thống máy tính. Theo đó, cán bộ Hải quan cũng cần phải có đủ khả năng kiểm tra trên hệ thống máy tính của doanh nghiệp. Đồng thời cán bộ công chức Hải quan phải thành thạo ngoại ngữ: Vì ngôn ngữ chủ yếu trong thương mại quốc tế hiện nay là tiếng Anh và một số ngoại ngữ thông dụng như tiếng Pháp, tiếng Trung quốc, một số tiếng của nước láng giềng nên yêu cầu về ngoại ngữ là không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ, công chức nhằm giúp họ hiểu được nội dung các thư tín thương mại và các chứng từ khác liên quan đến giao dịch nhập khẩu.

- Việc sắp xếp cán bộ phải đảm bảo chuyên môn hoá, tính chuyên nghiệp cao, về lâu dài sẽ hình thành một số đội ngũ chuyên gia trong một số lĩnh vực cơ bản của ngành Hải quan. Cán bộ làm công tác chuyên môn cần phải kinh qua các công tác thực tế trong ngành đặc biệt là các lĩnh vực chuyên môn có liên quan như: thủ tục hải quan, kiểm tra thu thuế, điều tra chống buôn lậu, …Kết hợp việc chuyên môn hoá với việc đào tạo cho cán bộ có được những kiến thức tổng hợp; kết hợp với cán bộ có kinh nghiệm, cán bộ từ các bộ phận khác luân chuyển sang, cán bộ mới và việc bố trí cán bộ vào một số vị trí cụ thể phải được qua đào tạo cán bộ về lĩnh vực đó, phù hợp với chuyên môn đào tạo, năng lực, sở trường của cán bộ đó.

- Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức ngành Hải quan, ưu tiên cho việc đào tạo các kiến thức kỹ năng về chuyên môn như : Kiến thức pháp luật về hải quan, về thuế và pháp luật khác có liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế ; Kiến thức về kế toán, kiểm toán ; Kiến thức về công nghệ thông tin, ngoại ngữ.

Để đào tạo cán bộ trong ngành Hải quan cần nghiên cứu một cách có hệ thống từ việc phân tích nhu cầu đào tạo (nhu cầu hàng năm, ngắn hạn, dài hạn); xây dựng hệ thống đào tạo; thiết kế chương trình đào tạo; tổ chức đào tạo và công tác đánh giá đào tạo. Để đảm bảo đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức hiệu quả cần : Lựa chọn đối tượng đào tạo: Hiện nay trong toàn hệ thống toàn ngành Hải quan bao gồm rất nhiều đối tượng khác nhau. Có nhiều cách phân loại đối tượng như: theo trình độ đào tạo các chuyên môn chủ yếu của ngành Hải quan (trị giá hải quan, phân loại hàng hoá, xuất xứ hàng hoá, thủ tục hải quan…); theo thời gian, thâm niên công tác trong ngành Hải quan; theo trình độ các chuyên ngành khác (kế toán, kiểm toán, công nghệ thông tin, ngoại ngữ…).

Tuy nhiên, việc xác định đối tượng đào tạo đối với cán bộ, công chức cần kết hợp cả việc đào tạo theo chuyên môn và đào tạo cán bộ mới tuyển dụng, cán bộ, công chức đang làm công tác hiện nay ; Kết hợp đào tạo tại chỗ và đào tạo tập trung: Đào tạo tại chỗ là việc đào tạo do các cán bộ cấp trên, cán bộ lâu năm có nhiều kinh nghiệm đào tạo cho cán bộ cấp dưới, cán bộ mới được tuyển dụng hoặc ít có kinh nghiệm. Việc đào tạo này thường được tổ chức ngay tại bộ phận, đội công tác, Chi cục hoặc tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố để cung cấp kiến thức kỹ năng, hành vi ứng xử trong thực tiễn công việc hàng ngày, phương pháp đào tạo là hướng dẫn, kèm cặp từng người, kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, cách làm này cần ít chi phí nhưng hiệu quả cao, dễ làm trong điều kiện hiện nay nhất là công việc nhiều trong khi lại thiếu cán bộ. Hiệu quả mang lại sẽ cao, đồng thời dễ đánh giá hiệu quả công tác và tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các đồng nghiệp với nhau. Đào tạo tập trung: là việc đào tạo được tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định tại một địa điểm nhất định do cơ quan chức năng tiến hành hoặc do các Cục Hải quan tỉnh, thành phố tự tiến hành đào tạo để cung cấp kiến thức kỹ năng và hành vi ứng xử tổng quát, chúng có tính mô phạm, lý thuyết, lôgíc và có tính hệ thống, có thể đáp ứng các nhu cầu đào tạo chung của nhiều người học góp phần nâng cao năng lực tổng thể của học viên, tăng cường hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác giữa các cá nhân ở những đơn vị Hải quan địa phương khác nhau trong việc phối hợp cùng phát triển.

- Tăng cường công tác đào tạo, đạo tạo lại cán bộ trên tinh thần tự học, tự nghiên cứu; nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ cho các bộ công chức nhằm “chuẩn hoá” đội ngũ cán bộ công chức, đảm bảo đáp ứng tốt yêu cầu quản lý hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

- Thực hiện nghiêm túc các qui trình thủ tục hải quan, qui trình miễn, giảm, hoàn thuế. Triển khai hiệu quả tiêu chuẩn quản lý ISO 9001-2000 tại các Cục Hải quan địa phương.

- Có thái độ ứng xử đúng mực với doanh nghiệp đảm bảo thực hiện tốt Tuyên ngôn phục vụ khách hàng của Ngành “ Chuyên nghiệp- Minh bạch- Hiệu quả”. Thường xuyên rà soát, đánh giá lại năng lực, trình độ của dội ngũ cán bộ hiện tại; kiên quyết xử lý cán bộ, công chức có biểu hiện tiêu cực, sách nhiễu phiền hà doanh nghiệp để mưu lợi cá nhân hoặc có lời nói, hành động làm tổn hại đến danh dự, uy tín của ngành..

3.2.1.5. Xây dựng và phát triển mối quan hệ quốc tế về hải quan

Trong bối cảnh khu vực và toàn cầu hoá hiện nay thì việc phối hợp cung cấp thông tin giữa Hải quan các nước, giữa Hải quan Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, việc đầu tư nước ngoài do các công ty đa quốc gia đầu tư tại Việt Nam thì việc trao đổi thông tin có ý nghĩa quyết định.

Trước mắt, cần có những chương trình trợ giúp của WCO về kỹ thuật cho Hải quan Việt Nam. Bên cạnh đó, cần tranh thủ các hỗ trợ song phương, đa phương thông quan các tổ chức kinh tế quốc tế (ASEAN, APEC…) để trợ giúp cho Hải quan Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật, nghiên cứu khoa học và công nghệ ứng dụng trong ngành Hải quan nói chung và công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng.

Phối hợp với Hải quan các nước để cung cấp thông tin về doanh nghiệp ở nước đó xuất khẩu hàng vào Việt Nam, thông tin về hàng hoá và một số thông tin khác phục vụ cho việc xác minh, xử lý thông tin.

Lâu dài, cần nghiên cứu chiến lược tổng thể trong việc cử đại diện của Hải quan Việt Nam tại tổ chức WCO để thực hiện quyền và nghĩa vụ của Hải quan Việt Nam trong tổ chức này. Đồng thời, cử một số tùy viên Hải quan tại một số nước có quan hệ thương mại hàng hoá hai chiều lớn đối với Việt Nam thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư phát triển.

3.2.1.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật tới doanh nghiệp

- Tích cực tuyên truyền, phổ biến các chế độ chính sách mới về đầu tư, về thuế,... cho các doanh nghiệp; xem doanh nghiệp như là “bạn đồng hành”, là đối tác trong quản lý đầu tư để thống nhất nhận thức, nâng cao trách nhiệm trong việc tuân thủ thực thi pháp luật. Công tác tuyên tuyền cũng làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm và quyền lợi của mình trong việc tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp đồng thời đảm bảo quản lý chặt chẽ tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. Từ đó, các doanh nghiệp có ý thức chấp hành pháp luật, thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đồng thời có thái độ hợp tác với cơ quan Hải quan.

- Kích thích ý thức tự giác, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc kê khai danh mục miễn thuế trong khuôn khổ pháp luật qui định.

-. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, tập huấn về các quy định của pháp luật hải quan. Trước mắt, cần xây dựng một số cơ sở dữ liệu tổng hợp của luật pháp theo từng chủ đề có liên quan đến hải quan, doanh nghiệp công bố công khai để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân được nắm thông tin đầy đủ về khuôn khổ pháp lý mà họ phải tuân thủ.



3.2.1.7. Phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trong ngành Hải quan, cơ quan ban ngành khác.

- Phối hợp trong ngành Hải quan

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp trong ngành Hải quan có ý nghĩa rất quan trọng. Phối hợp trong ngành Hải quan tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: việc cung cấp và trao đổi thông tin; chỉ đạo nghiệp vụ. Tổng cục Hải quan phải thực sự là cơ quan đầu mối, chủ động trong việc phối hợp với các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc cơ quan Tổng Cục và các Cục Hải quan địa phương trong việc phối hợp này. Đồng thời các đơn vị này cũng phải có trách nhiệm trong việc phối hợp với Tổng cục Hải quan trong việc quản lý hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc phối hợp phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và kịp thời mới phát huy được hiệu quả. Định kỳ có sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.



- Phối hợp trong ngành Tài chính

Trong điều kiện hiện nay việc phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong ngành tài chính trong việc quản lý doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng không chỉ quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp mà giảm bớt thủ tục phiền hà, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong kinh doanh, chấp hành nghĩa vụ thuế cho ngân sách Nhà nước cũng như tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trong cơ chế phối hợp này vai trò của cơ quan Tài chính, Kho bạc, Thanh tra, Thuế, Hải quan là quan trọng, bên cạnh đó là sự phối hợp giữa các cơ quan khác trực thuộc Bộ Tài chính. Trong những năm qua, mặc dù đã có quy chế phối hợp giữa ba Ngành: Thuế, Kho bạc và Hải quan, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vấn còn có những khó khăn bất cập tiếp tục cần có giải pháp tháo gỡ. Chủ yếu là những vấn đề sau: Hình thành mạng thông tin trực tuyến giữa các cơ quan trong ngành Tài chính: Tài chính, Thuế, Kho bạc và Hải quan; trang bị đủ máy móc thiết bị cho các cơ quan này để cung cấp, trao đổi thông tin; chuẩn hoá các thông tin liên quan đến quản lý doanh nghiệp; hệ thống thông tin phải được cập nhật thường xuyên liên tục.



- Phối hợp giữa các ngành có liên quan

Việc phối hợp giữa các đơn vị chức năng quản lý Nhà nước, cơ quan chuyên môn còn được thể hiện như: Công tác giám định, đánh giá, kiểm tra các tiêu chuẩn, định mức…cũng như việc hỗ trợ lực lượng và phương tiện kỹ thuật trong các trường hợp cần thiết. Vì vậy, cần chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan thuộc chính phủ trong việc trao đổi thông tin và phối hợp thực hiện. Trước hết, các cơ quan trực tiếp có liên quan đến quản lý hoạt động xuất nhập khẩu như: Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải…Mặt khác, phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội ngành, nghề để chủ động tuyên truyền cho doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật nói chung và pháp luật hải quan nói riêng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.



3.2.2. Về phía các cơ quan ban ngành khác

Để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam các cơ quan ban ngành khác ngoài Tổng cục Hải quan cần thống nhất quan điểm nhận thức chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài; tạo cơ sở pháp lý tạo thận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách thủ tục liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; cải cách thủ tục hành chính; xử lý kịp thời những vướng mắc của các nhà đầu tư góp phần thúc đẩy nhanh các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cụ thể:

- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO.

- Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Các Bộ, ngành chủ động sửa đổi, bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền (Quy định về mã ngành, yêu cầu về hợp pháp hóa lãnh sự, hệ thống biểu mẫu báo cáo, cơ chế hậu kiểm, giám sát đầu tư.....); và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

- Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong thời gan gần đây có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.

- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất khu công nghiệp.

3.2.3. Giải pháp đối với doanh nghiệp

Thủ tục hải quan có liên quan nhiều đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong số các đối tác của hải quan, doanh nghiệp là đối tác chính, quan trọng trực tiếp làm các thủ tục hải quan. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của cơ quan hải quan tới các doanh nghiệp, doanh nghiệp cần nâng cao tính tự giác chấp hành pháp luật hải quan cụ thể trong việc đăng ký, cam kết về mặt hàng, sử dụng đúng mục đích hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là hàng nhập đầu tư được miễn thuế. Hoạt động hiệu quả, xây dựng thương hiệu mạnh nhưng đồng thời là hoạt động lành mạnh, không trái pháp luật, không chỉ là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường, góp phần thúc đẩy đầu ra của sản xuất, cung ứng dịch vụ; mà còn tạo thuận lợi cho hoạt động đầu vào với việc thông quan nhanh chóng hàng hóa nhập khẩu, khi được coi là Chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan.



Doanh nghiệp cần tích cực góp phần triển khai hải quan điện tử bởi đối với hàng nhập đầu tư, triển khai hải quan điện tử sẽ giúp cho công tác quản lý hải quan được dễ dàng và minh bạch hơn với những lợi ích mà hải quan điện tử mang lại cho doanh nghiệp như nâng cao hiệu quả công tác thông quan, cụ thể thời gian thông quan đối với lô hàng thuộc diện miễn kiểm tra hải quan là 5-10 phút, đối với lô hàng phải kiểm tra hồ sơ là 20-30 phút, còn hàng hóa phải kiểm tra thực tế hàng hóa phụ thuộc vào thời gian kiểm tra. Ngoài ra, doanh nghiệp được giảm chi phí do giải phóng nhanh hàng hóa và đem lại nhiều thuận lợi như: Được khai hải quan tại bất cứ địa điểm nào có máy tính kết nối mạng internet và được thông quan ngay đối với lô hàng thuộc diện được miễn kiểm tra hồ sơ giấy và miễn kiểm tra thực tế hàng hóa; Được sử dụng tờ khai điện tử in từ hệ thống của doanh nghiệp, ký và đóng dấu của doanh nghiệp để đi nhận hàng và làm chứng từ vận chuyển hàng hóa trên đường đối với các lô hàng thuộc diện được miễn kiểm tra hồ sơ giấy và miễn kiểm tra thực tế hàng hóa; Doanh nghiệp có thể khai báo hải quan bất kì lúc nào và được cơ quan hải quan tiếp nhận khai báo trong giờ hành chính; Được quyền ưu tiên thứ tự kiểm tra đối với các lô hàng phải kiểm tra chi tiết hồ sơ hoặc kiểm tra thực tế hàng hoá; Được cơ quan hải quan cung cấp thông tin về quá trình xử lý hồ sơ hải quan điện tử thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan; Được cơ quan hải quan hỗ trợ đào tạo, cung cấp phần mềm khai báo hải quan điện tử và tư vấn trực tiếp miễn phí; Được lựa chọn nộp lệ phí làm thủ tục hải quan cho từng tờ khai hoặc nộp lệ phí theo tháng; Thông tin giữa hệ thống của hải quan và doanh nghiệp được quản lý đồng bộ trên máy tính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, tìm kiếm thông tin; Doanh nghiệp có thể đăng ký thực hiện thủ tục hải quan điện tử tại bất kì Chi cục Hải quan điện tử nào và được thực hiện thủ tục hải quan điện tử trên toàn quốc; Giảm thời gian, chi phí làm thủ tục hải quan do doanh nghiệp có thể chủ động trong quá trình khai báo hải quan và sắp xếp thời gian đi nhận hàng và xuất hàng.

Thủ tục và giấy tờ cần cho hồ sơ hải quan nhập đầu tư cũng nhiều và phức tạp hơn nhiều loại hình khác đòi hỏi người làm thủ tục phải có trình độ và kinh nghiệm vì vậy các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ của nhân viên xuất nhập khẩu những người trực tiếp làm thủ tục hải quan đồng thời trong tương lai các doanh nghiệp nên lựa chọn Đại lý hải quan, dịch vụ khai thuê hải quan, để thực hiện các thủ tục nhập khẩu nhanh chóng và hiệu quả hơn và phối hợp với cơ quan hải quan trong việc mở các hội thảo, các buổi giao lưu để nắm bắt các văn bản pháp luật, quy trình mới về hải quan đồng thời nêu khó khăn, vướng mắc với cơ quan hải quan và đóng góp với cơ quan hải quan trong việc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật liên quan quản lý Nhà nước về hải quan nói chung và đối với công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng.
KẾT LUẬN

Một trong những động lực, yếu tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài “ không chỉ góp phần để nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm qua mà còn là điều kiện cơ sở cần thiết cho cả quá trình phát triển trong những năm tiếp theo”. Vì vậy, vấn đề quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang và một vấn đề được quan tâm.

Trong đó, một trong những cơ quan nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển đó là ngành Hải quan.

Với đề tài “ Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” luận văn đã giải quyết được một số vấn đề đó là:

Đánh giá những nỗ lực của ngành Hải quan trong việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong việc cải tiến, đơn giản hóa các thủ tục hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả.

Đồng thời đưa ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan, quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cụ thể đó là hàng hoá tạo tài sản cố định của các dự án đầu tư, hàng hoá nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và trên cơ sở định hướng phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục tiêu hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về hải quan trong thời gian tới, luận văn đưa ra một số giải pháp thực hiện đối với cơ quan hải quan, các cơ quan ban ngành có liên quan, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam góp phần hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam .

Với những đề xuất của đề tài, vừa có tính trước mắt đồng thời cũng có tính lâu dài, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc cải cách, phát triển và hiện đại hoá ngành Hải quan, coi đây vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ của một cán bộ, một đảng viên đang công tác trong ngành Hải quan.



Mặc dù có sự cố gắng nhất định, song do thời gian nghiên cứu, phạm vi đề tài rộng và khả năng của tác giả do vậy luận văn còn có một số hạn chế nhất định, rất mong được sự đóng góp để tiếp tục hoàn thiện trong tương lai.


tải về 0.82 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương