BỘ giáo dục và ĐÀo tạo trưỜng đẠi học ngoại thưƠng


Đánh giá công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam



tải về 0.82 Mb.
trang5/10
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.82 Mb.
#29956
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

2.3.Đánh giá công tác quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

2.3.1. Kết quả đạt được

Trong quá trình quản lý Nhà nước về hải quan nói chung và quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được một số kết quả:



2.3.1.1. Về cơ chế chính sách

- Chính sách đầu tư được pháp luật hoá chặt chẽ, khoa học, rõ ràng, cụ thể cho từng đối tượng, hình thức đầu tư, chính sách ưu đãi rộng mở và bình đẳng tạo môi trượng cạnh tranh lành mạnh cho các nhà đầu tư.

- Chính sách đầu tư nói chung, trong đó có chính sách ưu đãi miễn thuế đối với hàng hoá nhập khẩu tạo tài sản cố định của dựa án đầu tư đã là những công cụ hữu hiệu trong việc quản lý, thu hút đầu tư tạo điều kiện kích thích doanh nghiệp thúc đẩy các hoạt động kinh doanh, mạnh dạn đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu;

- Chính sách đầu tư tương đối ổn định với các khung ưu đãi rộng, tạo hành lang pháp lý trong khuổn khổ pháp luật và định hướng phát triển của Nhà nước theo những mục tiêu đã định;

- Qui trình thủ tục miễn thuế ngày càng được cải cách theo hướng phân quyền quản lý chuyên ngành trên cơ sở qui định của pháp luật (chẳng hạn: trước đây danh mục miễn thuế đối với hàng đầu tư nước ngoài do Bộ Công thương và cơ quan được Bộ Công thương uỷ quyền cấp; đối với hàng đầu tư trong nước do Ủy ban nhân dân tỉnh cấp, nay giao cho cơ quan hải quan thực hiện theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu); giảm thiểu giấy tờ, thời gian đi lại, giảm chi phí hành chính phát sinh cho doanh nghiệp

2.3.1.2. Về công tác nghiệp vụ hải quan

- Năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ công chức quản lý và thừa hành của ngành Hải quan trong giai đoạn hiện nay đã được nâng cao rõ rệt. Tỷ lệ cán bộ, công chức tốt nghiệp đại học, cao đẳng với những chuyên ngành phù hợp theo yêu cầu của ngành, biết sử dụng vi tính, ngoại ngữ khá cao do vậy dễ dàng tiếp thu những kiến thức mới, kỹ năng nghiệp vụ mới, ứng dụng có hiệu quả những chương trình quản lý của ngành; không ngại khó khăn và thường xuyên có những cải tiến trong công tác quản lý để công việc ngày càng được giải quyết nhanh chóng, đạt hiệu quả cao.

- Cơ sở vật chất và thiết bị phục vụ cho công tác quản lý đã được hiện đại hóa, trang bị tương đối đầy đủ, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho cán bộ công chức và phục vụ tốt cho công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động nghiệp vụ của ngành Hải quan ngày càng mạnh mẽ trong 5 năm trở lại đây. Đặc biệt Tổng cục Hải quan nhận Giải thưởng Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2008 dành cho lĩnh vực cơ quan Nhà nước trung ương ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả nhất. Trang bị máy vi tính, bảo đảm mỗi cán bộ công chức có 01 máy, các máy vi tính đều được kết nối Internet, đáp ứng nhu cầu thu thập thông tin, phục vụ công tác nghiệp vụ của cán bộ, công chức. Áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý: Cải tiến công tác quản lý văn phòng trên cơ sở sử dụng chương trình quản lý và điều hành qua mạng Net Office. Triển khai áp dụng phương thức làm việc hiện đại trên môi trường mạng như sử dụng thư điện tử để trao đổi, tham gia ý kiến giải quyết công việc, thực hiện chế độ báo cáo điện tử, quản lý hồ sơ, văn bản ...

- Việc tuyên truyền, phổ biến và triển khai chính sách pháp luật của nhà nước, qui định, qui chế của Ngành đến từng cán bộ công chức trong ngành và cộng đồng doanh nghiệp ngày càng được chú trọng, thực hiện định kỳ, thường xuyên thông qua các hoạt động như: các hội nghị đối thoại trực tiếp Thuế - Hải quan – Doanh nghiệp, các hội nghị tập huấn về nghiệp vụ, hướng dẫn triển khai khi có quy định hoặc chính sách mới được ban hành; công bố các văn bản hướng dẫn và thông tin, tư vấn thủ tục hải quan trực tiếp qua mạng trên website của Ngành và các Cục Hải quan địa phương để trả lời những vướng mắc của doanh nghiệp về những qui định, chính sách của pháp luật liên quan đến thủ tục hải quan đối với hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời tiếp thu những ý kiến phản hồi từ phía doanh nghiệp.



2.3.1.3. Về công tác cải cách hành chính

- Công tác cải cách hành chính là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ hoá đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Chính vì vậy, tập thể Lãnh đạo và cán bộ công chức ngành Hải quan từ Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan địa phương, Chi cục Hải quan cửa khẩu và Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu đồng thuận, thống nhất cao trong cải cách hành chính thủ tục hải quan với quan điểm về lâu dài và phát triển bền vững là đi đôi với thực hiện cải cách hành chính, ngành Hải quan phải đẩy mạnh công tác cải cách hiện đại hoá tập trung là tập trung vào cải cách thủ tục hải quan, hiện đại hoá công tác quản lý hải quan; đảm bảo công tác quản lý Nhà nước về hải quan một cách khoa học, nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.

Đã tổ chức triển khai thực hiện đúng, nghiêm túc các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến ngành Hải quan. Các Thông tư, quy trình thủ tục hải quan được cập nhật đầy đủ vào mạng nội bộ, trang Web của Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan địa phương và niêm yết công khai tại nơi làm thủ tục hải quan, thuận lợi cho công chức hải quan khi thực hiện nhiệm vụ và doanh nghiệp áp dụng. Tập trung chỉ đạo làm tốt công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan, từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro trong quy trình thông quan hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thương mại nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp được giải phóng nhanh hàng, đưa vào sản xuất, lưu thông, giảm bớt chi phí phát sinh do thời gian làm thủ tục, lưu kho bãi.

Trang Web Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố được cập nhật thường xuyên, kịp thời, đầy đủ các văn bản liên quan đến công tác hải quan. Ngoài ra đơn vị đã rà soát, thống kê và cập nhật trang Web các thủ tục hành chính về hải quan theo yêu cầu của Đề án 30 của Chính phủ để doanh nghiệp và cán bộ, công chức khai thác, áp dụng. Chuyên mục ‘‘Hỏi và Phúc đáp’’ trên trang Web cũng đã kịp thời trả lời, hướng dẫn, giải quyết nhiều vấn đề phát sinh của doanh nghiệp liên quan đến chế độ, chính sách, thủ tục hải quan.

Áp dụng tiếp nhận khai hải quan từ xa qua mạng tại hầu hết các Cục Hải quan địa phương và thí điểm thực hiện thủ tục hải quan điện tử tại một số Cục Hải quan như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh…, đồng thời tại các Chi cục Hải quan cửa khẩu, hồ sơ hải quan đã giảm bớt các giấy tờ không cần thiết theo đúng quy định. Các bước trong quy trình thủ tục hải quan đã được rút gọn, loại bỏ trung gian, doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký tờ khai hải quan và nhận lại tờ khai đã thông quan tại một đầu mối tại nơi làm thủ tục hải quan. Tính tự chịu trách nhiệm của công chức hải quan ở từng khâu của quy trình thủ tục được cá thể hoá và phân định rõ, hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp giữa công chức hải quan với người khai hải quan trong quá trình thông quan. Những yêu cầu từ phía hải quan đối với doanh nghiệp do đòi hỏi bắt buộc theo quy định của pháp luật đều được thông qua phiếu yêu cầu. Thời gian thông quan cho một lô hàng đã rút ngắn, cụ thể đối với một lô hàng bình thường: hàng xuất khẩu từ 5 đến 30 phút, hàng nhập khẩu từ 15 đến 45 phút. Từ đó đã bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và cải cách hành chính về hải quan tại địa bàn quản lý.

2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục

2.3.2.1. Về cơ chế chính sách

a. Về chính sách miễn thuế.

- Chính sách ưu đãi miễn thuế còn thiếu đồng bộ và chưa rõ ràng trong một số văn bản pháp qui, đó là:

Thứ nhất, khái niệm “ Dự án khuyến khích đầu tư” được dùng theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước trước đây, khi Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ra đời (thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước), thì khái niệm này không còn nữa. Tại Luật Đầu tư, Nghị định 108/2006/NĐ-CP chỉ có khái niệm về “dự án đầu tư”, “dự án đầu tư mới” và “dự án đầu tư mở rộng”, không có khái niệm “dự án khuyến khích đầu tư”, tuy nhiên trong các văn bản qui định về thuế như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vẫn dùng khái niệm này mà không có sự giải thích gì thêm. Như vậy “Dự án khuyến khích đầu tư” được hiểu là dự án gì?

Thứ hai, khái niệm “phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ” được hiểu là thế nào? Phương tiện này chỉ được hoạt động trong khu vực dự án (không cấp tờ khai nguồn gốc, không đăng ký biển số) hay được phép chạy ra ngoài dự án. Vấn đề này đã được Tổng cục Hải quan có văn bản hỏi Bộ Khoa học công nghệ môi trường nhưng đến nay chưa được trả lời. Theo đó một doanh nghiệp nhập khẩu xe ô tô khách về để thực hiện dự án vận tải hành khách công cộng hay nhập khẩu xe ô tô dùng dạy lái xe của một trung tâm đào tạo lái xe có được xem là phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ không. Vấn đề này cũng cần được giải thích rõ ràng hơn.

Thứ ba, khái niệm Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư” qui định tại điểm c khoản 4 Điều 102 Thông tư 194/2010/TT-BTC là không phù hợp với Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP vì pháp luật về đầu tư hiện nay không sử dụng khái niệm này nữa mà sử dụng “Giấy chứng nhận đầu tư” trong đó có điều khoản qui định về ưu đãi đầu tư.

Thứ tư, danh mục máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu, phương tiện vận tải, vật tư xây dựng,... trong nước chưa sản xuất được do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành đang áp dụng để miễn thuế nhập khẩu hiện nay là Thông tư 04/2009/TT-BKH còn rất hạn chế về chủng loại thiết bị, model và các chỉ tiêu kỹ thuật. Trên thực tế nhiều loại máy móc, thiết bị trong nước đã sản xuất được nhưng chưa có tên trong danh mục. Qui định “đã sản xuất được nhưng chưa đạt chất lượng” cũng là một nội dung mang tính hình thức và chưa rõ ràng. Trong trường hợp này chỉ có cơ quan quản lý chuyên ngành mới biết và xác định được, vì vậy cần qui định cơ quan quản lý chuyên ngành nào xác định việc “chưa đạt chất lượng” này để làm căn cứ miễn thuế.

Thứ năm, chưa có qui định cơ quan quản lý chuyên ngành nào (Công nghiệp, xây dựng,...), cấp nào (Bộ hay tỉnh) xác nhận máy móc, thiết bị đồng bộ, máy chính và thuộc loại trong nước sản xuất được hay chưa? Trên thực tế cùng một loại thiết bị nhưng có doanh nghiệp xin xác nhận của Bộ, có doanh nghiệp xin xác nhận của Sở chuyên ngành (thuộc tỉnh).

b. Về thủ tục, hồ sơ đăng ký và thực hiện miễn thuế

- Về thủ tục hồ sơ đăng ký danh mục miễn thuế.

Thứ nhất, đối với hàng nhập đầu tư được miễn thuế, khó khăn nhất trong quá trình tiếp nhận là xác nhận chính xác mặt hàng nhập khẩu là mặt hàng có trong Danh mục hàng hóa được miễn thuế. Trong quá trình tiếp nhận hồ sơ hải quan hàng nhập đầu tư, các công chức hải quan chủ yếu xem xét các mặt hàng nhập khẩu có phù hợp mục đích, quy mô dự án? Đặc điểm nổi bật của các dự án đầu tư là thời gian thực hiện dự án thường rất dài, vốn lớn. Khi xin cấp giấy phép đầu tư thì chính nhà đầu tư không thể kê khai chính xác và đầy đủ các mặt hàng sẽ nhập khẩu cho dự án vì sự thay đổi liên tục của công nghệ, khoa học kỹ thuật; thay đổi về các chính sách liên quan đến đầu tư, mặt hàng, giá cả…của nhà nước; sự thay đổi mục đích sử dụng của chính nhà đầu tư…theo thời gian. Trong Danh mục hàng hóa nhập khẩu được miễn thuế, họ chỉ kê khai chung chung tên, số lượng các hàng hóa nhập phục vụ dự án. Điều này gây khó khăn cho công chức hải quan khi tiếp nhận tờ khai hàng nhập đầu tư được miễn thuế vì không biết chính xác tất cả các hàng nhập khẩu này có thuộc trong Danh mục được miễn thuế đã đăng ký hay không? Cũng qua đó, doanh nghiệp khá dễ dàng gian lận khi nhập khẩu thêm những mặt hàng khác, để các mặt hàng không được miễn thuế nghiễm nhiên được miễn vì lí do phục vụ dự án ưu đãi đầu tư nếu như hải quan không phát hiện ra. Hoặc khai khống số lượng các mặt hàng được miễn thuế để sau đó tìm cách thực hiện buôn bán, chuyển nhượng trái pháp luật. Theo quy định, trách nhiệm của người nộp thuế là tự xác định nhu cầu sử dụng và xây dựng Danh mục hàng hoá nhập khẩu miễn thuế theo đúng quy định về đối tượng miễn thuế của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nghị định 87/2010/NĐ-CP, hướng dẫn tại Thông tư 194/2010/TT-BTC và các văn bản quy định khác có liên quan; Tự xây dựng bản thuyết minh và/ hoặc vẽ sơ đồ việc lắp đặt, sử dụng hàng hoá nhập khẩu miễn thuế nêu tại bản Danh mục hàng hóa nhập khẩu miễn thuế gửi đăng ký theo đúng quy định của pháp luật, nhu cầu của dự án, chương trình khi cơ quan hải quan yêu cầu; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai chính xác, trung thực các mặt hàng nhập khẩu kê khai tại Danh mục miễn thuế, bản thuyết minh việc lắp đặt, sử dụng hàng hoá nhập khẩu miễn thuế và việc sử dụng đúng mục đích miễn thuế đối với số hàng hoá này. Nhưng kiểm soát được sự trung thực này thật khó bởi nguyên nhân sâu xa lại là tính khách quan của các dự án đầu tư.

Thứ hai, tại khoản 1 Điều 38 Luật Đầu tư nêu “Đối với dự án đầu tư trong nước thuộc diện không phải đăng ký đầu tư (dự án dưới 15 tỷ) và dự án thuộc diện đăng ký đầu tư quy định tại Điều 45 của Luật Đầu tư (dự án từ 15 đến dưới 300 tỷ), nhà đầu tư căn cứ vào các ưu đãi và điều kiện ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật để tự xác định ưu đãi và làm thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp nhà đầu tư có yêu cầu xác nhận ưu đãi đầu tư thì làm thủ tục đăng ký đầu tư để cơ quan nhà nước quản lý đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào Giấy chứng nhận đầu tư.”

Theo qui định trên thì trường hợp nhà đầu tư nhập khẩu hàng hoá tạo TSCĐ của dự án thì tự xác định mức ưu đãi và đăng ký với cơ quan Hải quan có thẩm quyền xác nhận theo pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tuy nhiên điểm d khoản 4 Điều 102 Thông tư 194 yêu cầu doanh nghiệp phải nộp “giấy phép đầu tư” hoặc “giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư” khi đăng ký danh mục miễn thuế là chưa phù hợp, gây khó khăn cho doanh ngiệp.

Thứ ba, Danh mục hàng hoá miễn thuế có thể coi như một văn bản hay một loại “giấy phép” miễn thuế, bắt buộc doanh nghiệp phải nộp khi đăng ký tờ khai hải quan nếu doanh nghiệp có yêu cầu được miễn thuế nhập khẩu. Bởi vậy, khi xác nhận Danh mục miễn thuế cho doanh nghiệp, cơ quan hải quan phải kiểm tra, rà soát hết các điều kiện đuợc hưởng ưu đãi của doanh nghiệp, đối chiếu với dự án đầu tư và các chính sách hiện hành để tiến hành xác nhận. Thẩm quyền này thuộc về cấp Cục (và Chi cục hàng đầu tư gia công).Tuy nhiên theo qui định tại điểm c, bước 2 qui trình miễn thuế khi làm thủ tục hải quan ban hành kèm theo Quyết đinh 2424/QĐ-TCHQ thì công chức bước 1 của Chi cục phải kiểm tra đối chiếu với danh mục hàng hoá trong nước đã sản xuất được, văn bản xác nhận của Bộ Khoa học công nghệ, tính đồng bộ của hàng hoá ghi trong danh mục đã đăng ký,... là chưa phù hợp và chồng chéo với Cục, đồng thời rất mất thời gian vì việc này thuộc thẩm quyền cấp Cục đã được qui định tại Quyết định 2424/QĐ-TCHQ. Hơn nữa việc xác định tính đồng bộ của thiết bị phải có kiến thức kỹ thuật, do cơ quan có thẩm quyền xác nhận, không thuộc thẩm quyền của cơ quan hải quan.

Thứ tư, điểm b.2 khoản 7 Điều 101 Thông tư 194/2010/TT-BTC qui định khi đăng ký Danh mục miễn thuế phải căn cứ vào “ Văn bản xác nhận của Bộ Khoa học và Công nghệ đối với hàng hoá là phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ” tức là khi đăng ký danh mục, doanh nghiệp phải xuất trình cho cơ quan hải quan văn bản này. Tuy nhiên tại qui trình miễn thuế ban hành kèm theo Quyết định 2424/QĐ-TCHQ lại qui định doanh nghiệp có thể chưa xuất trình văn bản này khi đăng ký danh mục.

Thứ năm, các văn bản hiện nay chưa qui định thời hạn hoàn thành việc kiểm tra, xác nhận danh mục mà cơ quan hải quan phải thực hiện khi nhận đủ hồ sơ đăng ký danh mục theo qui định.


  • Về thủ tục hồ sơ đăng ký tờ khai hải quan

Căn cứ các quy định đối với thủ tục hồ sơ khi đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hóa nhập đầu tư được miễn thuế vẫn tồn tại một số bất cập

Các chứng từ phải nộp trong Hồ sơ hải quan của hàng nhập đầu tư được miễn thuế nhập khẩu:

+ Tờ khai hải quan: nộp 02 bản chính;

+ Hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương hợp đồng: nộp 01 bản sao; hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu nhập khẩu uỷ thác): nộp 01 bản sao;

+ Hóa đơn thương mại: nộp 01 bản chính;

+ Vận tải đơn: nộp 01 bản sao chụp từ bản gốc hoặc sao chụp từ bản chính có ghi chữ copy, chữ surrendered;

+ Danh mục hàng hóa miễn thuế kèm theo phiếu theo dõi trừ lùi đã được đăng ký tại cơ quan hải quan: nộp 01 bản sao, xuất trình bản chính để đối chiếu và trừ lùi;

+ Giấy báo trúng thầu hoặc giấy chỉ định thầu kèm theo hợp đồng cung cấp hàng hoá: nộp 01 bản sao, xuất trình bản chính để đối chiếu;

+ Đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư có sử dụng thường xuyên năm trăm đến năm nghìn lao động phải có: Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án khi đi vào hoạt động sử dụng thường xuyên từ năm trăm đến năm nghìn lao động; Bản cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng thường xuyên từ năm trăm đến năm nghìn lao động.

+ Giấy tờ khác chứng minh hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn thuế;

+ Bảng kê danh mục, tài liệu của hồ sơ đề nghị miễn thuế.

Ngoài ra tùy từng trường hợp cụ thể mà người khai hải quan nộp thêm, xuất trình các chứng từ khác theo quy định (Thông tư 194 của Bộ Tài chính, 2010).

Chỉ xét các chứng từ phải nộp ở trên, ta có thể thấy ngay khó khăn cho cả doanh nghiệp và công chức hải quan tiếp nhận tờ khai là phần Các chứng từ khác chứng minh hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn thuế. Doanh nghiệp lúng túng không biết phải nộp chứng từ gì và hải quan không biết yêu cầu chứng từ gì vì mỗi mặt hàng, mỗi đơn vị nhập khẩu được quản lý khác nhau. Hoặc chứng từ có trong tay không biết đã đủ chứng minh hàng nhập khẩu thuộc đối tượng miễn thuế? Chưa có văn bản pháp luật nào quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Nên trên thực tế, các doanh nghiệp thường không nộp thêm chứng từ nào.

Ngược lại Bảng kê danh mục, tài liệu của hồ sơ đề nghị miễn thuế được xếp vào các chứng từ phải nộp, nhưng tính thiết thực của nó thì chưa rõ? Bởi lẽ, khi tiếp nhận tờ khai, các công chức hải quan phải lập Phiếu tiếp nhận, bàn giao hồ sơ, trong đó nêu tên và số lượng các chứng từ của bộ hồ sơ hải quan. Vì vậy có nhất thiết cần đến Bảng kê danh mục, tài liệu của hồ sơ đề nghị miễn thuế!?

Đối với trường hợp dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư có sử dụng thường xuyên năm trăm đến năm nghìn lao động phải có Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án khi đi vào hoạt động sử dụng thường xuyên từ năm trăm đến năm nghìn lao động. Nhưng cơ quan nào đánh giá và phê duyệt Báo cáo này thì chưa được quy định rõ: cơ quan cấp giấy phép đầu tư, Bộ chủ quản hay chính quyền địa phương nơi dự án được thực hiện…? Cũng trong mục này, doanh nghiệp phải nộp Bản cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng thường xuyên từ năm trăm đến năm nghìn lao động. Thiết nghĩ hải quan là cơ quan quản lý Nhà nước đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, thực hiện các chính sách thuế, không quản lý về lĩnh vực lao động nên có cần Bản cam kết như trên?

Theo quy định, đối với hàng được miễn thuế, doanh nghiệp ngoài việc phải sử dụng hàng hoá đã được miễn thuế theo đúng quy định; định kỳ sáu tháng một lần kể từ khi đăng ký tờ khai đầu tiên để nhập khẩu hàng hoá được miễn thuế cho đến khi kết thúc xây dựng hoặc đưa vào lắp đặt, sử dụng hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá nhập khẩu miễn thuế đã được miễn thuế, người nộp thuế có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện nhập khẩu, sử dụng hàng hoá miễn thuế theo Danh mục đã đăng ký với cơ quan hải quan nơi đăng ký Danh mục để quản lý, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện, sử dụng toàn bộ hàng hoá miễn thuế từ khi bắt đầu nhập khẩu đến thời điểm báo cáo. Người nộp thuế phải có văn bản thông báo với cơ quan hải quan nơi làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa về số lượng, chất lượng, chủng loại... hàng hóa dự kiến sẽ thay đổi mục đích sử dụng. Có trách nhiệm nộp đủ số tiền thuế, tiền phạt chậm, tiền phạt vi phạm hành chính (nếu có) cho hàng hoá đã được miễn thuế nhập khẩu, nhưng sau đó thay đổi mục đích sử dụng trong thời hạn. Cơ quan hải quan nơi đăng ký Danh mục hàng hóa miễn thuế có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc nhập khẩu và sử dụng đúng mục đích đối với hàng hóa miễn thuế của người nộp thuế. Trường hợp sử dụng không đúng mục đích thì thu đủ thuế, đồng thời xử phạt theo đúng quy định. Nhưng trên thực tế, nhiều dự án đầu tư kéo dài hàng chục năm, việc quản lý sử dụng và chuyển đổi mục đích các hàng nhập đã được miễn thuế là rất khó. Điều này phụ thuộc nhiều vào ý thức, trách nhiệm pháp luật của doanh nghiệp. Hiện nay, cơ quan hải quan chưa có đủ lực lượng cũng như hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác để kiểm tra ở các doanh nghiệp.



- Về thủ tục miễn thuế đối với hàng hóa tạo TSCĐ

Hồ sơ, thủ tục miễn thuế đối với hàng hoá tạo tài sản cố định là một bước (hay một công đoạn) của thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thương mại, vì vậy thủ tục miễn thuế phải dựa trên nền tảng của qui trình thủ tục hải quan, đồng thời việc thực hiện miễn thuế được thực hiện cụ thể theo điểm b khoản 2 Điều 103 thông tư 194; Mục B phần II qui trình miễn thuế ban hành kèm theo Quyết định 2424/QĐ-TCHQ. Quá trình thực hiện còn một số bất cấp sau:

Thứ nhất, đăng ký tờ khai loại hình đầu tư còn nhiều bất cập.

Thế nào là một bộ hồ sơ đăng ký theo loại hình đầu tư? để đăng ký loại hình đầu tư cần phải có những giấy tờ gì? Câu hỏi này không ít công chức thừa hành không khỏi phân vân khi thực hiện qui trình thủ tục hải quan.

Về chính sách, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc khai báo và đăng ký tờ khai theo loại hình đầu tư. Về thống kê theo chương trình số liệu xuất nhập khẩu của ngành Hải quan (SLXNK) thì có nhiều loại hình đầu tư như đầu tư, đầu tư kinh doanh, đầu tư nộp thuế, đầu tư miễn thuế, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài....

Trên thực tế thực hiện rất khác nhau: Chỉ có hàng hoá miễn thuế (kể cả TSCĐ và vật tư nguyên vật liệu,...) mới đưa vào đầu tư (NĐT) hay chỉ trong trường hợp doanh nghiệp nộp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư hoặc Danh mục hàng hoá miễn thuế mới đưa vào loại hình đầu tư...; cùng một hình thức hàng hoá nhập khẩu nhưng khi thực hiện thủ tục hải quan cách hiểu chưa thống nhất dẫn đến việc phân loại loại hình xuất nhập khẩu khi thì đưa vào loại hình đầu tư khi đưa vào loại hình kinh doanh.

Yêu cầu doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan hải quan: Giấy phép đầu tư (đối với trường hợp phải cấp phép đầu tư); hoặc Giấy chứng nhận đầu tư (trong trường hợp phải cấp giấy chứng nhận đầu tư). Trường hợp không phải cấp phép hay giấy chứng nhận đầu tư thì doanh nghiệp phải có dự án đầu tư và Quyết định phê duyệt đầu tư (của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc của Chủ tịch Hội đồng quản trị hay giám đốc doanh nghiệp)

Các trường hợp nhập khẩu nguyên liệu, vật tư của doanh nghiệp đầu tư trong nước hay nước ngoài; miễn thuế hay không miễn thuế đều đưa vào loại hình nhập khẩu kinh doanh, ký hiệu NKD

Khi nhà đầu tư có nhu cầu hưởng yêu đãi miễn thuế nhập khẩu thì mới phải nộp danh mục miễn thuế. Nếu không có danh mục miễn thuế hoặc danh mục miễn thuế nhưng không phù hợp với hàng hoá nhập khẩu thì vẫn đưa vào loại hình nhập khẩu đầu tư nhưng phải nộp thuế, ký hiệu NĐT-NT

Thứ hai, việc yêu cầu phải tính thuế nhập khẩu đối với hàng hoá đầu tư miễn thuế là không cần thiết, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi kê khai và việc kiểm tra của hải quan vì hầu hết các dự án đầu tư hiện đại hiện nay được thực hiện theo hình thức chìa khoá trao tay, không tách rời máy móc, thiết bị nên rất khó tính thuế. Mặt khác, việc xác định số thuế phải nộp rồi được miễn là công việc thừa, không phải là mục tiêu quản lý đầu tư.

Thứ ba, mục B phần II Qui trình miễn thuế, xét miễn thuế,....ban hành theo Quyết định 2424/QĐ-TCHQ qui định phải đóng dấu miễn thuế lên tờ khai hải quan sau khi kiểm tra hồ sơ và chấp nhận miễn thuế đối với doanh nghiệp nhưng không qui định mẫu dấu này được đóng vào ô nào trên tờ khai. Phía dưới mẫu dấu có chức danh “Chi cục trưởng Chi cục hải quan ký tên đóng dấu” là không cần thiết vì Lãnh đạo Chi cụ đã duyệt vào phiếu đề xuất của công chức thực hiện.

2.3.2.2. Về kiểm tra, giám sát, quản lý hàng hóa

Kiểm tra giám sát hải quan là hoạt động mang tính đặc thù của ngành Hải quan. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát cơ quan Hải quan kịp thời phát hiện các thiếu sót, vi phạm để yêu cầu doanh nghiệp xuất nhập khẩu chấp hành đúng pháp luật đồng thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý Nhà nước về Hải quan để kịp thời kiến nghị sửa đổi bổ sung chính sách cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội của đất nước. Mục đích của kiểm tra giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu là phải xác định được tên hàng, số lượng, quy cách phẩm chất, xuất xứ, áp mã, áp giá, thuế suất không để sai sót, sơ hở có thể xảy ra.

Trong phần này của luận văn, trước hết tác giả xin được đưa ra một số tồn tại trong thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:

Đối với hàng hóa nhập khẩu tạo TSCĐ được miễn thuế của các dự án đầu tư:

Tại khâu tiếp nhận hồ sơ công chức hải quan kiểm tra việc khai các tiêu chí trên tờ khai, kiểm tra sơ bộ nội dung khai của người khai hải quan, kiểm đếm đủ số lượng, chủng loại các chứng từ kèm theo tờ khai hải quan. Trường hợp phát hiện có sai phạm thì thực hiện kiểm tra chi tiết hồ sơ, như sau: Công chức hải quan kiểm tra nội dung khai của người khai hải quan, kiểm tra số lượng, chủng loại giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan, tính đồng bộ giữa các chứng từ trong hồ sơ hải quan; kiểm tra việc tuân thủ chính sách quản lý nhập khẩu, chính sách thuế và các quy định khác của pháp luật. Kiểm tra tên hàng, mã số hàng hóa. Một khó khăn thường gặp phải là trong việc phân loại áp mã hàng hóa. Nói đến tên hàng hóa có rất nhiều cách gọi, như là tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học, tên gắn với tính năng sử dụng, với kích thước, với nhà sản xuất, địa danh sản xuất, với các nguyên nhiên liệu chính… Trước hết, hải quan phải xác định được tên hàng phù hợp với tên trong bảng mã hàng hóa để áp mã. Nhiều tên bằng tiếng nước ngoài nên nhiều trường hợp doanh nghiệp và hải quan không thống nhất tên hàng để áp mã, nhất là các hàng hóa đặc biệt, chuyên dụng, trong nước chưa sản xuất được. Nhưng quan trọng hơn là xác định hàng nhập khẩu đúng với tên khai báo. Nhập máy móc, thiết bị kỹ thuật phức tạp, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng những khó khăn trong việc áp mã để gian lận thương mại.

Theo quy đinh doanh nghiệp được miễn thuế đối với thiết bị, máy móc… phục vụ cho dự án đầu tư. Điều đó có nghĩa là với những hàng hoá thuộc loại trên cơ quan hải quan nhiều khi không quan tâm đến trị giá hàng hóa (tức là giá để tính thuế) vì đằng nào hàng hoá đó cũng được miễn thuế theo qui định của pháp luật. Do quan niệm ý thức đó nên khi làm thủ tục hải quan, hải quan dễ dàng cho qua các loại hàng thuộc đối tượng này, vô tình để gian lận thương mại trong lĩnh vực liên doanh đầu tư nước ngoài lọt lưới. Thực tế trong các doanh nghiệp đầu tư hiện nay diễn ra khá phổ biến các tình trạng sau: các đối tượng nước ngoài lợi dụng sự thiếu hiểu biết và yếu kém cả về năng lực lẫn phẩm chất của một số cán bộ quản lý Việt Nam đã tìm cách góp vốn bằng máy móc thiết bị cũ lạc hậu về công nghệ khai tăng giá lên một cách quá đáng các thiết bị máy móc mà họ góp vốn. Việc nâng giá máy móc thiết bị lên so với giá cả thị trường quốc tế để góp vốn của các chủ đầu tư, liên doanh nước ngoài đã làm gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn và lợi nhuận cho phía nước ngoài để thu lợi nhuận cao qua phần thu hồi khấu hao thiết bị máy móc cao hơn giá trị thực vốn có của nó, làm giảm tỷ lệ góp vốn và phân chia cho phía Việt Nam, đồng thời còn làm giảm sút phần thuế lợi tức phải nộp cho nhà nước ta. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài một mặt khai tăng giá nhập khẩu thiết bị vật tư thuộc phần vốn góp được miễn thuế một mặt họ tìm cách khai giảm giá nhập khẩu nguyên liệu và giá sản phẩm kinh doanh xuất nhập khẩu để trốn thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra một trong những ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là việc miễn thuế nhập khẩu cho trang thiết bị máy móc vật tư tạo cơ sở vật chất ban đầu và tạo tài sản cố định. Chính do sự miễn thuế này mà trong giai đoạn đầu của các doanh nghiệp này đã xuất hiện nhiều hiện tượng gian lận thương mại như: Khai sai xuất xứ, khi chưa có giấy phép doanh nghiệp đã nhập khẩu hàng..gây sự ùn tắc tại cửa khẩu, sự lộn xộn trong hoạt động xuất nhập khẩu ảnh hưởng đến công tác quản lý hải quan.

Ngoài ra, lợi dụng tiêu chuẩn miễn thuế, ví dụ lợi dụng nhập khẩu trang thiết bị vật tư chất lượng cao vào bán ra thị trường rồi lấy vật tư trong nước rẻ hơn để lắp ráp xây dựng cơ sở hạ tầng hay khai báo trên tờ khai hải quan so với thực tế hàng hoá nhập khẩu về số lượng, chủng loại, xuất xứ, trị giá hàng hoá.. nhằm mục đích trốn thuế nhập khẩu…

Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách và biện pháp cụ thể như tạo hành lang pháp lý thuận lợi, môi trường đầu tư thông thoáng lành mạnh nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Ngành Hải quan đã từng bước cải tiến đơn giản thủ tục tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, quản lý Nhà nước hoạt động xuất nhập khẩu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng đã bộc lộ một số vấn đề những tồn tại cần tháo gỡ khi thực hiện công tác thu thuế hải quan.

Lâu nay các cơ quan chức năng chỉ quan tâm đến hàng hoá thuộc vốn đầu tư nước ngoài khi nhập khẩu còn khi đã qua cửa khẩu thì hàng hoá đó coi như được thả nổi, nó có được sử dụng đúng mục đích vào việc xây dựng công trình đầu tư hay không thì chẳng ai quan tâm nên thực tế là đã xảy ra nhiều vụ việc lợi dụng chính sách thuế của Việt Nam để gian lận thương mại, trốn thuế cụ thể trong quá trình quản lý vật tư trang thiết bị miễn thuế để xây dựng cơ sở hạ tầng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện một lỗ hổng lớn làm cho vật tư trang thiết bị có thể thẩm thấu ra thị trường nội địa gây thất thu ngân sách, làm rối loạn thị trường nội địa. Qua thực tế trên có thể nói việc quản lý hàng hoá đầu tư nước ngoài hiện đang rất lỏng lẻo từ khâu quản lý đầu tư trên giấy phép xuất nhập khẩu đến khâu quyết toán công trình sau khi hoàn thành .

Đối với kiểm tra, giám sát, quản lý hàng hóa nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại một số khó khăn, vướng mắc cụ thể:



Liên quan đến nhập khẩu nguyên vật liệu, xuất khẩu sản phẩm gia công: Theo quy định hàng gia công được miễn thuế nhập khẩu và không chịu thuế giá trị gia tăng đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó đã không ít các doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi về thuế của Nhà nước để nhập khẩu một lượng lớn nguyên vật liệu mà không phải chịu thuế bằng cách nhập nhiều khai ít, cố tình nhập sai chủng loại nguyên vật liệu hoặc lợi dụng những quy định không chặt chẽ về mẫu mã để đưa phần nguyên vật liệu trong nước sản xuất được thay thế số nguyên vật liệu ngoại để hưởng số tiền chênh lệch… Khi xuất thành phẩm thì xuất ít khai nhiều để hợp thức hoá số nguyên vật liệu nhập thừa ban đầu hoặc khai khống, khai khác loại số sản phẩm thực xuất để bán số nguyên vật liệu nhập khẩu ra thị trường bằng cách hợp thức hoá hồ sơ, hoá đơn, chứng từ…

Liên quan đến quản lý định mức: Theo quy định định mức sử dụng, định mức tiêu hao, tỷ lệ hao hụt nguyên phụ liệu là thoả thuận thống nhất giữa bên thuê gia công và bên nhận gia công. Và định mức, tỷ lệ hao hụt doanh nghiệp đăng ký với Hải quan phải là định mức, tỷ lệ hao hụt thực tế doanh nghiệp thực hiện ( trong đó giao cho Giám đốc doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về định mức gia công)- là cơ sở tính toán tổng số nguyên phụ liệu nhập khẩu, số sản phẩm xuất khẩu, số nguyên phụ liệu thừa, thiếu, hư hỏng… Trên thực tế quản lý định mức tại các cơ quan Hải quan tồn tại:

+ Định mức ghi trong hợp đồng cao hơn định mức thực tế. Đây là tình trạng doanh nghiệp thông đồng với bên thuê gia công để gian lận. Sau đó khi làm thủ tục xuất khẩu sản phẩm doanh nghiệp khai định mức theo định mức ghi trong hợp đồng nhằm hợp thức hoá số nguyên liệu, vật tư dư thừa đem thiêu thụ nội địa. Vì qua kiểm tra thực tế nhiều lô hàng cho thấy định mức đăng ký cao hơn so với thực tế.

+ Hiện tượng doanh nghiệp "cắt dán" định mức, xuất khẩu sản phẩm không đúng định mức đã đăng ký với cơ quan hải quan, sử dụng một định mức cho nhiều mã hàng khác nhau.

+ Đăng ký định mức với cơ quan Hải quan không chính xác: không phân biệt vải chính, vải lót, đăng ký định mức không có khổ vải, copy định mức từ mã hàng này sang mã hàng khác dẫn tới tình trạng đăng ký định mức không phải thực tế của mã hàng xuất gây khó khăn trong việc thực hiện các khâu sau như: thanh khoản hợp đồng, giải quyết nguyên phụ liệu còn dư….



Liên quan đến gia công chuyển tiếp: cụ thể đó là việc chuyển nguyên liệu, vật tư dư thừa của hợp đồng này sang thực hiện hợp đồng gia công khác, hiện nay được thực hiện không chỉ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn cho phép chuyển từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác đã gây khó khăn trong công tác quản lý vì các hợp đồng gia công liên quan đến việc chuyển giao được thực hiện tại nhiều Chi cục Hải quan khác nhau đồng thời một số doanh nghiệp lợi dụng để gian lận, trốn thuế trong việc không đưa vào gia công mà tiến hành tiêu thụ nội địa sau đó giải thể, chây ỳ không thanh khoản…

Thanh khoản hợp đồng gia công: Thanh khoản hợp đồng gia công là công đoạn kết thúc của một hợp đồng gia công được tiến hành giữa doanh nghiệp và Hải quan. Căn cứ vào số lượng và định mức tiêu hao nguyên phụ liệu nhập khẩu, tỷ lệ hao hụt cho phép, số thành phẩm thực tế đã xuất khẩu khi hợp đồng gia công kết thúc, cơ quan Hải quan tiến hành thanh khoản hợp đồng gia công. Có thể nói khâu thanh khoản hợp đồng gia công giữ vai trò rất quan trọng, nếu không thanh khoản hợp đồng gia công đúng quy định thì các khâu trước đó trở nên vô nghĩa bởi đây chính là biện pháp quản lý chặt chẽ của cơ quan Hải quan đối với hàng gia công xuất, nhập khẩu. Nhưng trên thực tế, việc thanh khoản hợp đồng gia công vẫn tồn tại: Hồ sơ gia công còn tồn đọng nhiều và các doanh nghiệp thường không chủ động thanh khoản ngay khi kết thúc hợp đồng gia công mà thường đợi Hải quan nhắc nhở, thông báo mới bắt đầu thực hiện hợp đồng. Hồ sơ thanh khoản các doanh nghiệp nộp cho cơ quan Hải quan không đầy đủ : thiếu các mẫu biểu, thiếu xác nhận thực xuất, định mức đưa vào thanh khoản khác so với định mức đã đăng ký… đã ảnh hưởng tới thời gian thanh khoản hợp đồng gia công; một số doanh nghiệp kiến thức của cán bộ làm thủ tục hải quan còn hạn chế, thay đổi cán bộ làm thủ tục thường xuyên dẫn đến khó khăn cho doanh nghiêp trong việc theo dõi để thanh khoản hợp đồng gia công.

Ngoài ra, trong quá trình kiểm tra, giám sát, quản lý hàng hóa phục vụ cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Các quy định của pháp luật để quản lý hàng nhập đầu tư tạo tài sản cố định, loại hình gia công còn chậm đổi mới không theo kịp thực tế phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế. Nguyên nhân là do hiện nay, trong một bộ phận cán bộ làm công tác xây dựng chính sách vẫn còn tư tưởng đề cao vai trò công tác quản lý mà không chú trọng đến đảm bảo thỏa mãn các quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp. Mặc dù các quy định của pháp luật về hàng đầu tư, hàng gia công xuất nhập khẩu đã được nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi nhiều lần, tuy nhiên trong thực tế các quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Hệ thống pháp luật vừa thiếu lại vừa chưa đồng bộ, các văn bản hướng dẫn còn chậm. Các văn bản hiện nay có thời gian hiệu lực quá ngắn, nhiều văn bản vừa mới ban hành đã phát sinh các vấn đề vướng mắc phát sinh cần phải sửa đổi.

Việc phối hợp với các lực lượng khác để quản lý còn chưa chặt chẽ, đồng bộ và tích cực. Nguyên nhân là do còn thiếu và chậm trong việc xây dựng các quy chế phối hợp thực hiện, cung cấp thông tin giữa các ban ngành, cơ quan chức năng có liên quan để đảm bảo việc phối hợp quản lý thống nhất và đồng bộ.

Các quy định về hiện đại hoá thủ tục hải quan tuy đã được ban hành nhưng còn chậm so với tốc độ phát triển của hoạt động thương mại. Vì vậy vẫn còn tình trạng thủ tục hải quan điện tử đối với hàng đầu tư nhưng vẫn phải nộp kèm theo bộ hồ sơ giấy để kết hợp với làm thủ công. Điều này đã làm mất nhiều thời gian cho doanh nghiệp.

Các quy định nói chung về quản lý các doanh nghiệp tham gia hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là các doanh nghiệp gia công xuất khẩu cũng chưa thật sự chặt chẽ. Một số trường hợp thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích chiếm dụng tiền thuế chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Lợi dụng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, quản lý sau khi đăng ký kinh doanh quá lỏng lẻo để lập các địa chỉ ma hoặc thay đổi địa chỉ liên tục để trốn tránh việc kiểm tra của cơ quan quản lý, tự chấm dứt hoạt động một cách tuỳ tiện.

Nhân viên đi làm thủ tục hải quan của doanh nghiệp còn hạn chế về trình độ, nắm bắt các quy định mới chưa tốt dẫn đến việc khai hồ sơ hải quan thường xảy ra sai sót, thiếu các giấy tờ cần thiết trong bộ hồ sơ hải quan; điểm nữa là người khai hải quan vi phạm về thời gian chậm mở tờ khai hải quan do đó kéo dài thời gian làm việc giữa doanh nghiệp và hải quan trong việc thông quan lô hàng.

Thời gian hoạt động của các dự án đầu tư thường dài, máy móc thiết bị nhập để phục vụ hoạt động dự án thường phức tạp, trong nước chưa sản xuất được nên quản lý hải quan đối với hàng nhập đầu tư cũng gặp nhiều khó khăn đặc biệt là làm thủ tục nhập khẩu và quản lý việc sử dụng hàng nhập đã được miễn thuế. Ngoài ra, khó khăn trong áp mã hàng hóa đặc biệt phải có cơ quan trung gian đứng ra xác định làm tăng chi phí cho doanh nghiệp cũng như hải quan, và kéo dài thời gian làm thủ tục cho lô hàng, bất lợi cho doanh nghiệp, gây khó khăn cho giải phóng hàng tại bến bãi sân cảng.



tải về 0.82 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương